Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Luận văn thạc sỹ - Quản lý và tổ chức hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.54 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 5
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG THÉP VIỆT NAM.........................................5
Tiêu thụ..................................................................................................................51


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 5
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG THÉP VIỆT NAM.........................................5
Đơn vị: 1.000 tấn, %.............................................................................................12

Đơn vị: Tấn, %..........................................................................................................18
Đơn vị: Triệu USD, %...............................................................................................20
Đơn vị: Tấn, triệu USD.............................................................................................23
Tiêu thụ..................................................................................................................51


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu Đề tài
Sắt thép là mặt hàng thiết yếu đối với bất kỳ quốc gia nào trong việc phát
triển xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong sản xuất và xây dựng các
công trình công nghiệp cũng như dân dụng. Đặc biệt, Việt Nam là nước đang
phát triển, có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao thì nhu cầu sắt thép phục vụ
cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nhu cầu tiêu dùng
cho xây dựng và sản xuất công nghiệp cũng như dân dụng là rất cần thiết.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, tổng nhu cầu tiêu thụ thép của Việt Nam
tăng từ 3,2 triệu tấn năm 2000 lên khoảng 6,3 triệu tấn năm 2005, đạt tốc độ
tăng bình quân 14,35%/năm. Theo ước tính của Hiệp hội Thép Việt Nam, nhu
cầu thép xây dựng hiện nay vào khoảng 60% nhu cầu sử dụng thép của nền
kinh tế. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng nhu cầu tiêu thụ thép trong xây dựng


cơ bản đạt bình quân 18,40%/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ thép trong sản
xuất công nghiệp chỉ tăng bình quân 9,47%/năm. Thép phục vụ cho các ngành
công nghiệp cơ khí, chế tạo hiện tăng chậm hơn so với nhu cầu thép xây
dựng. Cũng trong giai đoạn này, sản lượng phôi thép tăng bình quân
13,27%/năm; sản lượng thép cán các loại tăng bình quân 19,9%/năm; sản
lượng thép ống tăng 14,1%/năm; sản lượng tôn mạ các loại tăng 11,50%/năm.
Sản xuất thép trong nước hiện không đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu thụ
nên hàng năm chúng ta vẫn phải nhập khẩu thép. Hiện Việt Nam hiện có quan
hệ nhập khẩu thép với khoảng 30 thị trường trên thế giới. Trong đó, 8 thị
trường hàng đầu là Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,
Malaixia, Thái Lan và Ucraina thường chiếm trên 80% tổng khối lượng nhập
khẩu thép vào Việt Nam. Trong khối lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam, tỷ
lệ thép thành phẩm thường chiếm khoảng gần 60% và phôi thép chiếm trên
40%. Trong giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng nhập khẩu thép thành phẩm
đạt bình quân 14,70%/năm, còn đối với phôi thép là 13,03%/năm. Trong cơ
cấu thép thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam, thép lá chiếm tỷ trọng cao
nhất, khoảng 60%, tiếp đến là thép tấm chiếm khoảng trên 20%, các loại thép
hình, thép ống chiếm khoảng trên 10%, thép xây dựng và các loại thép còn lại
chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng nhập khẩu.
1


Toàn bộ lượng thép sản xuất và nhập khẩu ở nước ta được phân phối trên
thị trường nội địa bởi nhiều chủ thể khác nhau như:
(1) Các doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Thép (VSC)
(2) Các công ty cổ phần, công ty TNHH và các liên doanh ngoài VSC có
sản xuất và kinh doanh thép;
(3) Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sản xuất và kinh doanh thép;
(4) Các doanh nghiệp chuyên kinh doanh thép;
(5) Các hộ gia đình tại các làng nghề và các cửa hàng bán lẻ độc lập

Theo số liệu điều tra thống kê năm 2005 của Tổng Cục thống kê, cả nước
có tới 1.010 doanh nghiệp và 1.985 hộ kinh doanh trong ngành hàng sắt thép,
tạo thành hệ thống mạng lưới phân phối sắt thép khá phức hợp trên thị trường.
Hệ thống phân phối sắt thép trong nước trong thời gian qua đã đạt được
những thành công đáng kể như:
- Đã hình thành các kênh phân phối sắt thép và vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Số lượng kênh phân phối thép ngày càng
tăng lên và sự vận hành của các kênh đã thông suốt hơn.
- Các kênh phân phối sản phẩm thép trên thị trường nước ta cũng đã
phát triển nhanh và hết sức đa dạng về chủ sở hữu, về tập khách hàng (theo
qui mô nhu cầu tiêu thụ, theo khu vực thị trường...), về điều kiện và khả năng
tiếp cận khách hàng của nhà sản xuất.
- Đã hình thành và phát triển được một số kênh dọc lớn, có tầm bao phủ
rộng và có thương hiệu trên thị trường, được khách hàng tin tưởng, như kênh
phân phối của Tổng công ty thép Việt Nam, kênh phân phối thép của Tập
đoàn Hoà Phát...
- Sự phát triển nhanh về số lượng các cơ sở, cửa hàng kinh doanh bán lẻ
độc lập đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và các nhà sản xuất tiêu thụ
sản phẩm trên thị trường.
Bên cạnh những thành tựu mà hệ thống phân phối thép trên thị trường
nội địa đã đạt được thì hệ thống phân phối thép ở nước ta vẫn còn tồn tại
những hạn hạn chế như:
2


- Số lượng kênh nhiều nhưng phần lớn là các kênh nhỏ và cắt khúc theo
từng đoạn kênh.
- Có rất ít các nhà sản xuất, cung ứng thép phát triển được các kênh phân
phối sản phẩm của mình. Hơn nữa, kênh phân phối thuộc hệ thống tổ chức
của các nhà sản xuất này cũng mới chỉ đảm nhận tiêu thụ được khoảng 1/3

sản lượng sản xuất, còn lại nhà sản xuất phải phụ thuộc vào các kênh phân
phối bên ngoài hệ thống tổ chức của mình.
- Phần lớn các kênh phân phối được hình thành một cách tự phát, thiếu
định hướng chiến lược về thị trường và khách hàng, vai trò lãnh đạo kênh
không được phân định rõ ràng, các thành viên kênh thiếu tính liên kết để tạo
sức mạnh.
- Cấu trúc của các kênh phân phối khá phức tạp, có nhiều cấp trung gian
do chính các trung gian trong kênh phân phối tạo ra.
- Các nhà phân phối lớn, nhất là các tổng đại lý mới là người kiểm soát
trực tiếp và có quyền lực thực sự trong các kênh phân phối. Trong khi đó, các
nhà sản xuất, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước với vai trò điều tiết, ổn định
giá cả thị trường lại không phải là người thực sự có quyền kiểm soát các kênh
phân phối.
Vì vậy, để thực hiện tốt Quyết định số 145/2007/QĐ-TTg ngày 4/9/2007
của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành thép Việt
Nam giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025”. Theo đó, nhu cầu thép
thành phẩm đến năm 2010 là 11-12 triệu tấn; năm 2015 là 15-16 triệu tấn;
năm 2025 khoảng 24-25 triệu tấn; sản xuất phôi thép năm 2010 đạt 3,5 - 4,5
triệu tấn, năm 2015 đạt 6-8 triệu tấn và đến năm 2025 đạt từ 12 - 15 triệu tấn;
sản xuất thép thành phẩm đạt 6,3-6,5 triệu tấn vào năm 2010; 11 - 12 triệu tấn
vào năm 2015; 19-22 triệu tấn vào năm 2025 (trong đó có 11-13 triệu tấn thép
dẹt và 0,2 triệu tấn thép đặc biệt). Việc nghiên cứu đề tài “Quản lý và tổ chức
hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng ở Việt Nam” có ý cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá những nhân tố trong và ngoài nước tác động đến việc quản lý
và tổ chức hệ thống phân phối mặt hàng sắt thép ở Việt Nam

