ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NIÊN LUẬN
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ
trước tác động của TPP
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
MSSV:
Lớp: KTQT
Hà Nội, Tháng 8 năm 2014
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ....................................................................................................... iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 .......................................................................................................................8
TỔNG QUAN VỀ TPP .....................................................................................................8
1.1.
Cơ sở lý luận về FTA ...........................................................................................8
1.1.1.
Lý thuyết về FTA ..........................................................................................8
1.1.2.
Tác động của FTA .........................................................................................9
1.2.
Khái quát về TPP ...............................................................................................12
1.3.
Tác động của TPP đến kinh tế Việt Nam ...........................................................14
1.3.1.
Tích cực .......................................................................................................14
1.3.2.
Tiêu cực .......................................................................................................15
CHƯƠNG 2 .....................................................................................................................17
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TPP MANG LẠI CHO HÀNG DỆT MAY XUẤT
KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ ........................................................................17
2.1.
Thực trạng dệt may Việt Nam hiện nay .............................................................17
2.1.1.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ...........................................17
2.1.2.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may ...........................................................21
2.1.3.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ ......................................23
2.2.
Cơ hội và thách thức từ TPP ..............................................................................28
2.2.1.
Đàm phán TPP liên quan đến hàng dệt may ...............................................28
2.2.2.
Cơ hội ..........................................................................................................28
2.2.3.
Thách thức ...................................................................................................31
CHƯƠNG 3 .....................................................................................................................33
MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý ................................................................................33
3.1.
Một số kết luận ...................................................................................................33
3.2.
Một số hàm ý ......................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................36
ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU
Liên minh Châu Âu
FTA
Hiệp định thương mại Tự do
RCA
Chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu
SPS
Các biện pháp Kiểm dịch động thực vật
TBT
Hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại
TPP
Hiệp định Đối tác Chiến lược Kinh tế xuyên Thái Bình Dương
VINATEX
Tập đoàn Dệt May Việt Nam
VITAS
Hiệp hội Dệt May Việt Nam
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thị trường và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2013 ........20
Bảng 2.2: Cân đối Xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2012 - 2013 ......................21
Bảng 2.3: Thị trường nhập khẩu bông của Việt Nam tháng 11/2013 .............................22
Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu vải của Việt Nam năm 2013 ........................................22
Bảng 2.5: Thị trường nhập khẩu sợi của Việt Nam tháng 1/2014 ...................................23
Bảng 2.6: Thị trường nhập khẩu xơ của Việt Nam năm 2013.........................................23
Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng chủ yếu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ
trong năm 2012 so với năm 2011 ....................................................................................24
Bảng 2.8: Chủng loại hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ 2010 - 2013 .....................25
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Chỉ số RCA dệt may của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á ............18
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007-2013 .........19
Biểu đồ 2.3: Diễn biến và dự báo nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ từ một số nước
từ 2005-2025 ....................................................................................................................26
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn nền kinh tế
từng nước với nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở của và
thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế trên nhiều cấp độ như đơn phương, song phương và đa
phương. Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình khách quan và nó phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội của từng nước. Việt Nam đã có những bước chuyển đổi
to lớn trong cải cách nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước, tập trung phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản
phẩm xuất khẩu. Quá trình đổi mới đã đưa Việt Nam từng bước vươn lên và đạt được
nhiều thắng lợi trong kinh tế và phát triển xã hội, đặc biệt có những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực, có uy tín trên thị trường quốc tế. Điển hình nhất trong các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực vủa Việt Nam đó là ngành dệt may.
Trước những cơ hội và thách thức mới trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế
trước cánh cửa Hiệp định Đối tác Chiến lược Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP),
những cam kết trong việc cắt giảm thuế quan trong ngành dệt may của TPP mang tính
chất sâu, rộng và nhanh hơn. Cùng với đó Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
ngành dệt may Việt Nam và cũng là thành viên trong TPP. Như vậy, những quy định vế
xuất xứ hay việc giảm thuế sẽ tạo ra nhiều tác động tới dòng thương mại dệt may của
Việt Nam.
Vì vậy, bài nghiên cứu “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trước
tác động của TPP” sẽ góp phần làm rõ hơn những cơ hội và thách thức của mặt hàng dệt
may xuất khẩu sang Hoa Kỳ khi Việt Nam gia nhập TPP. Qua đó, nhằm phát huy những
điểm mạnh, khắc phục những hạn chế của dệt may Việt Nam, đưa ra các phương án phát
triển phù hợp.
1
2. Tổng quan tài liệu
TPP là một vấn đề mới được nhắc đến trong thời gian gần đây, đó là một vấn đề
khá mới đối với Việt Nam và đang được quan tâm nghiên cứu. Ngoài những bài báo,
bài luận,… viết về tiến trình đàm phán gia nhập TPP, lợi ích khi gia nhập của Việt Nam
với cái nhìn tổng quát về TPP thì còn khá nhiều bài viết nghiên cứu sâu về cơ hội, thách
thức của hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Việt Nam.
Về lợi ích của Việt Nam khi gia nhập TPP
Đại diện Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Michael Froman đã có cuộc trao
đổi xoay quanh vấn đề lợi ích của Việt Nam khi gia nhập TPP. Ông cho rằng, khi TPP
có hiệu lực, Việt Nam sẽ được tiếp cận với các thị trường mới mà trước giờ chưa được
tiếp cận. Bên cạnh đó, ông cũng đưa ra những quan điểm về vấn đề cạnh tranh, tạo ra
sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân.
