MỤC LỤC
1
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Viện Môi trường, trường Đại học Hàng Hải Việt
Nam và sự đồng ý của Cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Như Ngọc, em đã thực
hiện đề tài : Đánh giá một số nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường biển do
dầu tại tỉnh Thanh Hóa.
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và rèn luyện ở Viện Môi Trường, Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Như Ngọc
đã tận tình, chu đáo hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
Dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách tốt nhất. Nhưng do lần
đầu làm quen với công tác nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu thực tế cũng như hạn
chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định mà bản thân chưa nhận thấy được. Em rất mong nhận được sự góp ý của
quý Thầy, Cô giáo để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 5 tháng 12 năm 2015
Sinh viên
Vũ Tuấn Hưng
2
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BVMT
Bảo vệ môi trường
BCĐ
Ban chỉ đạo
BCH
Ban Chỉ huy
BCHPCLB&TKC
N
Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn
BTN&MT
Bộ Tài nguyên và Môi trường
CSSX
Cơ sở sản xuất
CP
Chính phủ
GO
Dầu khí
GIS
Hệ thông tin địa lý (Geography Information System)
KHƯPSCTD
Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu
KCN
Khu công nghiệp
NĐ
Nghị định
PCP
Cơ quan đầu mối tại địa phương
PCLB&TKCN
Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn
PVN
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam)
QH
Quốc hội
QĐ
Quyết định
SCTD
Sự cố tràn dầu
TN&MT
Tài nguyên và môi trường
TTg
Thủ tướng
ƯPSCTD
Ứng phó sự cố tràn dầu
UBQGTKCN
Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn
UBND
Uỷ Ban Nhân Dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Bảng 2.1
Nội dung
Đặc điểm đường bờ vùng bờ biển tỉnh thanh hóa
3
Trang
10
Bảng 2.2
Sản lượng thủy sản (nghìn tấn) của các huyện ven biển tỉnh
Thanh Hóa năm 2014
Bảng 3.1
Thống kê cảng biển, cảng sông tỉnh Thanh Hóa
22
Bảng 3.2
Thống kê các vụ tai nạn, rủi ro trên biển trên địa bàn tỉnh
25
Bảng 3.3
Các khu vực chịu tác động do sự cố dầu tràn xảy ra tại cảng, bến cá
27
Bảng 3.4
Các khu vực chịu tác động do sự cố dầu tràn xảy ra ở các khu vực ven
biển trên địa bàn tỉnh
34
Bảng 4.1
Tàu có khả năng tham gia ứng phó sự cố tràn dầu trên địa bàn tỉnh
38
Bảng 4.2
Phương tiện ứng phó sự cố tràn dầu trên địa bàn tỉnh
39
Bảng 4.3
Trang thiết bị ứng phó của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
40
Bảng 4.4
Trang thiết bị ứng phó của công ty Cổ phần cảng Thanh Hóa
40
Bảng 4.5.
Trang thiết bị ứng phó của công ty xăng dầu Thanh Hóa
41
Bảng 4.6
Trang thiết bị ứng phó sự cố tràn dầu của Ban QLDA Nhiệt điện 2
41
Bảng 4.7
Trang thiết bị ứng phó của Cty CP cảng DVdầu khí tổng hợp PTSC
Thanh Hóa
42
Tàu ứng phó của Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu khu vực miền Bắc
Bảng 4.8.
Bảng 4.9.
44
Phương tiện và trang thiết bị ứng phó sự cố tràn dầu của trung tâm
Bảng 4.10. Các phương tiện, trang thiết bị cần trang bị
49
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình
Nội dung
4
46
Tran
g
Hình 2.1
Hình 4.1
Hình 4.2.
Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa
Sơ đồ báo động ƯPSCTD
Quy trình tổng thể ứng phó SCTD
15
66
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, sự gia tăng của các phương tiện vận tải thủy kèm theo đó là nguy cơ ô
nhiễm môi trường do sự cố tràn dầu đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải
5
quyết. Đặc biệt là sự cố tràn dầu trên biển và trên các hệ thống sông, cửa sông
ven biển đang là một trong những sự cố đặc biệt nguy hại. Thiệt hại gây ra do sự
cố tràn dầu ở các khu vực này không chỉ là kinh tế trước mắt mà còn để lại
những hậu quả lâu dài, môi trường bị hủy hoại nặng nề. Hơn nữa, chi phí khắc
phục, phục hồi cho những sự cố tràn dầu rất tốn kém, mất nhiều thời gian, thậm
chí có khi không thể cứu vãn nổi đối với những hoạt động vùng bờ như nông
nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, du lịch và hệ sinh thái và gây ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống dân cư trong vùng. Do vậy, sự cố tràn dầu đang trở
thành vấn đề bức xúc cần giải quyết của các ngành kinh tế biển và chính quyền
địa phương.
Thanh Hóa là tỉnh có đường bờ biển dài 102 km, vùng lãnh hải rộng
17.000 km2, vùng biển và ven biển Thanh Hóa có tài nguyên khá phong phú, đa
dạng, trong đó nổi bật là tài nguyên sinh vật biển, tài nguyên du lịch biển và
tiềm năng xây dựng cảng và dịch vụ hàng hải. Dọc theo bờ biển có nhiều cửa
sông, cửa lạch lớn nhỏ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển rừng ngập mặn,
nuôi trồng thủy sản. Với những đặc điểm của vùng biển rộng, giàu tiềm năng
sinh học, cùng với những giá trị về cảnh quan thiên nhiên, giá trị về kinh tế,
vùng biển Thanh Hóa thực sự là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá. Các yêu
cầu về quản lý, bảo vệ, ngăn chặn những sự cố môi trường, sự cố tràn dầu,
những yếu tố ảnh hưởng đến tài nguyên môi trường biển là hết sức quan trọng.
Là một trong những địa phương có tiềm năng xây dựng nhiều cảng,
Thanh Hóa có hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền nghề
cá, hệ thống cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng của Nhà máy xi măng Nghi Sơn,
nhà máy Nhiệt điện Nghi sơn, đặc biệt cảng xuất nhập dầu của Nhà máy Liên
hiệp lọc hóa dầu Nghi Sơn đang được triển khai đầu tư xây dựng. Hàng năm,
lượng dầu được vận chuyển thông qua cảng và sự gia tăng các phương tiện vận
chuyển xuất nhập khẩu dầu, cũng như phương tiện lưu trữ, phân phối các sản
phẩm xăng dầu đang càng ngày càng tăng nhanh, mật độ dày hơn làm tăng nguy
cơ tiềm ẩn gây sự cố tràn dầu trên biển. Bên cạnh đó, ý thức tham gia giao thông
của người điều khiển chưa cao, hệ thống neo đậu tàu thuyền ngày càng xuống
cấp do đó việc đảm bảo an toàn giao thông đường thủy, dẫn đến nguy cơ xảy ra
sự cố dầu tràn là rất cao. Hơn nữa, việc ứng phó với sự cố tràn dầu trên biển
hiện nay rất khó khăn do diễn ra trên phạm vi vùng biển rất rộng, trong khi nhân
6
lực, phương tiện, điều kiện phòng chống ứng cứu sự cố môi trường của các
ngành, địa phương trong tỉnh còn rất thiếu và yếu.
Bên cạnh sự cố tràn dầu trên biển còn có sự cố tràn dầu phát sinh trên các
hệ thống sông do sự va chạm giữa các tàu thuyền tham gia lưu thông trên sông.