3



- Đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu mặt hàng sắt
thép, cũng như thực trạng công tác quản lý và tổ chức hệ thống phân phối sắt
thép của Việt Nam trong thời gian qua;
- Đưa ra mục tiêu và phương hướng tổ chức và quản lý hệ thống phân
phối mặt hàng sắt thép của Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý và tổ chức phân
phối mặt hàng sắt thép của Việt Nam trong thời gian tới năm 2015 và định
hướng đến năm 2020.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thị trường thép Việt Nam
Chương 2: Đánh giá thực trạng công tác quản lý và tổ chức hệ thống
phân phối mặt hàng thép xây dựng ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện công tác quản lý, tổ chức hệ
thống phân phối mặt hàng thép xây dựng và các giải
pháp thực hiện

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG THÉP VIỆT NAM
1.1. SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ THÉP CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2006

1.1.1. Thực trạng sản xuất thép trong nước
Ngành thép Việt Nam hiện nay còn khá non trẻ, được xây dựng từ những
năm 60, nhưng mới chỉ thực sự phát triển trong một thập kỷ qua, với tốc độ
tăng trưởng trung bình khoảng 13-15%/năm.
Trong giai đoạn từ năm 1963 đến năm 1989, ngành thép hầu như không

phát triển được. Nguồn thép tiêu thụ trơng nước chủ yếu được nhập khẩu từ
Nga (Liên Xô cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
a. Chủng loại thép sản xuất trong nước
* Các chủng loại thép đã sản xuất ổn định trong nước
- Thép xây dựng:
+ Thép cuộn φ 5,5 ÷ φ 10 (CT2, CT3)
+ Thép thanh tròn trơn: φ 10 ÷ φ 40 mm (CT3)
+ Thép thanh vằn: φ 10 ÷ φ 40 mm.
(+) Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) và tiêu chuẩn Nga (GOCT) bằng
thép luyện trong nước và nhập khẩu phôi từ Nga, Trung Quốc gồm các mác
thép CT5 (AII) 25T2C (AII), 20 XT -2U (AIV).
(+) Theo tiêu chuẩn Nhật Bản (JIS): Các SD 295, SD 345, SD 390, SD
190 bằng thép luyện trong nước và nhập khẩu.
(+) Ngoài ra theo đặt hàng có thể sản xuất thép thanh vằn theo tiêu chuẩn
của các nước khác như Anh, Mỹ, Austrailia...
+ Các sản phẩm thép sau cán dùng cho xây dựng như đinh gỗ, dây buộc,
lưới rào...
- Thép kết cấu:
Các loại thép U, I, V (góc) thép dẹt từ mác thép CT3 luyện trong nước
hoặc nhập khẩu.

5


+ Chữ U: từ U16 trở xuống
+ Chữ I: từ I 16 trở xuống
+ Chữ V (góc): từ góc V14 trở xuống.
+ Thép dẹt có khổ rộng dài nhất 200 mm, dày tối thiểu 10 mm.
- Thép ống hàn:
+ Thép ống tròn hàn điện từ phôi cuộn cán nóng nhập khẩu có đường

kính dưới 125 mm (gồm ống mạ kẽm và ống đen, mác thép chủ yếu là CT3).
+ Thép ống hình vuông hàn có kích thước nhỏ hơn 120 mm (ống đen với
mác chủ yếu là CT3).
- Thép cho ngành cơ khí chế tạo:
+ Thép tròn trơn CT3 có đường kính lớn nhất đến 130 mm.
+ Thép dây kéo cuộn CT3.
- Thép đúc hợp kim và hợp kim Ferô:
+ Các nhà máy cơ khí có lò trung tần để có thể nấu được các loại gang,
thép hợp kim thông dụng để đúc phôi chi tiết.
+ Sản phẩm: Ferô.
(+) Ferô crôm cacbon cao.
(+) Ferô mangan cacbon cao.
* Các chủng loại sản phẩm đã sản xuất được trong nước nhưng chưa
ổn định.
- Thép chế tạo:
+ Thép trơn tròn từ thép cacbon chất lượng, thép hợp kim thấp có đường
kính đến 120 mm từ phôi luyện trong nước và nhập khẩu.
+ Dây thép φ 5,5 ÷ 10 từ thép cacbon chất lượng, thép cacbon thấp (thép
que hàn) và thép hợp kim thấp từ phôi nhập hoặc luyện trong nước.
- Thép hợp kim:
Các loại phôi rèn từ các mác thép không gỉ các loại, thép làm khuôn đột
dập nóng và lạnh, thép lò xo, thép vòng bi có trọng lượng dưới 30 kg.

6


Tính ổn định của việc sản xuất các loại sản phẩm trên không cao vì các
lý do sau:
(+) Do khối lượng đặt hàng quá nhỏ.
(+) Do giá thành sản xuất trong nước còn quá cao.

(+) Chất lượng sản phẩm chưa cao, thiếu tính ổn định.
* Các chủng loại sản phẩm thép trong nước chưa sản xuất được
- Thép hình chữ U, I, V (góc) có kích thước lớn hơn các kích thước đã
nêu trên có các chủng loại thép hình thức phức tạp khác.
- Thép tấm, lá các loại (cho tất cả các mác thép).
- Thép cán, phôi rèn từ các mác thép đặc biệt khác ngoài thép cacbon,
thép hợp kim thấp thông thường, trong đó bao gồm:
+ Thép hợp kim, thép cacbon chất lượng ở dạng phôi thép cán.
+ Thép cacbon chất lượng, thép hợp kim ở dạng phôi rèn có đường kính
lớn hơn dùng cho chế tạo máy.
+ Các loại phôi từ các mác không gỉ các loại, thép làm khuôn đột dập
nóng và lạnh, thép lò xo, thép vòng bi có trọng lượng lớn hơn 30 kg.
- Thép ống tròn, hình ống có đường kính (cạnh) lớn hơn (125) 120 mm.
- Thép calíp dạng thanh cuộn các loại dùng trong chế tạo máy từ các loại
thép hợp kim.
- Thép dây cán nóng từ các mác thép cacbon chất lượng, thép hợp kim,
thép không gỉ.
- Thép ống không hàn các loại.
b. Công nghệ luyện thép.
Công nghệ đang được sử dụng để luyện thép tại Việt Nam là lò điện,
nguồn nguyên liệu cho lò điện chủ yếu là thép phế.
Việt Nam hiện có khoảng 25 lò AC cỡ từ 6 - 30 tấn/mẻ do nước ta tự chế
tạo được hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất nhỏ và
các làng nghề cũng sử dụng lò trung tần để luyện thép.
7