Theo Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng (2014), “Hiệp định TPP là một
hiệp định thương mại tự do lớn với phạm vi và mức độ cam kết rộng và sâu nhất mà
Việt Nam từng tham gia cho đến nay, tạo ra sân chơi với đóng góp trên 40% GDP và
khoảng 30% trao đổi thương mại toàn cầu”. Ông đã nêu rõ những lợi ích, những cơ hội
mà Việt Nam nhận được khi gia nhập TPP, Việt Nam có thêm điều kiện tranh thủ hợp
tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường xuất khẩu, kiềm
chế nhập siêu; bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức to lớn, Việt Nam phải chịu sức ép
mở của, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, Bộ trưởng cũng chỉ rõ
những các doanh nghiệp và chính phủ cần làm gì để có thể khai thác hiệu quả những cơ
hội và giảm thiểu tác động tiêu cực do TPP mang lại.
Trong 12 nước tham gia TPP, Việt Nam ở mức độ phát triển thấp nhất nhưng là
nước được đánh giá là sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ TPP (Võ Trí Thành, 2014). Với bài
viết TPP – một “phiếu tín nhiệm” với Việt Nam, tác giả đã phân tích những lợi ích mà
Việt Nam có thể nhận được khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ tiếp cận sâu hơn vào các thị
trường lớn (Hoa Kỳ, Nhật Bản,…), xuất khẩu sẽ tăng mạnh, môi trường đầu tư tăng tính
hấp dẫn; ngoài ra bài viết còn cho thấy rõ tính tất yếu, sự cần thiết phải gia nhập TPP
của Việt Nam.
2
Về cơ hội thách thức cho hàng dệt may xuất khẩu
Đối với những ngành hàng được xem có lợi thế khi gia nhập TPP cũng có thể vấp
phải không ít rào cản. Trong bài viết của mình, TS.Võ Trí Thành (2014) đã chỉ ra rằng
TPP thực sự vừa là cơ hội to lớn, vừa là thử thách nghiêm túc đối với Việt Nam khi dệt
may phải đảm bảo nguyên tắc xuất xứ (một tỷ lệ đầu vào kể “từ sợi” phải là từ các thành
viên TPP) để được áp thuế suất 0% của nước thành viên nhập khẩu, hay như đối với
hàng thủy sản, vốn thuế suất không còn là rào cản chính, song các biện pháp kiểm dịch
SPS có thể lại trở nên ngặt nghèo hơn. Đồng thời bài viết cũng tập trung phân tích và
chỉ ra những việc cần làm của chính phủ Việt Nam, của các doanh nghiệp Việt Nam,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với chính phủ Việt Nam, phải hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thực thi các chương trình mục tiêu cụ thể nhằm giảm thiểu
phí tổn điều chỉnh và những rủi ro xã hội trong quá trình hội nhập. Đối với các doanh
nghiệp, phải có sự chuẩn bị chu đáo, phải nắm được tinh thần chung và những cam kết
cụ thể nhất là khi có liên quan đến ngành hàng, sản phẩm của mình.
Bài viết Dệt may Việt Nam chưa sẵn sàng với TPP của Q.Nguyễn (2014) đã tập
trung phân tích những khó khăn, vướng mắc của Tập đoàn Dệt may Việt Nam – Vinatex
khi phải đối mặt với những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Thông qua
đó, tác giả bài viết đã đánh giá cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi TPP có hiệu lực.
Dệt may Việt Nam chưa đủ điều kiện để hưởng lợi từ TPP, và còn phải đối mặt với
nhiều thách thức khác. Trong bài viết này, theo lãnh đạo của Vinatex, ông Trần Quang
Nghị, với mức vốn đầu tư khoảng 9.722 tỷ đồng là rất lớn và không dễ xoay sở (năm
2014). Trong khi Vinatex đang thu xếp 9.722 tỷ đồng để đầu tư vào các dự án sản xuất
nguyên phụ liệu, thì nhà máy mới của Tập đoàn Dệt may Texhong ở Quảng Ninh đã đi
vào hoạt động. Theo thống kê, có đến 1 tỷ USD của các nhà dệt may nước ngoài sẵn
sàng đầu tư vào Việt Nam để đón đầu TPP: Tập đoàn Hong Kong’s TaL Group đầu tư
200 triệu USD; TexHong đầu tư 300 triệu USD, Korea’s Kyungbang đăng ký đầu tư
mới 40 triệu USD, Tập đoàn dệt may Pacific đầu tư 180 triệu USD... (Q. Nguyễn, 2014).
Đây là những bất lợi, những thách thức đối với Vinatex nói riêng và dệt may Việt Nam
nói chung khi phải đối đầu với những doanh nghiệp nước ngoài trước ngưỡng cửa TPP.
3
Ngoài ra còn một số bài viết nghiên cứu về những giải rào cản thương mại
đối với hàng dệt may Việt Nam
Nguyễn Thị Thu Thủy (2009) đã đánh giá thực trạng, những điều kiện thuận lợi
và khó khăn trong việc xuất khẩu hàng hòa của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Bài viết tập
trung vào việc đề xuất một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa vào khu vực thị
trường tiềm năng này như: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, cập nhật và xử
lý các thông tin dự báo thị trường một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời, tăng cường ứng
dụng thương mại điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh và xúc tiến thương mại,
… Theo Nguyễn Thị Thu Thủy (2009), Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới với nền
công nghiệp hùng mạnh, nông nghiệp hiện đại và là trung tâm thương mại, tài chính của
thế giới; là thị trường giàu tiềm năng với sức mua lớn và kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
mỗi năm đạt gần 2000 tỷ USD. Đó là những cơ hội cho Việt Nam khi xuất khẩu sang
thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ trong thời gian tới cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không dễ gì
vượt qua. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những hình thức rào cản thương
mại ngày càng tinh vi như các rào cản kỹ thuật, các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn về
xuất xứ hàng hóa, nguyên phụ liệu hay các vụ kiện chống bán phá giá. Hàng dệt may
hiện nay phải chịu sự giám sát chặt chẽ bởi cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ.