Sự cố tràn dầu còn có khả năng xảy ra trên đất liền tại các kho chứa, cửa hàng
kinh doanh xăng dầu và phương tiện vận chuyển xăng dầu. Là một tỉnh có diện
tích rộng, dân số đông, nền kinh tế ngày càng phát triển, do vậy nhu cầu về tiêu
thụ xăng dầu cho sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn tỉnh sẽ ngày càng cao, kéo
theo đó là sự phát triển của các đơn vị cung cấp, kinh doanh xăng dầu cả về quy
mô và số lượng. Về quy mô, tính đến thời điểm hiện nay, Thanh Hóa đã có các
công trình xăng dầu thuộc hạng mục công trình an ninh quốc gia như kho xăng
dầu Đình Hương của Công ty Xăng dầu Thanh Hoá; kho xăng dầu của Công ty
Hoàng Sơn, kho xăng dầu của Công ty Thương mại & Đầu tư Phát triển Miền
Núi, kho xăng dầu của Công ty PETEC, kho xăng dầu của Công ty Cổ phần công
nghiệp thủy sản Nam Thanh tại cảng Lễ Môn. Về số lượng, toàn tỉnh hiện có hơn
300 cửa hàng kinh doanh xăng dầu. Đây cũng là những nguồn có nguy cơ xảy ra
sự cố tràn dầu trong tỉnh Thanh Hóa; nếu xảy ra sự cố tràn dầu mà không có các
phương án ứng phó kịp thời sẽ gây ảnh hưởng lớn đến môi trường và thiệt hại về
kinh tế - xã hội.
Với những lý do trên, việc xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu
trên địa bàn tỉnh là nhiệm vụ hết sức cấp thiết, giúp nâng cao hiệu quả công tác
ứng phó sự cố tràn dầu và hạn chế thiệt hại tới mức thấp nhất về kinh tế, môi
trường và con người.
7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Một số định nghĩa và khái niệm
1. Dầu và các sản phẩm của dầu bao gồm:
a) Dầu thô là dầu từ các mỏ khai thác chưa qua chế biến;
b) Dầu thành phẩm là các loại dầu đã qua chế biến như xăng, dầu hỏa, dầu
máy bay, dầu Diesel (DO), dầu mazút (FO), và các loại dầu bôi trơn bảo quản, dầu
thủy lực;
c) Các loại khác là dầu thải, nước thải lẫn dầu từ hoạt động súc rửa, sửa
chữa của tàu biển, tàu sông, các phương tiện chứa dầu;
2. Sự cố tràn dầu là hiện tượng dầu từ các phương tiện chứa, vận chuyển
khác nhau, từ các công trình và các mỏ dầu thoát ra ngoài môi trường tự nhiên
do sự cố kỹ thuật, thiên tai hoặc do con người gây ra.
3. Sự cố tràn dầu đặc biệt nghiêm trọng là sự cố tràn dầu xảy ra với khối
lượng lớn dầu tràn ra trên diện rộng, liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố đe dọa
nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản, môi trường và đời sống, sức khoẻ của nhân
dân.
4. Ứng phó sự cố tràn dầu là các hoạt động sử dụng lực lượng, phương
tiện, thiết bị, vật tư nhằm xử lý kịp thời, loại trừ hoặc hạn chế tối đa nguồn
dầu tràn ra môi trường.
5. Khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu là các hoạt động nhằm làm sạch đất,
nước, hệ sinh thái khu vực bị nhiễm dầu và các biện pháp hạn chế thiệt hại, phục
hồi môi sinh sau sự cố tràn dầu.
6. Hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu là tất cả các hoạt động từ việc chuẩn
bị, ứng phó, khắc phục, giải quyết hậu quả sự cố tràn dầu.
7. ”Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu là dự kiến các nguy cơ, tình huống
sự cố có khả năng xảy ra tràn dầu cùng các phương án ứng phó trong tình huống
dự kiến đó, các chương trình huấn luyện, diễn tập để đảm bảo sự sẵn sàng các
nguồn lực kịp thời ứng phó khi sự cố tràn dầu xảy ra trên thực tế”.
(Nguyễn Bá Diễn, Tổng quan pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm dầu
ở các vùng biển)
8
8. Kế hoạch khẩn cấp ứng phó sự cố tràn dầu là phương án triển khai các hoạt
động khẩn cấp để ứng phó, khắc phục, giải quyết hậu quả trong trường hợp xảy ra sự cố
tràn dầu.