Công nghiệp sản xuất thép của Việt Nam hiện mới ở giai đoạn đầu của
sự phát triển, chỉ tập trung phát triển các nhà máy cỡ nhỏ, cỡ trung về sản
xuất thép cán thanh, thép cuộn, thép hình cỡ nhỏ và gia công sau cán. Sản

xuất thép dẹt (tấm, lá) hầu như chưa có, tới tháng 5/2005 mới có nhà máy cán
thép cuộn cán nóng đầu tiên (nhập thép cuộn cán nóng làm nguyên liệu) ở
Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, công suất 400.000 tấn/năm. Còn lại thép
tấm, lò cán nóng, thép chế tạo, thép hợp kim… đều phải nhập khẩu. Về công
nghiệp luyện thép, năm 2006 mới chỉ ở mức 1,4 triệu tấn phối.
Hiệp hội Thép cho biết, hiện nay công suất luyện thép lò điện của các
doanh nghiệp vào khoảng gần 3,3 triệu tấn (miền Bắc 2,1 triệu tấn/năm; miền
Nam 1,1 triệu tấn/năm; miền Trung 0,1 triệu tấn/năm).
Về thiết bị các lò luyện thép, trước đây, ngoài Công ty Gang thép Thái
Nguyên và Công ty Thép miền Nam có những lò luyện thép dung tích cỡ
trung bình, còn một số lò luyện thép được xây dựng ở Cao Bằng, Thái
Nguyên dung tích rất nhỏ chỉ khoảng 28 - 30 m 3. Tuy nhỏ vậy, vẫn không đủ
nguyên liệu (quặng sắt) nên hoạt động cầm chừng, thậm chí lò cao xây dựng ở
Bắc Cạn từ khi xây dựng xong vẫn không thể hoạt động, hiện phải đập đi để
xây mới.
Những năm gần đây xu hướng trên thế giới là đầu tư vào thiết bị công
nghiệp thép có quy mô lớn, lò cao dung tích khoảng 2.000 - 3.000 m 3, lò thổi
ôxy luyện thép tròn 100 tấn/mẻ... Tại Trung Quốc, theo “Chính sách phát
triển của ngành công nghiệp thép” ban hành ngày 20/7/2005, nghiêm cấm vận
hành các thiết bị có công suất nhỏ (lò cao dưới 300 m 3, lò thổi oxy và lò điện
dưới 20 tấn/mẻ) do các lò luyện thép nhỏ tiêu hao năng lượng lớn, chi phí cao,
chất lượng kém, khả năng cạnh tranh thấp và ô nhiễm môi trường. Còn ở Việt
Nam, do bị hạn chế về vốn đầu tư, nên hiện nay hầu hết các doanh nghiệp
Việt Nam chọn mua thiết bị công nghệ có công suất nhỏ, hoặc trung bình do
các nước phát triển thải loại (ví dụ như Nhà máy luyện kim công suất 300.000
tấn/năm Cửu Long - Vinashin khởi công xây dựng tại Yên Bái trong quý
I/2007; Nhà máy lò cao, lò điện ở Hải Phòng của Công ty Thép Vạn Lợi công
suất dự kiến 500.000 tấn/năm; Nhà máy liên doanh giữa Công ty Thép Vạn
Lợi với Công ty Thương mại và Khoáng sản Hà Tĩnh xây dựng 2 lò cao dung
tích 220m3, lò thổi ôxy 40 tấn/mẻ, cũng đã chính thức khởi công tháng

6/2007; Nhà máy Thép Vạn Lợi ở Bắc Cạn vừa khởi công xây dựng tháng
8


6/2007 với dây chuyền công nghệ 2 lò cao 220 m 3, lò thổi ôxy 40 tấn/mẻ.
Công ty Cổ phần Thép Đình Vũ - Hải Phòng dự định xây dựng 1 lò cao 230
m3 để cung cấp gang lỏng cho lò điện 30 tấn/mẻ hiện đang sản xuất).
c. Nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất
- Quặng sắt
Đến nay ngành địa chất đã phát hiện trên 200 điểm quặng lớn nhỏ trong
cả nước. Trong đó có 91 mỏ và điểm mỏ quặng sắt đã được thăm dò ở các
mức độ khác nhau với trữ lượng địa chất khoảng 1,2 tỷ tấn. Trữ lượng đã
thăm dò đạt gần 1 tỷ tấn, tập trung ở các mỏ: Thạch Khê (Hà Tĩnh), Quý Xa
(Lào Cai), Trại Cau, Tiến Bộ (Thái Nguyên), Cao Bằng và Hà Giang, với trữ
lượng khoảng 850 triệu tấn. Trong các mỏ chỉ có mỏ sắt Trại Cau đã được
khai thác ở quy mô công nghiệp để cấp quặng cho các lò cao của Công ty
Gang thép Thái Nguyên, từ năm 1963 đến nay đã khai thác được 7,5 triệu tấn
quặng nguyên khai. Hiện nay mỏ Trại Cau sắp hết quặng, chỉ còn lại khoảng
3,6 triệu tấn quặng nằm phân tán rải rác, khó khai thác.
Đáng kể nhất là các mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) và mỏ Quý Xa (Lào Cai).
Trữ lượng có thể chắc chắn khai thác được là 400 triệu tấn. Tuy nhiên, điều
kiện khai thác và vận chuyển lại không thuận lợi. Trữ lượng quặng sắt này
không đủ để đảm bảo phát triển một ngành sản xuất thép khép kín với quy mô
công suất 15 - 20 triệu tấn/năm để đáp ứng nhu cầu thép vào những năm 2015
- 2020 của nước ta. Tuy vậy, nguồn quặng sắt trong nước là thế mạnh của
Việt Nam so với các nước trong khu vực, có thể đóng vai trò hỗ trợ tích cực
cho ngành sản xuất thép phát triển.
- Thép phế liệu
Sau năm 1975, chấm dứt thời kỳ chiến tranh kéo dài, nguồn sắt thép phế
liệu do chiến tranh để lại ở nước ta có hàng chục triệu tấn. Thời gian đó,