Trong bài nghiên cứu Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và
những giải pháp khắc phục để xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
trong bối cảnh mới, tác giả Cao Quý Long đã đề cập đến thực trạng khó khăn của xuất
khẩu ngành dệt may sang thị trường Mỹ dưới tác động của hệ thống hàng rào phi thuế
quan, những quy định về rào cản kỹ thuật TBT đối với hàng dệt may trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Thông qua những phân tích đó, tác giả đề xuất một số
định hướng và giải pháp đáp ứng các rào cản thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu bền vững
hàng dệt may trong thời gian tới.
Như vậy, các bài viết, bài nghiên cứu nói về lợi ích của Việt Nam khi gia nhập
TPP và cơ hội thách thức cho hàng dệt may xuất khẩu đã khái quát được phần nào tác
động của TPP đến nền kinh tế Việt Nam và mặt hàng dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên, các
4
bài viết này mới chỉ đưa ra cái nhìn tổng quát cho nền kinh tế, chưa đi sâu phân tích tác
động đối với hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Các bài viết về những giải pháp khắc phục rào cản thương mại đối với hàng dệt
may Việt Nam đã chỉ rõ những rào cản phi thương mại đối với hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Nhưng đây mới chỉ là những rào cản trong bối
cảnh mới, chứ chưa phải những rào cản, tác động do TPP mang lại.
Bài viết này nhằm mục đích cung cấp cái nhìn khái quát về thực trạng xuất khẩu
ngành dệt may Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh vào thị trường Hoa Kỳ; chỉ rõ những cơ
hội và thách thức của mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ khi Việt Nam gia nhập
TPP. Qua đó, nhằm phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế của dệt may
Việt Nam. Đồng thời thông qua các số liệu được thu thập và xử lý, bài nghiên cứu đưa
ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành dệt may trong
thương mại quốc tế.
3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
-
Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức mà TPP mang lại
cho mặt hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ; từ đó đưa ra một số
hàm ý chính sách nhằm tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức, hướng tới phát triển
dài hạn.
-
Câu hỏi nghiên cứu
o TPP là gì?
o Thực trạng xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ hiện nay như
thế nào?
o TPP có ảnh hưởng như thế nào đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam?
o Các hàm ý chính sách nhằm tận dụng những cơ hội, vượt qua những thách
thức là gì?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu: TPP, dệt may xuất khẩu của Việt Nam
-
Phạm vi nghiên cứu:
5
o Về mặt không gian: Việt Nam, Hoa Kỳ
o Về mặt thời gian: giai đoạn 2008 – 2013
Bài nghiên cứu chọn giai đoạn 2008 – 2013 vì đây là giai đoạn Việt Nam bắt đầu
đàm phán gia nhập TPP.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin: đọc, tìm hiểu các bài nghiên
cứu, luận văn, luận án. Thu thập các số liệu về kim ngạch xuất nhập khẩu dệt may của
Việt Nam, các thông tin về TPP và các quy định được đàm phán trong TPP trên một số
trang web của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, Vitas, New Zealand Ministry of
Foreign Affairs and Trade, Office of the United States Trade Representative.
Phương pháp thống kê: tổng hợp số liệu, tính toán các chỉ số RCA (nguồn dữ liệu
sẽ được tổng hợp từ Trademap).
Phương pháp phân tích tổng hợp: đưa ra những kết luận về thực trạng xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam.
Phương pháp định tính, dự báo kinh tế: đưa ra dự báo tác động của TPP, qua đó
chỉ rõ những giải pháp, hàm ý chính sánh cần thực hiện để phát triển bền vững ngành
dệt may xuất khẩu.
6
6. Kết cấu nội dung bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài viết bao
gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về TPP
Chương 2: Cơ hội và thách thức TPP mang lại cho hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
Chương 3: Một số kết luận và hàm ý
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TPP
1.1.
Cơ sở lý luận về FTA
1.1.1. Lý thuyết về FTA
Hiệp định thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) là một nhóm gồm
hai hoặc nhiều các lãnh thổ thuế quan trong đó thuế và các quy định thương mại khác
sẽ bị dỡ bỏ đối với phần lớn các mặt hàng có xuất xứ từ các lãnh thổ đó và được trao đổi
thương mại giữa các lãnh thổ thuế quan đó (Điều XXIV-điểm 8b, GATT 1947). Các
Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt
được giữa một khối thương mại và một quốc gia.
Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào
thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch
tự do. Điều này cho phép các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh của mình, chuyên môn
hóa và phân công lao động để thu được tối đa lợi ích từ việc tăng cường giao thương.
Đây thực chất là một hình thức liên kết kinh tế quốc tế, tiến tới hình thành một thị trường
thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, các nước thành viên vẫn giữ được quyền
độc lập, tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác,
những thành viên của FTA có thể duy trì chính sách thuế quan riêng và những hàng rào
thương mại khác đối với các quốc gia bên ngoài hiệp định (GATT, 1947).