9. Hiện trường ứng phó sự cố tràn dầu là khu vực triển khai các hoạt động
ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu.
10. ”Chỉ huy hiện trường là người được phân công hoặc được chỉ định
trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động ứng phó tại nơi xảy ra sự cố tràn dầu. Quyền
hạn và trách nhiệm của chỉ huy hiện trường được quy định cụ thể trong Kế
hoạch ứng phó sự cố tràn dầu của từng cơ sở, địa phương, đơn vị”. (Nguyễn Bá
Diễn, Tổng quan pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm dầu ở các vùng
biển)
11. Cơ sở là các cơ quan, đơn vị cá nhân có hoạt động về khai thác, vận
chuyển, chuyển tải, sử dụng dầu và các sản phẩm dầu gây ra hoặc có nguy cơ gây ra
sự cố tràn dầu.
12. Cơ sở ngoài khơi là bất kỳ thiết bị, cấu trúc lắp đặt cố định hay di
động trên mặt biển ở phía bên ngoài lãnh hải Việt Nam tham gia vào việc thăm
dò, khai thác hoặc các hoạt động sản xuất, hay xuất nhập dầu.
13. Chủ cơ sở là người đứng đầu cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm toàn bộ
về pháp lý đối với các hoạt động của cơ sở.
14. Cơ quan chủ trì ứng phó sự cố tràn dầu là cơ quan tổ chức các hoạt
động ứng phó sự cố tràn dầu.
15. Đơn vị ứng phó sự cố tràn dầu (đơn vị ứng phó) là các tổ chức có
trang thiết bị ứng phó sự cố tràn dầu và nhân lực được huấn luyện, đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ để tiến hành hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu.
16. ”Khu vực ưu tiên bảo vệ là khu vực có độ nhạy cảm cao về môi
trường hoặc kinh tế xã hội, cần ưu tiên bảo vệ khi xảy ra sự cố tràn dầu như
rừng ngập mặn, dải san hô, khu bảo tồn sinh thái, khu dự trữ sinh quyển, điểm
nguồn nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất, khu di tích lịch sử đã được xếp hạng,
khu du lịch, khu nuôi trồng thủy sản tập trung”. (Nguyễn Bá Diễn, Tổng quan
pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm dầu ở các vùng biển)
9
17. Khu vực hạn chế hoạt động là khu vực được xác lập bởi các tọa độ
trên hải đồ trên biển hoặc bằng các ranh giới, địa giới cụ thể trên bờ, ven biển để
cảnh báo, hạn chế sự đi lại trong khu vực để bảo đảm an toàn khi tiến hành cứu
hộ, cứu nạn, ứng phó sự cố tràn dầu.
18. Bên gây ra ô nhiễm tràn dầu là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào gây ra tràn
dầu làm ô nhiễm môi trường.
19. ”Đầu mối liên lạc quốc gia về sự cố dầu tràn, hóa chất độc hại trên
biển (viết tắt là Đầu mối liên lạc quốc gia) là đầu mối thường trực chịu trách
nhiệm nhận, chuyển phát và xử lý các báo cáo khẩn cấp từ tàu trên vùng biển
Việt Nam về các sự cố liên quan đến dầu, hóa chất độc hại”. (Nguyễn Bá Diễn,
Tổng quan pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm dầu ở các vùng biển)
1.2.
Hiện trạng ô nhiễm môi trường biển do dầu trên thế giới
Các thống kê cho thấy từ năm 1900 đến nay, trung bình mỗi năm trên thế
giới có từ 2 đến 4 vụ tràn dầu lớn trên biển.
Những sự cố nổi bật có thể kể tới là:
- Năm 1978, tàu Amoco Cadiz làm tràn 231 ngàn tấn dầu thô xuống vùng
Brittany, tây bắc nước Pháp.