ngành luyện kim trong nước chưa phát triển, mỗi năm chỉ sản xuất được
50.000 tấn đến 60.000 tấn thép, sử dụng từ 60.000 đến 70.000 tấn sắt thép phế
liệu, nên hầu hết các địa phương thu mua thép phế liệu để xuất khẩu lấy ngoại
tệ. Tới những năm 1985 - 1986, Chính phủ mới hạn chế và sau đó cấm hẳn
xuất thép phế liệu để giữ lại làm nguyên liệu cho ngành luyện kim trong nước.
Ở thời kỳ kinh tế bao cấp, giá thu mua sắt thép phế liệu do Nhà nước qui định
quá thấp, không khuyến khích dân thu gom, nên các công ty thép không thể
9


mua được thép phế liệu cho các lò điện nấu luyện, Công ty Thép miền Nam
vào những năm 1979 - 1980, sản lượng chỉ đạt 25.000 - 30.000 tấn/năm.
Tới những năm 90 thế kỷ XX, nhờ đổi mới chính sách kinh tế của đất
nước, ngành luyện kim trong nước, với 22 lò luyện thép, sản lượng phôi thép
đã tăng dần. Cũng từ năm 1990, các công ty sản xuất thép gặp nhiều khó khăn
trong việc thu mua thép phế, do các nguyên nhân:
- Nguồn phế thải chiến tranh thu gom để xuất khẩu ồ ạt trong những năm
80 thế kỷ trước đó làm cho nguồn phế thải trong nước cạn kiệt dần.
- Các công ty thép đầu tư thêm lò điện cỡ lớn, với công suất 30 tấn/mẻ ở
Thái Nguyên và 20 tấn/mẻ ở miền Nam nên công suất sản xuất phôi tăng cao,
đòi hỏi nguyên liệu thép phế nhiều hơn trước.
- Các lò điện thủ công ở các làng nghề cũng phát triển ồ ạt, tranh giành
nguồn thép phế liệu với các công ty thép Nhà nước.
- Giá thép phế được đẩy lên cao liên tục do khan hiếm và do cung thấp
hơn cầu.
Trước năm 1995, Việt Nam là nước xuất khẩu thép phế (từ 2-3 triệu
tấn/năm). Từ năm 1998, Việt Nam đã phải nhập khẩu thép phế cho nhu cầu
luyện thép của các lò điện do phế liệu trong chiến tranh đã cạn, nhu cầu tiêu
dùng thép chưa cao (bình quân thép tiêu dùng trên đầu người 78 kg, lượng
thép phế ít).

Từ năm 2000, để có đủ nguyên liệu sản xuất, các công ty sản xuất thép
đã phải tìm nguồn thép phế nhập khẩu từ nước ngoài (chủ yếu từ Nga,
Nhật…) với giá cao (110 - 120 USD/tấn) để bổ sung hoà trộn với thép phế thu
mua trong nước có giá rẻ hơn, nhằm bảo đảm giá thành phôi thép ngang với
giá phôi thép nhập khẩu. Do đó xuất hiện một số công ty phá dỡ tàu cũ, nhập
tầu của nước ngoài hoặc thu mua tàu cũ trong nước tháo dỡ, thu hồi các tấm
thép và phụ tùng của tàu còn sử dụng để bán cho các nhà máy luyện thép làm
nguyên liệu lò điện. Tuy nhiên, việc tháo dỡ tàu cũ cũng còn nhiều khó khăn
trở ngại, nên chưa phát triển, do nguồn tàu cũ không nhiều, vốn mua tàu cũ
đòi hỏi lớn, vấn đề vị trí tháo dỡ và bảo vệ môi trường nơi tháo dỡ cũng phải
đầu tư mới có thể tiến hành.
10


d. Sản lượng sản xuất
Năm 1990, sự ra đời của Tổng Công ty Thép Việt Nam đã góp phần quan
trọng vào sự bình ổn thị trường thép trong nước. Năm 1996 là năm đánh dấu
sự chuyển mình lớn của ngành thép Việt Nam khi có 5 công ty thép ra đời:
Công ty thép Việt Nhật (VinaKyoei), Công ty liên doanh thép Việt Úc
(Vinausteel), Công ty liên doanh thép Việt Hàn (VPS), Công ty liên doanh
thép Việt Nam - Singapo (Nasteel) và Công ty liên doanh thép Việt Nam Đài Loan (Vinatafong), với công suất khoảng 800.000 tấn/năm.
Sau 20 năm đổi mới, sản xuất thép ở Việt Nam đã có bước phát triển
nhanh chóng, đến nay các nhà máy thép đã có công suất luyện thép lò điện là
1.200.000 tấn/năm, công suất cán là 5,8 triệu tấn/năm và gia công sau cán là
900 ngàn tấn/năm. Hiện tại cả nước có trên 70 doanh nghiệp sản xuất thép và
hàng ngàn hộ sản xuất cá thể. Cơ cấu các cơ sở sản xuất thép như sau:
+ Tổng công ty thép Việt Nam (VSC) với 13 đơn vị thành viên và 14 đơn
vị liên doanh chiếm 32% thị phần.
+ Các doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài chiếm 30% thị phần.
+ Các DNNN ngoài Tổng công ty thép Việt Nam chiếm 15% thị phần.

+ Các công ty cổ phần, TNHH, hợp tác xã (HTX) và xí nghiệp tư nhân
và các hộ gia đình chiếm 23% thị phần.
Cơ cấu sản lượng thép sản xuất năm 2007 cho thấy, sản lượng của Công
ty thép Thái Nguyên chiếm 12,7%, Công ty thép Miền Nam 17,38%, Công ty
thép Pomina 14,79%, Công ty thép Vinakyoei 8,65%, Công ty thép Hoà Phát
5,61% và Công ty thép Việt Hàn chiếm 4,24%,...

11


Giai đoạn 2001 - 2005, số lượng các doanh nghiệp mới gia nhập ngành thép
tiếp tục tăng nhanh, đồng thời các doanh nghiệp hiện có cũng gia tăng đầu tư tăng
công suất và mở rộng sản phẩm. Tổng đầu tư của ngành thép trong 5 năm qua,
theo ước tính của Hiệp hội Thép (VSA) đạt 990 triệu USD, trong đó VSC đã đầu
tư 550 triệu USD chiếm 61,11% tổng đầu tư của ngành thép. Trong giai đoạn này,
cùng với sự gia tăng đầu tư của các doanh nghiệp ngành thép, sản lượng các sản
phẩm thép cũng tăng lên với tốc độ cao: Sản lượng phôi thép tăng bình quân
13,53%/năm; sản lượng thép cán các loại tăng bình quân 20,07%/năm; sản lượng
thép ống tăng 14,29%/năm; sản lượng tôn mạ các loại tăng 11,67%/năm.
Bảng 1.1: Sản lượng sản xuất của ngành thép trong nước
Đơn vị: 1.000 tấn, %
2000
1. Phôi thép