Để tránh trốn thuế (thông qua tái xuất), các nước sử dụng hệ thống xác nhận
nguồn gốc phổ biến gọi là quy tắc xuất xứ, trong đó yêu cầu hàm lượng nội địa tối thiểu
của các nguyên liệu đầu vào và GTGT của hàng hóa; đạt được tỉ lệ xuất xứ tối thiểu theo
yêu cầu, hàng hóa mới được xem xét là thuộc diện giao thương theo FTA. Nói cách khác,
nhà xuất khẩu về cơ bản phải chứng minh được xuất xứ của sản phẩm, đồng thời nhà
nhập khẩu phải có được thông tin sản phẩm từ tất cả các nhà cung cấp trong chuỗi cung
ứng.
Hiện nay, ngoài các FTA truyền thống, có rất nhiều FTA thế hệ mới đang được
đàm phán và ký kết. Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh (2014), sở dĩ
gọi là FTA thế hệ mới bởi nếu trước đây, các FTA chỉ liên quan đến lĩnh vực hàng hóa
8
đơn thuần thì nay các FTA mới có phạm vi rộng hơn; các FTA hiện nay thường đưa ra
các cam kết tự do hóa trong nhiều lĩnh vực như thương mại dịch vụ, đầu tư, thậm chí
sẵn sàng hợp tác trên các lĩnh vực phi truyền thống trong thương mại khác như: môi
trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ... Đồng
thời, mức độ cam kết cũng sâu hơn, như phải xóa bỏ gần như 100% thuế nhập khẩu,
trong đó trên 90% là xóa bỏ ngay, xóa bỏ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho hàng đã
qua sử dụng... Các FTA kiểu này thường tác động lớn hơn đến thể chế, góp phần tích
cực cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Việt Nam tiếp cận và tham gia FTA từ khá sớm. Ngay khi là thành viên ASEAN
từ năm 1995, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm thuế theo Chương trình thuế quan ưu
đãi có hiệu lực chung nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA)
từ năm 1996. Từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia các FTA với nhiều đối tác lớn trong
khu vực như: Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA, 2004); Hiệp
định xây dựng Khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA, 2007); Hiệp
định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP, 2008); Hiệp định đối tác
kinh tế toàn diện với Nhật Bản (2008); Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ
(AIFTA, 2009); Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc và Niuzilân (AANZFTA,
2009); .... Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán FTA song phương với Chi Lê, tham gia
đàm phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP).
1.1.2. Tác động của FTA
Chính sách FTA ngày càng trở thành công cụ chính sách kinh tế đối ngoại hữu
hiệu của nhiều quốc gia lớn với những cơ hội huy động thêm nhiều nguồn lực phát triển
đất nước. Các quốc gia lựa chọn giải pháp tham gia ký kết các FTA với mục đích đạt
được một số lợi ích nhất định nào đó: lợi ích kinh tế về giá cả, phúc lợi xã hội, thị trường
xuất khẩu, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, tri thức, kỹ năng quản lý, xây dựng
năng lực thể chế và học hỏi thực tiễn chính sách, ... Bên cạnh những lợi ích mà FTA
mang lại, việc hình thành có chọn lọc các FTA song phương với những đối tác chủ chốt
sẽ góp phần nâng cao thế và lực của các quốc gia trên trường quốc tế và khu vực, đảm
bảo hài hoà hai mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng quốc phòng, an ninh.
9
Về cơ bản, các FTA đều đem đến hai loại tác động gồm tác động tĩnh (static
effects) và tác động động (dynamic effects).
1.1.2.1.
Tác động tĩnh
Thông thường các FTA được ký đều có những nội dung liên quan đến cắt giảm
hoặc những ưu đãi về mặt thuế quan giữa các nước tham gia. Điều này thúc đẩy thương
mại giữa các quốc gia. Khi mức thuế quan được cắt giảm, giá cả hàng hóa nhập khẩu từ
các nước trong khối FTA sẽ trở nên rẻ hơn; khuyến khích dân chúng tiêu dùng nhiều
hơn do được mua hàng hóa với mức giá thấp hơn.
Cụ thể, lợi ích tĩnh của các FTA mang lại là tổng gộp chính của 2 hiệu ứng “tạo
thêm thương mại” (trade creation) và “chệch hướng thương mại” (trade diversion). Theo
T.Giang (2013), nghiên cứu kinh điển của Jacob Viner (1950) về “Các vấn đề của Liên
minh Thuế quan” đưa ra 2 khái niệm trên để mô tả những phúc lợi của các hiệu ứng kinh
tế của các thỏa thuận thương mại khu vực (bao hàm cả hai hình thái Khu vực Thương
mại Tự do và Liên minh Thuế quan) đối với hai thành viên tham gia.
Hiệu ứng tạo thêm thương mại: Hiệu ứng xuất hiện khi một thành viên của FTA
gia tăng nhập khẩu từ một thành viên khác trong FTA có mức giá cung ứng thấp hơn so
với mức giá nội địa của mình hoặc của nhà cung ứng ngoài FTA đó. Điều này làm lợi
cho người tiêu dùng vì mua được hàng nhập khẩu ở mức giá rẻ hơn trước khi có FTA.
Do đó, hiệu ứng này còn giúp người tiêu dùng tăng thu nhập, kích cầu và làm tăng nhu
cầu đối với hàng nhập khẩu từ các thành viên cũng như những nước không phải thành
viên của FTA.