- Tiếp đó 3/6/1979 tại vịnh Mexico: Giếng tàu thăm dò IXTOC 1 bị vỡ,
tràn ra khoảng 80 triệu gallon dầu thô ra biển. Đến 1/11/1979 đã xảy ra vụ va
chạm giữa tàu BURMAH- AGATE với tàu chở hang Mimosa làm 2,6 triệu
gallon dầu tràn ra biển.
- Năm 1989, tàu Exxon Valdez làm tràn 40 ngàn tấn dầu ngoài khơi
Alaska (Hoa Kỳ).
- 25/11/1991 nam Kuwait: trong chiến tranh vùng vịnh, Iraq cố tình bơm
khoang 60 triệu gallon dầu thô vào vịnh Ba Tư.
- 10/8/1993, vịnh Tampa: Xà lan Bouchard B155, tàu chở hàng Balsa 37
và Xà lan Ocean 255 va vào nhau làm tràn khỏang 336 gallon dầu.
- 15/2/1996 Biển xứ Wales: Siêu tàu chở dầu Sea Empress va vào đất liền
tại vịnh Milford Haven, làm tràn 70 triệu lít dầu thô.
10
- 18/2/2000 ngoài khơi Rio de Janeiro, Brazil: đường ống dẫn dầu bị vỡ
làm tràn 343200 gallon dầu nặng vào vịnh Guanbara.
- Năm 2002, tàu Prestige làm tràn 77 ngàn tấn dầu ngoài khơi phía tây bắc
Tây Ban Nha.
- Năm 2007, tàu Hebei Spirit làm tràn 2,7 triệu galong dầu ra biển tây
nam Hàn Quốc.
Hầu hết các vụ tràn dầu đều biến thành thảm họa với những tổn thất
nghiêm trọng về sinh thái, kinh tế và xã hội.
1.3.
Hiện trạng ô nhiễm môi trường biển do dầu ở Việt Nam
“Việt Nam nằm trên tuyến đường giao thông chính từ Trung Đông đến
các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại khu vực Đông
Nam Á diễn ra nhiều hoạt động thăm dò và sản xuất dầu khí, Việt Nam là quốc
gia có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh, kéo theo nhu cầu về dầu mỏ cũng
tăng cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây sự cố tràn dầu. Vùng biển Việt Nam là loại
biển mở nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là một trong những trục
hàng hải có lưu lượng tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70% là tàu chở dầu. Với
đường bờ biển kéo dài 3000km cùng hệ thống sông suối, kênh rạch chằng chịt
song điều kiện hạ tầng hàng hải và phòng phòng ngừa sự cố yếu kém, nguy cơ
xảy ra sự cố dầu tràn, tràn đổ hóa chất ở Việt Nam là rất lớn. Việt Nam cũng là
một quốc gia có hoạt động khai thác, xuất nhập khẩu xăng dầu khá lớn. Tính đến
nay, đội tàu biển Việt Nam có tổng số 1.614 tàu với 4.497.157 GT và 7.348.206
DWT. Hệ thống cảng biển Việt Nam gồm 49 cảng, trên 130 cầu bến với tổng
chiều dài cầu cảng gần 40km. Trong năm 2010, có khoảng 119.744 lượt tàu ra
vào các cảng biển VN với tổng sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống ước
chừng 259 triệu tấn. Theo Cục ĐKVN, cả nước hiện có 160 cơ sở đóng và sửa
chữa tàu biển, trong đó có 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu trọng tải ≥ 1.000
DWT với 170 công trình nâng hạ thủy. Hầu hết trong số này có quy mô nhỏ lẻ,
công nghệ lạc hậu… rất khó nâng cao năng lực trong hoàn cảnh hiện tại”. (TS
Nguyễn Hồng Thao, Bảo vệ môi trường biển vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia)
“Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua đã kéo theo đó là
11
những hệ lụy của ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp và sinh hoạt,
trong đó có không nhỏ lượng dầu thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
thải vào hệ thống công thoát và đổ ra sông, ra biển. Số lượng dầu mỏ thấm qua
đất và lan truyền ra nước biển ước tính 3 triệu tấn mỗi năm. Theo Báo cáo quốc
gia về ô nhiễm biển từ đất liền Việt Nam năm 2004 thì lượng dầu mỡ khoáng
thải xuống biển của các cơ sở công nghiệp chỉ riêng thành phố Hạ Long là 844
tấn/năm. Từ vùng kinh tế trọng điểm phía nam đã thải vào các con sông lượng
nước thải sinh hoạt là 113.216m3/ngày và nước thải công nghiệp là 312.330