590

2001

2002


2003

2004

2005

585

696

825

967

1.100

-0,85

18,97

18,53

17,21

13,75

Sản lượng của VSC

320


318,4

430

555

695

820

Tỷ trọng so cả nước

54,23

54,42

61,78

67,27

71,87

74,54

2. Thép cán các loại

1.570

1.900


2.503

2.954

3.280

3.888

21,02

31,74

18,02

11,04

18,54

Sản lượng của VSC

518,3

658,7

796,0

908,0

1.058


1.200

Tỷ trọng so cả nước

33,01

34,67

31,80

30,73

32,26

30,86

3. Ống thép

103,5

125,9

155

167

188

200


21,64

23,11

7,74

12,57

6,38

Sản lượng của VSC

22,5

33,9

42,2

47,46

51,6

55,0

Tỷ trọng so cả nước

21,74

26,93


27,20

28,42

27,45

27,50

4. Tôn mạ các loại

180,0

184,5

195,0

227,5

261,2

310,0

2,50

5,69

16,67

14,81


18,68

Sản lượng của VSC

66,0

63,9

70,3

75,6

87,4

94,1

Tỷ trọng so cả nước

36,67

34,63

36,05

32,23

33,46

30,35


Tăng
13,53

20,07

14,29

11,67

Nguồn: Số liệu của Tổng Công ty Thép năm 2007
Sản phẩm thép rất đa dạng, chủ yếu được chia thành hai nhóm chính là
thép dài (hay còn gọi là thép xây dựng như thép hình, thép thanh và thép cây)
và thép dẹt (gồm các loại thép tấm, thép lá, thép cán nóng và cán nguội). Hiện
nay ở Việt Nam nhu cầu tiêu thụ thép xây dựng chiếm trên 60% tổng tiêu thụ
của toàn ngành thép, còn lại thuộc vè thép dẹt.
12


Theo thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, trong năm 2007 sản lượng
sản xuất phôi trong nước đạt 2.022.000 tấn, tăng 44% so với năm 2006. Thép
xây dựng đạt 3.828.137 tấn, tăng 14% so với năm 2006. Trong 6 tháng đầu
năm 2008, sản lượng théo xây dựng toàn ngành đạt 1.966.416 tấn, tăng 6,7%
so với cùng kỳ năm 2007 (số liệu không bao gồm sản lượng sản xuất của các
Hiệp hội), sản xuất phôi thép đạt 930.000 tấn.

Trong
13


giai đoạn 2000 - 2006, sản lượng thép cán và sản phẩm kéo dây tăng bình

quân 16,16%/năm, trong đó năm 2002 đạt tốc độ tăng mạnh nhất, đạt 30,75%
và năm 2005 tốc độ tăng trưởng thấp nhất, chỉ đạt 3,77%. Cùng với tốc độ
tăng trưởng của thép cán và sản phẩm kéo dây, tốc độ tăng bình quân hàng
năm của thép thỏi rất cao, bình quân giai đoạn 2000 - 2005 đạt 137,11%/năm.
Trong đó, kỷ lục năm 2001 đạt 541,67%, tuy nhiên lại có xu hướng giảm
trong những năm tiếp theo, năm 2005 chỉ đạt 8,8%.
Bảng 1.2: Sản xuất thép cán và sản phẩm kéo dây giai đoạn 2000 - 2007
Đơn vị: 1.000 tấn

Tổng số

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

1.58
3


1.914

2.50
3

2.95
4

3.27
9

3.40
3

3.82
7

4.200

Trong đó
- Nhà nước

567

694

796

908 1.252 1.134 1.268 1.300


- Ngoài Nhà nước

175

305

567 1.207 1.187 1.284 1.679 1.700

- ĐTNN

841

915 1.140

839

840

985

880 1.200

Tỷ trọng
- Nhà nước

35,82

36,26 31,80 30,74 38,18 33,32 33,13 30,95

- Ngoài Nhà nước


11,05

15,94 22,65 40,86 36,20 37,73 43,87 40,48

- ĐTNN

53,13

47,81 45,55 28,40 25,62 28,95 22,99 28,57

Tổng

100,
0

100,0
0

100,
0

100,
0

100,
0

100,
0


100, 100,0
0

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007
Theo số liệu thống kế cho thấy, trong cơ cấu sản lượng thép cán và các
sản phẩm kéo dây phân theo thành phần kinh tế có sự thay đổi khá rõ ràng. Tỷ
trọng của thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tăng lên rất nhanh. Thể hiện, nếu
năm 2000 tỷ trọng của thành phần kinh tế này chỉ chiếm 11,05% thì đến năm
2004 con số này là 36,2% và năm 2006 là 40,48%. Trong khi đó, trái ngược với
thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, thành phần kinh tế có vồn đầu tư nước ngoài
lại có xu hướng giảm tỷ trọng khá nhanh. Thể hiện năm 2000, tỷ trọng sản lượng
sản xuất của thành phần kinh tế này là 53,13% thì đến năm 2004 giảm xuống
còn 25,62% và năm 2007 là 28,57%. Trong khi đó, tỷ trọng của thành phần kinh
14


tế Nhà nước lại có mức biến động rất nhỏ trong giai đoạn 2000 - 2007.
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu sản lượng thép cán và sản phẩm kéo dây theo
thành phần kinh tế
Năm 2000

Năm 2007

29%

36%

31%


53%
11%

- Nhµ n íc

- Ngoµi Nhµ n íc

40%

- §TNN

- Nhµ n íc

- Ngoµi Nhµ n íc

- §TNN

Nguồn: Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2007
1.1.2. Tình hình tiêu thụ thép trong nước
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội trong thời gian qua,
tiêu thụ thép trong nước cũng đạt tốc độ tăng trưởng rất cao. Nguồn thép lưu
thông tại thị trường trong nước được chia thành 3 nhóm chính:
- Nhóm vừa được nhập khẩu lại vừa được sản xuất trong nước như thép
xây dựng, thép ống mạ kẽm (chiếm gần 60% tổng lương sắt thép);
- Nhóm hoàn toàn nhập khẩu, bao gồm các loại thép đặc chủng như thép
định hình loại lớn, thép lò xo, thép dây, thép tấm cán nóng hoặc cán nguội, thép
kỹ thuật khác. Nhóm thép này chiếm 38% khối lượng sắt thép tiêu thụ trong nước;
- Nhóm thứ ba chỉ được sản xuất trong nước, phục vụ cho nhu cầu cá biệt
và có yêu cầu kỹ thuật không cao như thép để làm hoa văn cửa, tường rào.
Nhóm này chỉ chiếm 2 - 3% khối lượng thép lưu thông trên thị trường.