Hiệu ứng chệnh hướng thương mại: Hiệu ứng này xuất hiện khi nhà cung ứng
không phải là thành viên của FTA có mức giá thấp hơn lại bị nước thành viên FTA thay
thế bằng một nhà cung ứng trong FTA mặc dù có chi phí cao hơn. Như vậy nhà cung
ứng kém hiệu quả hơn (thành viên FTA) lại thay thế nhà cung ứng hiệu quả hơn (không
phải thành viên FTA) vì được hưởng các ưu đãi thuế quan do việc tham gia FTA mang
lại. Do vậy, hiệu ứng này làm chệch dòng thương mại của một thành viên FTA từ nhà
cung ứng hiệu quả sang nhà cung ứng kém hiệu quả hơn và thành viên đó phải chịu thêm
10
một khoản chi phí do phải trả giá nhập khẩu cao hơn. Hệ quả này còn làm nhà cung ứng
ngoài FTA mất thị phần xuất khẩu và có thể buộc họ phải giảm giá xuất khẩu.
Qua những phân tích của mình, Viner – Meade (1950) chỉ ra rằng việc hình thành
một Hiệp định Thương mại Khu vực sẽ mang lại sự cải thiện về phúc lợi và hiệu quả
kinh tế nếu mức độ “tạo thêm thương mại” vượt mức độ “chệch hướng thương mại”.
Ngược lại nếu mức độ “chệch hướng thương mại” lớn hơn mức độ “tạo thêm thương
mại” thì hiệu quả và phúc lợi kinh tế sẽ bị giảm.
1.1.2.2.
Tác động động
Bên cạnh các hiệu ứng được tạo ra bởi tác động tĩnh, các FTA còn tạo ra một loạt
các hiệu ứng khác như: tính kinh tế nhờ quy mô, thúc đẩy cạnh tranh, thúc đẩy đầu tư,
chuyển giao tri thức và công nghệ, học hỏi tập quán tốt,… hay còn gọi là những hiệu
ứng “động”. Có những FTA có thể không đạt được những hiệu ứng phúc lợi tĩnh tích
cực như tạo thêm thương mại, cải thiện điều kiện thương mại, thậm chí gây ra những
hiệu ứng tiêu cực ban đầu như làm chệch hướng thương mại và làm xấu đi điều kiện
thương mại, song các FTA này lại có thể tạo ra những hiệu ứng “động” giá trị như thúc
đẩy cạnh tranh, chuyên môn hóa trong hoạt động kinh tế hay tăng hiệu quả từ quy mô
kinh tế lớn hơn, từ đó tạo ra những chuyển dịch cơ cấu tích cực mà về lợi ích dài hạn
lớn hơn nhiều những cái giá của các hiệu ứng tiêu cực ngắn hạn có thể có (T.Giang,
2013).
Hiệu ứng tăng trưởng: Hiệu quả này được phản ánh qua hai phương diện chính
là gia tăng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô thị trường lớn hơn và tạo ra dòng thương mại
và đầu tư mới và kết quả là làm gia tăng thu nhập.
Hiệu ứng thúc đẩy cạnh tranh: Cải thiện môi trường kinh tế cạnh tranh luôn được
coi là mục tiêu dài hạn của những nền kinh tế phát triển khi tìm kiếm mối quan hệ kinh
tế gần gũi hơn với các nền kinh tế thị trường phát triển. Mức độ cạnh tranh trong nền
kinh tế gia tăng cùng với việc xóa bỏ các rào cản thương mại, các công ty có được điều
kiện gia nhập thị trường cởi mở hơn. Mức độ cạnh tranh gia tăng giúp giảm giá thành
và cải thiện năng suất. Một khối thương mại được tốt sẽ làm tăng hiệu quả và phúc lợi
11
kinh tế do tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và tăng cường môi trường
cạnh tranh đối với doanh nghiệp và nhà sản xuất.
Hiệu ứng thúc đẩy đầu tư: Việc hình thành FTA không chỉ liên quan đến vấn đề
cắt giảm thuế quan thương mại mà nó còn tạo ra những hiệu ứng quan trọng đối với môi
trường đầu tư và hành vi của nhà đầu tư. Một FTA khi hình thành có thể thúc đẩy cả
dòng đầu tư nội địa và đầu tư nước ngoài, dòng đầu tư giữa các thành viên FTA và bên
ngoài FTA. Đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), FTA mang lại cơ hội
tiếp cận thị trường rộng lớn với sức mua lớn hơn. Các dòng FDI từ bên ngoài vào một
khu vực thương mại tự do thường tận dụng điều kiện tiếp cận thị trường mới để vượt
qua các hàng rào thuế quan giữa các thành viên FTA (T.Giang, 2013).
Việc xóa bỏ hay giảm bớt thuế quan, các hàng rào thương mại sẽ thúc đẩy hoạt
động cạnh tranh, thu hút đầu tư và quá trình chuyển giao công nghệ, từ đó thúc đẩy năng
suất và quá trình phát triển. Những hiệu ứng động này không những tạo thêm thương
mại cho các nước tham gia FTA mà còn tạo thêm thương mại cho những nước ngoài
FTA do hưởng lợi từ mức độ mở cửa thương mại, chính sách thu hút đầu tư.
Các FTA thế hệ mới xem xét hợp tác thương mại khu vực ở cấp độ hội nhập sâu
hơn, quan tâm hơn đến những thay đổi từ việc gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan đến
những thay đổi chính sách điều tiết (chính sách cạnh tranh, chính sách đầu tư, chính sách
môi trường…) bên trong một nền kinh tế. Thực thi cam kết trong các FTA cũng tác động
lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa; đòi hỏi phải tổ chức lại
thị trường này theo những mô hình kinh doanh mới, xác lập các liên kết từ sản xuất,
phân phối đến tiêu dùng và xuất nhập khẩu, hình thành các chuỗi cung ứng để có thể tạo
được chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
1.2.
