TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NĂM 1997 TẠI THÁI
LAN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ
Họ và tên
Lớp
MSV
:
:
:
Hà Nội, tháng 9, 2013
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
LỜI MỞ ĐẦU
Tháng 7 năm 1997, cơ quan tiền tệ Thái Lan tuyên bố họ không có khả năng giữ giá đồng
bạt theo đồng đô la Mỹ nữa. Điều này có nghĩa là Thái Lan đã kết thúc một thời kỳ dài
tăng trưởng trong suốt 13 năm và mở đầu cho một cuộc khủng hoảng mới – khủng hoảng
tài chính tiền tệ và làm ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn,
và giá cả của những tài sản khác ở Thái Lan và vài nước châu Á. Indonesia, Hàn Quốc
và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Thái Lan hay khủng hoảng tài
chính "Đông Á" nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng
hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga,
Brasil và Hoa Kỳ.
Vậy tại sao bỗng dưng Thái Lan lại tự phá giá đồng bản tệ của mình để cho nền kinh
tế lâm vào một tình trạng khó khăn nghiêm trọng? Đằng sau cuộc khủng hoảng đó là gì,
ảnh hưởng của nó như thế nào đến nền kinh tế khu vực và trên thế giới? Quan trọng hơn,
chúng ta cần tìm ra những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng để từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm cho Quốc gia mình. Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan năm 1997 và tác
động của nó đến nền kinh tế ” làm đề tài tiểu luận.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo và các bạn.
Hoàng Thu Trang
Page 2
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
Phần I. GIỚI THIỆU VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính - dấu hiệu nhận biết khủng hoảng tài chính
- Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn
tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
- Dấu hiệu nhận biết khủng hoảng tài chính
+ Các Ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
+ Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả
đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
+ Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
2. Các loại khủng hoảng tài chính
- Khủng hoảng ngân hàng: diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân
hàng. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống.
- Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do
các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng đầu cơ. Khi nhà nước
phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh
hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ
bằng các loại ngoại tệ. Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm
vào đó, khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa
nào đó, nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ,
điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo
những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, gây tình trạng rớt giá.
- Khủng hoảng tài chính thế giới: Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá
đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia,
gây khủng hoảng tiền tệ.
- Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường vướng vào
khủng hoảng tài chính do 2 lý do: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi
được vốn đầu tư,dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, khi
đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các dự án đầu tư không thu hồi
được vốn do tình trạng khủng hoảng.
Hoàng Thu Trang
Page 3
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
Phần II. THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở THÁI
LAN NĂM 1997
1. Tình hình kinh tế tài chính Thái Lan trước năm 1997
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm
là 8%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.
Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn
hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
2. Tình hình Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá baht, song
rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào
tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được1 dollar Mỹ. Chỉ số thị
trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối
năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5
tỷ USD. Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1998, 3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt động trong
đó có 582 doanh nghiệp phá sản. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị
phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar
Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
dollar.
3. Tình hình các quốc gia khác trong khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997
Tại các quốc gia láng giềng, ngày 11.7.1997, Philippin tuyên bố thả nổi đồng Peso.
Ngày 11.8.1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái (thực chất là
thả nổi đồng Ringgit). Ngày 14.8.1997 Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.Năm
1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 844,2 Won/USD thì ngày 30/9/1997
là 914,8 won/USD. Ngày 14/12/1997 đồng Won được thả nổi. Ngày 23/12/1997 đạt kỷ
lục 200 won/Usd.
Hoàng Thu Trang
Page 4
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
Phần III. NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
1997 TẠI THÁI LAN
Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế hoạch
phát triển năm năm lần thứ nhất. Tốc độ tăng trưởng GDP trong thập niên 60 khoảng
8%/năm, trong thập niên 70 khoảng 7%/năm và trong thập niên 80 khoảng 8%/năm. Như
vậy, nhìn vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn ba thập kỷ từ 1961 đến
1996, ta thấy rất đáng yên tâm, vì tốc độ GDP bình quân hàng năm luôn tăng. Thái Lan
lúc này được cả thế giới khâm phục và ví như một con hổ của châu Á.
1. Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết kiệm và tỷ giá
hối đoái gần như cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh hấp dẫn với các nhà đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại.
Như vậy, các doanh nghiệp trong nước, nếu vay vốn từ các ngân hàng, công ty nước
ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất khoảng ½ lãi suất vay trong nước. Nếu các doanh
nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm đến hiệu quả sử
dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng có thể tăng.
Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996, đầu tư trực tiếp của nước
ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính (gián tiếp) và sử dụng
vốn vay ngắn hạn của nước ngoài. Trong tổng số vốn nước ngoài đã đổ vào Thái Lan thời
kỳ 1991 -1996 thì đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36%, đầu tư gián tiếp 19,23% và tín
dụng, vay ngắn hạn tới 70,4%. Việc sử dụng tới gần 90% tổng đầu tư tài chính thuần và
tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty. Và thực tế, tỷ suất thu
hồi đã giảm từ 8%/năm vài năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong một
nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp nên các ngân hang và các công ty tài chính Thái
Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. Tổng số
nợ nước ngoài so với tổng số tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân hàng đang có tăng từ
171% năm 1991 lên 694% năm 1996. Rõ ràng, Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng
hoảng thứ hai “phá sản các ngân hàng”.