Theo số liệu thống kê cho thấy, trong suốt giai đoạn từ 1998 - 2000 việc sản
xuất và nhập khẩu thép tăng rất nhanh, tuy nhiên chỉ đáp ứng được khoảng 51% nhu
cầu tiêu dùng trong nước. Trong giai đoạn 2001 - 2007, tiêu thụ thép tiếp tục duy trì
tốc độ tăng trưởng mạnh, bình quân đạt 19,36%/năm. Thể hiện, tổng nhu cầu tiêu thụ
thép của Việt Nam tăng từ 3,22 triệu tấn năm 2000 lên 6,3 triệu tấn năm 2005, đến
15


năm 2006 đạt gần 7,2 triệu tấn (trong đó sản xuất trong nước là 4,7 triệu tấn, nhập
khẩu thép thành phẩm là 3,8 triệu tấn) và năm 2007 đạt 10,4 triệu tấn (tăng trên
44,4% so với năm 2006) và là mức tăng cao nhất của khu vực Đông Nam Á. Tiêu
thụ thép 6 tháng đầu năm 2008 đạt 1.850.395 tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2007.
Theo ước tính của Hiệp hội Thép Việt Nam, nhu cầu thép xây dựng hiện
nay vào khoảng 60% nhu cầu sử dụng thép của nền kinh tế. Trong giai đoạn
này, tốc độ tăng nhu cầu tiêu thụ thép trong xây dựng cơ bản đạt bình quân
18,40%/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ thép trong sản xuất công nghiệp chỉ
tăng bình quân 9,47%/năm. Thép phục vụ cho các ngành công nghiệp cơ khí,
chế tạo hiện tăng chậm hơn so với nhu cầu thép xây dựng.
Bảng 1.3: Tình hình tiêu thụ thép xây dựng năm 2006
của Tổng công ty Thép Việt Nam
Khu vực
Bắc

Mặt hàng

Nam

Trung

Cuộn


Thanh

Tổng tiêu
Thị phần
thụ

Hình

VSC

328,890

511,192

120,151

317,730

617,195

85,877

1,020,802

40,00

TISCO

316,687


515

74,811

59,527

294,809

40,367

394,703

15,47

SSC

12,000

508,841

12,000

230,524

314,686

45,510

590,720


23,15

DNS

-

1,836

19,196

21,032

-

-

21,032

0.,82

203

-

14,144

6,647

7,700


-

14,347

0,56

285,569

286,872

61,382

209,015

467,605

-

676,620

26,51

3,911

217,014

6,553

59,994


199,605

-

259,548

10,17

101,078

14,475

16,648

67,667

64,534

-

132,201

5,18

Viausteel

98,504

18,853


38,181

-

155,538

-

155,538

6,09

Nasteelvina

82,076

-

-

50,035

32,041

-

82,076

3,22


-

36,530

-

31,319

15,938

-

47,257

1,85

424,255

264,502

119,484

287,161

557,387

9,998

854,546


33,49

SEE

46,000

10,837

14,014

33,004

37,847

-

70,851

2,78

NamDo

43,239

-

85

8,527


34,797

-

43,324

1,70

HPS

64,800

-

11,800

-

76,600

-

76,600

3,00

Hoà phát

95,798


-

15,627

78,309

33,116

-

111,425

4,37

Sunsteel

-

22,345

-

-

23,564

-

23,564


0,92

Pomina

-

218,320

70,592

137,644

186,356

9,998

333,998

13,09

100,046

-

4,962

9,806

95,202


-

105,008

4,11

18,524

-

1,347

19,871

-

-

19,871

0,78

9,670

-

-

-


9,670

-

9,670

0,38

Cevimetal
LD với VSC
Vinakyoei
VPS

Taydo
Ngoài VSC

Việt ý
CP Thép TN
Vinafco

16


Vinakansai
Tổng cộng

46,178

13,000


1,057

1,038,714 1,062,566

301,775

-

60,235

-

60,235

2,36

813,906 1,642,187

95,875

2,551,968

100,00

Nguồn: Số liệu của Tổng công ty Thép năm 2007
Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Thép Việt Nam, tiêu thụ thép
của Tổng công ty năm 2006 đạt 2,55 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ của Tổng
công ty đạt 1,02 triệu tấn, liên doanh với Tổng công ty đạt 676,6 ngàn tấn,
ngoài Tổng công ty đạt 854,5 ngàn tấn. Xét cơ cấu tiêu thụ thép của Tổng

công ty Thép cho thấy, tiêu thụ thép của khu vực miền Bắc và miền Nam
chiếm tỷ trọng chủ yếu, miền Bắc đạt 1,04 triệu tấn, chiếm 40,78%, miền
Nam đạt 1,06 triệu tấn, chiếm 41,57%, còn lại là miền Trung 301,78 ngàn tấn,
chiếm 17,65%. Xét cơ cấu tiêu thụ thép của Tổng công ty Thép Việt Nam
theo chủng loại sản phẩm cho thấy, tiêu thụ thép cuộn đạt 813,91 ngàn tấn,
chiếm 31,9%, thép thanh đạt 1,64 triệu tấn, chiếm 64,3%, thép hình đạt 95, 88
ngàn tấn, chiếm 3,8%.

Xem xét tiêu dùng thép theo vùng lãnh thổ cho thấy, nhu cầu tiêu thụ tập
trung chủ yếu ở hai vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng. Riêng 2
vùng này chiếm khoảng 70% khối lượng thép tiêu thụ cả nước, trong khi 6
vùng còn lại chỉ chiếm khoảng 30%. Cụ thể, tỷ lệ tiêu thụ thép theo các vùng
như sau: Đông Bắc 10%; Tây Bắc 1,2%; Đồng bằng sông Hồng 31,2%; Bắc
Trung bộ 7,8%; Nam Trung bộ 5,1%; Tây Nguyên 1,1%; Đông Nam bộ
38,2%; Đồng bằng sông Cửu Long 5,4%.
17


1.2. XUẤT NHẬP KHẨU MẶT HÀNG SẮT THÉP CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2006

1.2.1. Hoạt động nhập khẩu các sản phẩm sắt thép
Trước năm 1990, việc nhập khẩu các sản phẩm thép được nhà nước giao
cho một số đơn vị đầu mối thuộc Bộ Thương mại như Tổng công ty xuất nhập
khẩu khoáng sản, Tổng công ty kim khí Việt Nam trên cơ sở tiếp nhận hàng
theo Nghị định thư từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Sau
năm 1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ dẫn đến nguồn cung ứng
gang, thép như trước không còn nữa, nhà nước đó kịp thời có chính sách mở
cửa cho phép mọi thành phần kinh tế được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
các sản phẩm thép. Vì vậy, mặc dù Nhà nước gặp nhiều khó khăn về ngoại tệ,

lượng gang đúc và thép nhập khẩu vẫn tăng rất nhanh trong thời kỳ này, đáp
ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Từ thời điểm đó trở đi, thị trường thép
Việt Nam đã dần dần hoà nhập thị trường thế giới và chịu mọi tác động về các
biến động chung đối với các sản phẩm thép.
Sắt thép là một trong những mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam.
Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này luôn đứng thứ ba, chỉ sau máy móc, thiết
bị và xăng dầu.
Theo thống kê, nhập khẩu sắt thép trong 5 năm trở lại đây đạt mức tăng
trưởng trung bình gần 20%/năm. Kết thúc năm 2007, tổng kim ngạch nhập
khẩu sắt thép của Việt Nam đạt 5,1 tỷ USD tương đương 7,8 triệu tấn, tăng
66% về trị giá và 37% về lượng so với năm 2006, nếu so với năm 2005 thì
tăng 73% về trị giá và tăng 42% về lượng. Dự báo, năm 2008, nhập khẩu sắt
thép của Việt Nam tăng từ 15 - 20% về lượng, ước đạt 9,36 triệu tấn.
Bảng 1.4: Nhập khẩu sắt thép các loại
Đơn vị: Tấn, %
Tổng số