Khái quát về TPP
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – viết tắt là TPP) là một hiệp định thương
mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Đây là một Hiệp định thương mại Tự do kiểu mới, được ký kết giữa nhiều bên,
với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước, nhằm thúc
12
đẩy thương mại, hấp dẫn đầu tư, thúc đẩy các nước cải cách thể chế. Trước đây, TPP
được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer Economic Partnership (P3CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ tướng Singapore Goh Chok Tong
và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh
đạo của APEC diễn ra tại Los Cabos, Mexico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán
ở vòng 5 vào tháng 04 năm 2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Pacific4 (P4) (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement: Understanding the P4
- The original P4 agreement, 2012).
Hiệp định TPP được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước
Singapore, Chile, New Zealand và Brunei. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ có ý định muốn tham
gia đàm phán TPP; sau đó, tháng 11/2008, các nước Australia, Peru cũng tuyên bố tham
gia. Tiếp đến là Canada tham gia vào tháng 10/2012 và mới đây nhất, Nhật Bản tham gia
đàm phán vào tháng 3/2013. Việt Nam đã tuyên bố tham gia TPP với tư cách là thành
viên đầy đủ từ ngày 13/11/2010. Tính đến thời điểm hiện nay, có 12 quốc gia tham gia
đàm phán, trong đó có những đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam như:
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Singapore. Với sự tham gia của các nền kinh tế lớn trên
thế giới, TPP trở thành khu vực kinh tế với hơn 790 triệu dân, đóng góp 40% GDP và
chiếm 1/3 thương mại toàn cầu (TTP - Trade Ministers’ Report to Leaders, 2013).
Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa
các nước thành viên trước ngày 01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015.
Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp định
thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào
cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền…
TPP được đánh giá là Hiệp định mẫu mực cho thế kỷ XXI, không chỉ vì nó là
Hiệp định lớn mà còn ở tầm vóc và sức ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với Hiệp định
Thương mại song phương (BTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và trong
WTO; TPP mở rộng hơn bao gồm cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu
tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn có các vấn đề phi thương mại như mua sắm Chính
phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ...
13
Một số nội dung đàm phán nổi bật, nhạy cảm khi tham gia TPP là: Thương mại
hàng hóa, vấn đề đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước,
lao động, công đoàn, các rào cản kỹ thuật (Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật đối với
Thương mại - TBT, Hiệp định về việc áp dụng các Biện pháp kiểm dịch động thực vật
- SPS), chống tham nhũng, bảo vệ môi trường và các vấn đề khác.
1.3.
Tác động của TPP đến kinh tế Việt Nam
Tác động tổng thể của TPP đối với nền kinh tế Việt Nam có thể rất tích cực, song
không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi doanh nghiệp. TPP thực sự vừa là cơ hội to
lớn, vừa là thử thách nghiêm túc đối với cải cách và phát triển của Việt Nam.
1.3.1. Tích cực
Tham gia vào Hiệp đinh Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP) mang lại cho Việt Nam cơ hội phát triển nhiều mặt kinh tế - xã hội. Theo Bộ
trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng (2014), Việt Nam có thế nhận được nhiều cơ
hội cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá
trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế liên kết kinh tế khu vực,
đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đem lại.
Thứ hai, Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện tranh thủ hợp tác
quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập
quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói
riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, củng cố trạng thái cân bằng
trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, góp phần duy trì và củng cố môi trường hoà bình,
ổn định và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Ngoài ra, tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu,
tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Tham gia TPP gần như là cách duy nhất trong
trung hạn để có quan hệ FTA với Hoa Kỳ và một số nước với thị trường rất tiềm năng
với hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng dệt may xuất khẩu. Việt Nam sẽ có cơ hội
đàm phán để các nước mở cửa thị trường đối với các mặt hàng xuất khẩu.
14
Thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ được giảm xuống 0% và đó sẽ là cú hích
mạnh cho xuất khẩu. Việc Việt Nam có quan hệ FTA với Hoa Kỳ và các nước khác
trong TPP chắc chắn sẽ thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam. Quy mô chưa thể
dự đoán chính xác được nhưng từ sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với
Việt Nam sau khi Việt Nam vào WTO, có cơ sở để cho rằng các nhà đầu tư cũng sẽ
quan tâm không kém khi Việt Nam ký kết được Hiệp định TPP. (Vũ Huy Hoàng, 2014).
1.3.2. Tiêu cực
Gia nhập TPP, Việt Nam phải mở cửa mạnh hơn và do vậy, cạnh tranh sẽ gay gắt
hơn. Những ngành vốn được bảo hộ nhiều và những doanh nghiệp kém cạnh tranh sẽ
phải giảm sản xuất, thậm chí thu nhỏ hoặc phá sản. Các vấn đề xã hội nảy sinh đáng kể
ở nơi này nơi kia.
TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp
Việt Nam. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp
khó khăn. Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất
lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Tham gia Hiệp định TPP cũng có thể gây ra một số hệ quả về mặt xã hội. Tự do
hóa thương mại quá đột ngột có thể dẫn tới phá sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Tuy nhiên, do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước
TPP chưa có FTA với Việt Nam là không lớn nên nếu có thể đàm phán một lộ trình
giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, Việt Nam có thể xử lý
được vấn đề thất nghiệp nảy sinh do tham gia TPP.