Hoàng Thu Trang
Page 5
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
2. Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán
Trong suốt các năm 1991-1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt. Một
lý do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích khi tỷ
giá danh nghĩa gần như cố định (25 Baht/USD), lạm phát trong nước cao hơn so với ở
Mỹ làm cho đồng Baht bị lên giá so với đồng USD. Để bù đắp khoản thâm hụt cán cân
thương mại và để có vốn đầu tư với mức 40% GDP mỗi năm thì con đường không tránh
khỏi là phải vay tiền nước ngoài. Vì vậy, nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng
từ 35,99 tỷ USD năm 1991 lên 89 tỷ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm và
bằng 54% GDP. Mặc dù số nợ này được dung để tăng dự trữ Quốc gia, song do đầu tư tài
chính và tín dụng chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư từ nước ngoài hàng năm, nên số nợ
ngắn hạn chiếm tỷ trọng tới 67% tổng số nợ nước ngoài năm 1995, và nợ ngắn hạn năm
1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan đã mất khả năng
thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Nếu như các nhà đầu tư Thái Lan cũng phải thả
nổi đồng Baht, thì chính họ sẽ bán cổ phiếu, trái phiếu, đòi nợ ngắn hạn, đổi từ tiền Baht
ra USD, làm tăng cầu ngoại tệ đột ngột. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ tăng, dự trữ ngoại tệ
cạn kiện, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Đến tháng 6
năm 1997, nợ nước ngoài ngắn hạn đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan.
Tóm lại, cuối năm 1996 và đầu năm 1997, ở Thái Lan đã xuất hiện đầy đủ 4 nguy cơ
khủng hoảng ở mức cao, có thể tóm tắt trong mô hình:
Sơ đồ: Các tiền đề và cơ chế khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái lan 1997
Hoàng Thu Trang
Page 6
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
Phần IV. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
1. Tác động tiêu cực
Hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất là sự mất ổn định của đồng tiền và thị trường
tiền tệ trong mỗi nước, là sự giảm sút các nguồn vốn nước ngoài vào các nước Châu Á, là
sự giảm sút cả đầu tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin… Tất cả những yếu tố
này đã làm giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái đi đôi với tình trạng thất nghiệp
và lạm phát cao; cũng như làm tăng nợ nước ngoài bằng ngoại tệ do sự mất giá của đồng
bản tệ và do phải thu hút thêm các khoản tín dụng quốc tế để vượt qua khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng còn đánh dấu sự kết thúc một thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh kéo
dài hàng thập kỷ của các nước phát triển trong khu vực (mà chủ yếu dựa vào nguồn vốn
nước ngoài) để chuyển sang một thời kỳ đặc trưng bởi sự phát triển ôn hòa, phù hợp
với hiện trạng kinh tế và dựa vào nội lực quốc gia nhiều hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại chung cho toàn thế giới khoảng 500tỷ USD,
trong đó Châu Á chiếm 300 tỷ USD và khiến cho 150 tỷ USD đầu tư tài chính rút khỏi
Đông Nam Á vì mất niềm tin. Hơn thế, điều này khiến các nhà đầu tư nước ngoài thận
trọng hơn khi dầu tư vào bất cứ nơi nào trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Á.
2. Các tác động tích cực
Cuộc khủng hoảng trong khu vực không hoàn toàn chỉ gây tác động xấu cho các nước,
khu vực mà ở một chừng mực nào đó, nó là một điểm dừng để mở ra một thời kỳ phát
triển mới đầy triển vọng trên những khía cạnh sau đây:
Một là, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu
được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ
quốc gia và về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh
xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Hai là, cuộc khủng hoảng sẽ như một cú hích mạnh để xốc lại cơ cấu kinh tế cho
cân bằng, hợp lý và hiệu quả hơn, tạo ra sức ép buộc các chủ đầu tư – kinh doanh phải
thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy việc xuất hiện những sản phẩm chủ lực có
sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng và cải thiện
cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia. Sau cuộc khủng hoảng này, các
Hoàng Thu Trang
Page 7
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
quốc gia càng nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng
vững mạnh, minh bạch.
Ba là, cuộc khủng hoảng cũng đã ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân
dân mỗi nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế bổ khuyết
những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó
tạo ra những tích cực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở cấp quốc gia, khu
vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ.
Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng
ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Tiến trình Đánh giá và
Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ...
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan dù đã qua đi rất lâu nhưng những bài học
rút ra từ cuộc khủng hoảng vẫn còn nhiều giá trị. Cuộc khủng hoảng này cho thấy trong
bối cảnh tự do hóa toàn cầu cần có sự chuẩn bị thích đáng cho quá trình này.Nhất là tự do
hóa tài chính tiền tệ, vừa phải tự do hóa đồng bộ, vừa phải thận trọng và tính đầy đủ đến
tình hình kinh tế mỗi nước. Qua khủng hoảng, ta cũng nhận thấy rằng, Chính phủ cần có
những quyết sách kịp thời và đúng lúc, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tránh để dẫn
tới tình trạng phá giá tiền tệ một cách bị động - nguyên nhân chính dẫn đến những hậu
quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực.
Qua cuộc khủng hoảng này của Thái Lan, nước ta cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm.
Điều kiện tiên quyết để bảo vệ một nước đang phát triển khỏi khủng hoảng tài chính là tự
tăng cường hạ tầng tài chính về nhiều phương diện. Nổi bật là những nhà quản lý và chủ
thể lớn có liên quan phải tham gia xây dựng một hành lang pháp lý tinh vi để một mặt nó
phải cởi mở và minh bạch để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài nhưng trước hết, phải đảm
bảo được sự ổn định và phát triển bền vững cho ca hệ thống tài chính và kinh tế của đất
nước.
HẾTMỤC
Hoàng Thu Trang
Page 8
LỤC
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại Thái Lan
Nội dung
.................................................................................................Trang
Lời mở đầu
.................................................................................................2
Phần I. GIỚI THIỆU VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH.....................................3
Phần II. THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG...............................................4
Phần II. NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG.................................5
Phần IV. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG.........................................7
Kết luận
.................................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />
2. />3. />4. />
Hoàng Thu Trang
Page 9