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006


2007

2.86
8

3.801

4.948,
9

4.622,
8

5.186,
1

5.524,
0

5.624,
0

7.705,0

32,53

30,20

-6,59


12,19

6,52

1,81

37,00

2.175

2.731,9

2.767,8

2.913,1

3.297,1

3.636,0

5.647,0

30,95

25,60

1,31

5,25


13,18

10,28

55,31

57,9
1

57,22

57,91

59,87

56,17

59,69
64,65

73,29

1.207

1.626

1.988,0

2.058,0


Tăng
- Thép thành phẩm

1.661

+ Tăng
+ Tỷ lệ
- Phôi thép

2.217,0

1.855,0

18

2.273,0

2.226,9


+ Tăng
+ Tỷ lệ

42,0
9

34,71

36,35


-16,33

22,53

-2,03

42,78

57,91

40,13

43,83

40,31

-10,73

3,52

35,35

26,71

Nguồn: Niên giám Thống kê - Tổng cục Thống kê năm 2007
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thép bình quân trong giai đoạn 2000 2007 đạt 16,24%/năm. Trong đó, tốc độ tăng nhập khẩu thép thành phẩm đạt
20,27%/năm trong cùng giai đoạn và tốc độ tăng bình quân của nhập khẩu
phôi thép là 9,72%/năm.
Biểu đồ 1.2: Xu hướng nhập khẩu thép của Việt Nam 2006 - 2007


- Về thị trường nhập khẩu:
Việt Nam hiện có quan hệ nhập khẩu thép với khoảng 30 thị trường trên
thế giới. Trong đó, 8 thị trường hàng đầu là Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Đài Loan, Malaixia, Thái Lan và Ucraina thường chiếm trên 80% tổng
khối lượng nhập khẩu thép vào Việt Nam. Trung Quốc đã từ vị trí nhà cung
cấp thép thứ 4 cho Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp hàng đầu trong năm
2004 và năm 2005 chiếm 27,82% tổng lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam.
Ngược lại, các thị trường khác như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc tuy vẫn là
những thị trường cung cấp thép quan trọng cho Việt Nam, nhưng tỷ trọng
nhập khẩu từ các thị trường này đều có xu hướng giảm rõ rệt. Thị trường các
nước ASEAN cũng chiếm khoảng trên 10% lượng thép nhập khẩu thép của
Việt Nam.
Đạt được tiến độ nhập khẩu sắt thép trong năm 2007 là có nhiều sự cố
gắng của các doanh nghiệp, cộng với những hỗ trợ không nhỏ từ các cơ quan
quản lý trong việc điều hành cơ chế một cách linh hoạt và hợp lý. Chính
19


những việc này đã giúp các doanh nghiệp hoàn thành tốt công tác nhập khẩu
của mình. Năm 2007, Việt Nam đã nhập khẩu sắt thép từ gần 70 thị trường
trên thế giới. Trong đó, nhập khẩu sắt thép từ Trung Quốc đạt 2,3 tỷ USD,
tăng 59% so với năm 2006, chiếm 45% tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép
của Việt Nam. Tuy nhiên, năm 2008, nhập khẩu sắt thép của Việt Nam từ
Trung Quốc có thể sẽ giảm do nguồn cung từ Trung Quốc không còn dồi dào
như trước, cộng với giá thành sản phẩm chiếm ưu thế không nhiều so với các
thị trường khác.
Năm 2007, nhập khẩu sắt thép của Việt Nam từ Nhật Bản cũng tăng
đáng kể, đạt kim ngạch hơn 676 triệu USD, tăng 37,79% so với năm 2006.
Đáng chú ý, nhập khẩu sắt thép từ Đài Loan và Malaysia tăng rất mạnh, đạt

kim ngạch lần lượt là 567,9 triệu USD và 383,9 triệu USD. Như vậy, với việc
nhập khẩu sắt thép từ Trung Quốc không còn thuận lợi như trước, rất có thể
trong năm 2008 các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chuyển sang nhập khẩu sắt
thép từ các thị trường khác như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nga,… vì
khoảng cách địa lý và đường vận chuyển từ các thị trường này cũng có nhiều
thuận lợi.
Bảng 1.5: Kim ngạch nhập khẩu sắt thép từ một số thị trường chính của
Việt Nam 2006 - 2007
Đơn vị: Triệu USD, %
Thị trường
Tổng
Trung Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Malaysia
Hàn Quốc
Thái Lan
Nga
Inđônêsia
Ôtxtrâylia
Ấn Độ
Singapore
Đức

2007
5.045,2
2.311,7
676,4
567,9
383,9

284,9
207,1
179,3
74,8
61,9
60,8
58,7
50,0

20

2006
3.001,4
1.453,9
490,9
266,6
43,7
208,1
95,6
139,3
60,8
24,3
43,1
52,8
10,8

07/06
59,40
59,00
37,79

113,05
778,59
36,94
116,56
28,70
22,99
154,89
40,86
11,24
363,13


Philippin
Mỹ
Kazakhstan
HongKong
Bỉ

38,6
30,6
26,9
16,4
15,3

44,9
17,1
14,4
24,9
10,2


-14,14
79,14
86,76
-34,21
50,18

Nguồn: Số liệu của Tổng công ty Thép năm 2007
Ngoài bốn thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malayxia
chiếm 77% tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của Việt Nam, đạt gần 4 tỷ
USD, nhập khẩu sắt thép của Việt Nam từ hầu hết các thị trường còn lại đều
tăng mạnh so với năm 2006, cụ thể:
+ Nhập khẩu từ Hàn Quốc tăng 36,9%, đạt 284,9 triệu USD;
+ Nhập khẩu từ Thái Lan tăng 116%, đạt 207 triệu USD;
+ Nhập khẩu từ Nga tăng 28,7%, đạt 179 triệu USD;
+ Nhập khẩu từ Inđônêxia tăng 22,9%, đạt 74 triệu USD;
Bảng 1.6: Nhập khẩu thép cuộn của Việt Nam từ một số thị trường
chính 2006 - 2007
Lượng (1.000 tấn, %)
Trung
Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Hàn Quốc
Malaysia
Thái Lan
Australia
Ấn Độ
Nga
Philippines


07/06

Trị giá (Triệu USD, %)