Các yêu cầu trong TPP liên quan đến lao động dự kiến sẽ có tác động tới môi
trường lao động ở Việt Nam. Đây sẽ là vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu để có phương án
đàm phán phù hợp nhất. Bên cạnh đó, để thực thi cam kết trong TPP, Việt Nam có thể
sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở
hữu trí tuệ …
Tóm lại, TPP là hiệp định với tiêu chuẩn cao, có thể đem lại nhiều lợi ích nếu
Việt Nam có phản ứng chính sách phù hợp nhưng cũng sẽ có nhiều thách thức. Thông
15
qua Hiệp định TPP, Việt Nam có cơ hội nâng cao khả năng xuất khẩu bởi khu vực TPP
là thị trường rất lớn. Bên cạnh đó, các nội dung của Hiệp định TPP cũng hướng các
doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng trong khu vực, từ đó từng bước tiếp cận thị
trường quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy
nhiên, những cam kết và thực thi cam kết trong TPP đặt ra không ít thách thức, yêu cầu
cải cách, tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong
giai đoạn phát triển hiện nay.
16
CHƯƠNG 2
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TPP MANG LẠI CHO
HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
2.1.
Thực trạng dệt may Việt Nam hiện nay
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Dệt may được xem là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội. Từ những năm 1990 đến nay, sản phẩm dệt may Việt Nam không
ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch; trở thành mặt hàng
xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kim ngạch
xuất khẩu của ngành dệt may trong những năm qua luôn đứng thứ hai trong tổng số
những ngành có sản phẩm xuất khẩu (đứng sau kim ngạch xuất khẩu của dầu mỏ) thu
về nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp phần không nhỏ vào ngân sách của nhà nước. Những
thành công của sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi đầu
tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong toàn ngành dệt
may, may mặc là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, có lợi thế cạnh tranh lớn trên
trường quốc tế. Hàng may mặc Việt Nam giờ đã có mặt ở các thị trường khó tính trên
thế giới như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản… (VITIC, 2013).
Hướng đi quan trọng nhất đối với Việt Nam trong những năm trước mắt là tập
trung vào xuất khẩu nhóm mặt hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, nâng cao tỷ
trọng của nhóm mặt hàng này trong cơ cấu xuất khẩu chung lên trên 50%, trong đó dệt
may và giày dép là hai mặt hàng chính. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành
hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Với sức tăng trưởng cao (trung bình
từ 30-40%/năm) liên tục và ổn định suốt mười năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã vượt
qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên chiếm thứ hạng cao trong danh sách
các mặt hàng chủ lực.Việt Nam có thể tự hào khi biết rằng, giá trị kim ngạch xuất khẩu
của ngành dệt may Việt Nam đã phát triển 8 lần trong một thời gian ngắn. So với các
nước trong khu vực có quá trình phát triển lâu dài hơn, thì đây quả là một điểm sáng của
dệt may Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam thường xuyên đứng trong Top 5 các nước xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới.
17
Biểu đồ 2.1: Chỉ số RCA dệt may của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á
Dệt may
3
2.5
Việt nam
2
Singapore
1.5
Thái lan
Indonexia
1
Malaysia
0.5
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nguồn: Tính toán từ số liệu Trademap
Đối với ngành dệt may của Việt Nam, chỉ số RCA suốt từ giai đoạn 2008 đến
2012 luôn đạt ở mức cao và đều có RCA>1, tức là Việt Nam có lợi thế so sánh hiện hữu
ở ngành dệt may. Từ chỉ số có thể cho thấy Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa việc xuất
khẩu ngành dệt may, không chỉ tận dụng lợi thế so sánh của hiện đang có, mà phải giữ
được việc phát triển dài hạn.
Việc tham gia vào sân chơi quốc tế như WTO, hay sắp tới là TPP đã đang và sẽ
tạo ra những tác động tích cực cho ngành dệt may Việt Nam và rõ nét nhất là tăng tưởng
xuất khẩu và tăng thị phần xuất khẩu, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 quốc gia có
kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Xét về thị phần, tính đến nay hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Theo ông Lê Tiến Trường (2014), Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt
Nam (Vinatex), Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), tốc độ tăng trưởng
nhập khẩu hàng dệt may của thị trường thế giới trong năm 2013 nhìn chung tăng chậm.
Cụ thể, tại thị trường Hoa Kỳ, một thị trường lớn nhất thế giới, xuất khẩu hàng may mặc
vào thị trường này chỉ tăng 3,6% (đạt 111 tỷ USD). Thị trường EU, mức tiêu thụ hàng
hóa dệt may thấp hơn, chỉ tăng trưởng 0,5 % (từ 233 tỷ USD năm 2012 lên 234 tỷ USD
18
năm 2013). Thị trường Nhật Bản, dung lượng nhập khẩu giảm 0,54%, chỉ đạt 41 tỷ
USD…
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007-2013
Triệu USD
25000
20000
20400
15000
14043
10000
5000
15093
11210
7750
9120
9065
2008
2009
0
2007
2010
2011
2012
2013
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Với bối cảnh chung của thị trường dệt may thế giới năm 2013 gần như không
tăng trưởng so với 2012, cạnh tranh hết sức gay gắt, nhưng theo thống kê của Hiệp hội
Dệt May Việt Nam (Vitas), giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành dệt may trong năm
2013 đạt khoảng 20,4 tỷ USD, tăng trên 18% so với 17,2 tỷ USD năm 2012. Trong đó
xuất khẩu hàng may mặc ước đạt 17,89 tỷ USD; xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại ước đạt
2,13 tỷ USD; xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may ước đạt 600 triệu USD. Hiện dệt may
chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Và trong 25 tỷ USD tổng kim ngạch
xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, dệt may chiếm hơn 1/3 giá trị xuất khẩu.