2007

2006

2007

2006

07/06

1.423,5

1.080,6

31,73

827,8

466,1

77,58

558,8
457,7
185,6
132,5

140,9
83,7
35,7
39,8
36,2

426,8
206,2
100,9
19,9
103,6
36,0
29,6
34,9
57,4

30,93
121,91
84,02
568,57
36,12
132,29
20,53
13,86
-36,87

346,0
327,2
150,5
97,5

93,5
49,4
38,8
27,2
23,3

240,0
133,6
77,6
11,9
59,4
18,4
24,6
16,9
34,3

44,16
145,00
93,82
720,39
57,33
167,93
58,13
61,20
-31,99

Nguồn: Số liệu của Tổng công ty Thép năm 2007
- Về chủng loại sản phẩm thép nhập khẩu
Trong khối lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam, tỷ lệ thép thành phẩm
21



chiếm khoảng gần 60% và phôi thép chiếm trên 40%. Trong giai đoạn 2001 2005, nhập khẩu thép thành phẩm tăng bình quân 14,70%/năm, còn đối với
phôi thép là 13,03%/năm. Ngoài khối lượng phôi thép nhập khẩu, các doanh
nghiệp Việt Nam còn nhập khẩu thép phế liệu để sản xuất phôi thép trong
nước. Hiện nay, nhu cầu nhập khẩu thép phế của Việt Nam vào khoảng từ 1,5
đến 2,0 triệu tấn/năm.
Trong cơ cấu thép thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam, thép lá chiếm tỷ
trọng cao nhất, khoảng 60%, tiếp đến là thép tấm chiếm khoảng trên 20%, các
loại thép hình, thép ống chiếm khoảng trên 10%, thép xây dựng và các loại
thép còn lại chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng nhập khẩu.
Trong cơ cấu nhập khẩu thép giai đoạn 2000 - 2007, tỷ trọng thép thành
phẩm nhập khẩu ngày càng cao, năm 2000 tỷ trọng của sản phẩm này là
57,91%, đến năm 2005 con số này là 59,69% và năm 2007 là 73,29%. Tương
ứng, tỷ trọng phôi thép nhập khẩu trong tổng khối lượng nhập khẩu thép của
Việt Nam có xu hướng giảm trong giai đoạn này.
Năm 2007, nhập khẩu các mặt hàng sắt thép chính như thép cuộn, thép tấm,
phôi thép, thép hình… đều tăng mạnh. Theo số liệu, mặt hàng thép cuộn nhập
khẩu mạnh nhất, đạt trên 2 tỷ USD tương đương 3,3 triệu tấn, chiếm 40% tổng
kim ngạch nhập khẩu sắt thép của Việt Nam. Trong đó, nhập khẩu từ Trung
Quốc đạt 827 triệu USD tương đương 1,4 triệu tấn, tăng 77% về trị giá và 31%
về lượng so với năm 2006, nhập khẩu từ Nhật Bản đạt 345,9 triệu USD tương
đương 558 ngàn tấn, tăng 44% về trị giá và 30% về lượng so với năm 2006. Như
vậy, nhập khẩu thép cuộn của Việt Nam từ hai thị trường đã chiếm tới hơn 1/2
tổng kim ngạch nhập khẩu thép cuộn của Việt Nam.
Chủng loại sắt thép được nhập khẩu nhiều thứ hai trong năm 2007 là thép
tấm, đạt hơn 994 triệu USD tương đương 1,4 triệu tấn, tăng 62% về trị giá và
30% về lượng. Trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc đạt hơn 900 triệu USD
tương đương 1,3 triệu tấn và nhập khẩu từ Nhật Bản đạt 479,3 triệu USD
tương đương 742 ngàn tấn. Như vậy, nhập khẩu thép tấm của Việt Nam trong

năm 2007 chủ yếu được nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo số liệu thống kê mới nhất, lượng thép cuộn nhập khẩu của Việt Nam
trong tháng 12/2007 đạt khoảng 36 ngàn tấn, nâng tổng lượng nhập khẩu của cả
năm 2007 lên mức 459 ngàn tấn, tăng gấp ba lần so với năm 2006.
Ngoài hai chủng loại trên, nhập khẩu các chủng loại còn lại như thép
22


hình, thép lá, thép không gỉ… của Việt Nam trong năm 2007 cũng tăng đáng
kể so với năm 2006.
- Nhập khẩu thép phân theo doanh nghiệp:
Nhập khẩu sắt thép của Việt Nam trong năm 2007 có sự tham gia của
khoảng 1.870 doanh nghiệp trong nước, tăng 200 đơn vị so với năm 2006. Kết
quả nhập khẩu và số lượng doanh nghiệp tham gia nhập khẩu trên cả nước
cho thấy hoạt động sản xuất, nhập khẩu sắt thép của Việt Nam trong năm
2007 rất sôi động. Số lượng các doanh nghiệp có kim ngạch nhập khẩu đạt từ 1
triệu USD trở lên tăng mạnh, đạt khoảng 420 đơn vị. Doanh nghiệp đạt kim
ngạch nhập khẩu sắt thép cao trong năm 2007 ngày càng tăng lên nhanh chóng.
Đứng vị trí số 1 về thành tích nhập khẩu là Cty TNHH Thép Pomina đạt trên 205
triệu USD. Đơn vị này tiếp tục khẳng định là một trong những doanh nghiệp có
kết quả kinh doanh hiệu quả trong năm 2007, đạt một lượng thép nhập khẩu cao
nhất trong ngành sắt thép Việt Nam. Doanh nghiệp giữ vị trí số 2 là Cty Thép
Vinakyoei đạt 154 triệu USD. Đây là đơn vị duy trí được vị trí số 2 trong nhiều
năm trở lại đây. Tiếp đến là doanh nghiệp Cty Thép Tấm lá Phú Mỹ và Tổng
Cty Thép Việt Nam đạt lần lượt là 148 triệu USD và 124 triệu USD.
Bảng 1.7: Một số doanh nghiệp nhập khẩu thép cuộn năm 2007
Đơn vị: Tấn, triệu USD
Doanh Nghiệp

Lượng


Cty Thép Tấm lá Phú Mỹ

Trị giá

264.845

153,8

Cty TNHH Sun Steel

93.130

58,3

Cty TNHH Perstima (Việt Nam)

72.531

52,6

Cty TNHH Asia Stainless

31.970

55,1

Cty TNHH YGS Vina

17.222


60,5

Cty TNHH BLUESCOPE STEEL Việt Nam

82.469

52,5

Cty Cổ phần Hoa Sen

65.401

37,4

Cty Cổ phần Hữu Liên Á Châu

51.254

35,3

Cty Cổ phần Điện máy TP Hồ Chí Minh

55.366

30,5

Chi nhánh Cty TNHH ống thép Hoà Phát

52.767


30,0

Nguồn: Số liệu của Tổng công ty Thép năm 2007
- Về giá cả nhập khẩu:
23


×