19
Bảng 2.1: Thị trường và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2013
Thị trường
Năm 2013 (triệu USD)
So với 2012 (%)
Tỷ trọng XK (%)
USA
8,612
15.46
47.98
EU
2,729
11.82
15.21
Nhật Bản
2,383
20.66
13.27
Hàn Quốc
1,641
53.49
9.14
ASEAN
420
21.27
2.34
Canada
391
24.21
2.18
Trung Quốc
355
43.67
1.98
Nguồn: Vitas, 2014
Mặc dù nhu cầu nhập khẩu dệt may nói chung tại nhiều thị trường lớn có dấu
hiệu chững lại, thậm chí giảm sút nhưng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào các thị
trường này vẫn tăng trưởng ổn định; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam lớn hơn
so với tốc độ tăng nhập khẩu của các thị trường này. Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn
Quốc tiếp tục là 4 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam. Cụ thể, theo thống kê
của Vitas, giá trị xuất khẩu dệt may năm 2013 so với năm 2012 của Việt Nam vào thị
trường EU tăng 11,8%; thị trường Nhật Bản tăng 20,7% và thị trường Hàn Quốc tăng
53,5%. Đáng chú ý, xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng gấp 4 lần tốc độ tăng nhập
khẩu. Ngoài ra, một số thị trường khác năm nay cũng đóng góp 4,3 tỷ USD cho dệt may
như: Ấn Độ (đạt 60-70 triệu USD), Nga (trên 100 triệu USD)…
Việc tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không chỉ tạo ra ngoại tệ để nhập
khẩu mà còn có những tác dụng khai thác ưu thế sẵn có sản xuất với khối lượng lớn cho
thị trường, từ đó tạo ra sản phẩm với giá thành thấp làm tăng khả năng cạnh tranh và hội
nhập của ngành dệt may Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu của các thị trường lớn như
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… và hướng tới một số thị trường tiềm năng như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Angola, New Zealand, Ấn Độ, Nga...
Trong bối cảnh suy giảm chung của ngành dệt may toàn thế giới dưới tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
vẫn đạt khá cao và gần như liên tục tăng trong những năm gần đây. Việc giữ vững tốc
20
độ tăng trưởng tại các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã
giúp ngành dệt may tạo đà để mở rộng sang các thị trường tiềm năng khác như Châu
Phi, Trung Đông...
2.1.2. Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may
Hiện nay, nguyên phụ liệu dệt may phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu do Việt
Nam sản xuất được còn rất hạn chế; phần lớn là nhập khẩu từ nước ngoài.
Bảng 2.2: Cân đối Xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 2012 - 2013
Chủng loại
Xuất khẩu dệt may
2012
2013
So 13/12
(triệu USD)
(triệu USD)
(%)
15,176
17,947
18.9
1,842
2,149
16.7
Tổng (1)
17,018
20,096
18.7
Nhập khẩu
11,363
13,547
18.8
875
1,171
33.4
Xơ sợi các loại
1,400
1,520
8.0
Vải
7,045
8,397
19.3
NPL DM
2,043
2,459
18.2
NK cho XK (2)
8,587
10,432
16.2
Cân đối X-NK (1) - (2)
8,431
9,664
21.5
Xuất khẩu xơ sợi
Bông
Nguồn: Vitas, 2014
Nhập khẩu bông nguyên liệu: nhập khẩu bông của Việt Nam năm 2013 ước đạt
590 nghìn tấn, trị giá 1,189 triệu USD, tăng 41.1% về lượng và tăng 35.6% về trị giá so
với năm 2012. Lượng bông nhập khẩu từ các thị trường lớn đều tăng mạnh so với cùng
kỳ 2012. Giá bông nhập khẩu trung bình của Việt Nam năm 2013 giảm 3.9% so với
cùng kỳ năm trước, xuống 2,018 USD/tấn. nhập khẩu bông chủ yếu từ Hoa Kỳ lớn nhất
chiếm 39,3% tổng lượng bông nhập khẩu, sau đó là nhập khẩu bông từ Ấn Độ và Úc.
Đáng chú ý là năm nay, nhập khẩu bông từ Braxin và Pakistan giảm nhiều từ 43,4-63,6%
về lượng so với cùng kỳ năm 2012.
21
Bảng 2.3: Thị trường nhập khẩu bông của Việt Nam tháng 11/2013
Nguồn: Vitas, 2014
Nhập khẩu vải của Việt Nam năm 2013 ước đạt 8,405 triệu USD, tăng 19.4 % so
với năm 2012. Dự báo nhập khẩu vải nguyên liệu của Việt Nam quý I/2014 đạt 1.9 tỷ
USD, tăng 17.7% so với cùng kỳ 2013, giá một số chủng loại vải quý I/2014 sẽ tăng nhẹ.
Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu vải của Việt Nam năm 2013
Nguồn: Vitas, 2014
Nhập khẩu xơ, sợi nguyên liệu của Việt Nam năm 2013 đạt 692 nghìn tấn, trị giá
1,514 triệu USD, tăng 7.1% về lượng và tăng 7.5% về trị giá so với năm 2012. Tính
riêng, xơ nguyên liệu nhập khẩu năm 2013 đạt 316,3 nghìn tấn, tăng 4.5% so với năm
2012. Giá sợi nhập khẩu của Việt Nam từ các thị trường tăng nhẹ 0.4% so với cùng kỳ
năm 2012, lên 2,188 USD/tấn, giá xơ giảm 3.1% xuống 1.758 USD/tấn.
22