m3/ngày, theo đó một lượng không nhỏ dầu thải đã đổ vào sông, biển, gây nên ô
nhiễm dầu cho môi trường. Ô nhiễm dầu ở Việt Nam còn bắt nguồn từ các hoạt
động khai thác dầu khí và sự cố tràn dầu trên biển Đông. Hiện nay, Biển Đông
đã trở thành một trong những vùng biển nhộn nhịp các điểm thăm dò và khai
thác dầu khí. Nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí,
phát triển mạnh ở các khu vực: Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan và Quần đảo
Trường Sa. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối
lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này còn phát thải khoảng 5.600 tấn rác
thải dầu khí, trong đó có 20 – 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi
chứa và xử lý. Ngoài ra, hàng năm ước tính có khoảng 1 triệu tấn dầu mỏ tràn ra
mặt biển do những sự cố ở các dàn khoan dầu. Các tàu chở dầu cũng làm thất
thoát một lượng dầu mỏ ước tính tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá trình
vận chuyển thông thường . Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường
(2008), từ năm 1997 đến nay, ở Việt Nam đã xảy ra hơn 50 vụ tràn dầu trên
biển, trên sông do các hoạt động khai thác vận chuyển dầu, trong đó một số sự
cố đến nay chưa xác định được nguồn gốc”. (TS Nguyễn Hồng Thao, Bảo vệ
môi trường biển vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia)
Biển Việt Nam đang ở trong tình trạng ô nhiễm đáng báo động: Hàm
lượng dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu
chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn Hiệp hội các Nước Đông Nam Á
(ASEAN. Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có
hàm lượng dầu đạt mức 1,75 mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép; vịnh Hạ Long
có 1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/l.
12
1.4.
Phạm vi kế hoạch
Phạm vi của kế hoạch áp dụng trên phạm vi toàn tỉnh bao gồm cả trên đất
liền và trên vùng biển Thanh Hóa. Trong đó tập trung vào khu vực ven bờ (ven
bờ biển, cửa sông), trong các dòng sông chảy ra biển, vùng biển Thanh Hóa và
khu vực có các bến cảng xăng dầu chuyên dùng, các kho xăng dầu.
1.5.
Cơ sở pháp lý
1. Luật Bảo vệ môi trường của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 52/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
2. Bộ luật hàng hải của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 40/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.
3. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
4. Nghị định thư 1992 sửa đổi Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm
dân sự đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu, năm 1969 (CLC 92).
5. Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3/2009 về việc quản lý tổng hợp
tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo;
6. Nghi định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
7. Nghị định 113/2010/NĐ-CP ngày 31/12/2010 của Thủ tướng Chính
phủ Quy định về thiệt hại đối với môi trường.
8. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020.
9. Quyết định số 02/2013/QĐ-TTg ngày 14/01/2013 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu.
10. Công văn số 69/CV-UB ngày 05/3/2009 của ủy ban Quốc gia Tìm
kiếm cứu nạn về việc “Hướng dẫn triển khai xây dựng và cập nhật Kế hoạch
ứng phó sự cố tràn dầu, Bản đồ nhạy cảm các tỉnh, thành phố ven biển”.
11. Kế hoạch 37/KH-UBND ngày 03/9/2009 của UBND tỉnh Thanh Hóa về
việc thực hiện Nghị quyết số: 27 /NQ-CP ngày 12/6/2009 của Chính phủ về một
13
số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường.
12. Quyết định số 35/QĐ- UBND ngày 04/01/2013 của UBND tỉnh
Thanh Hóa về việc ban hành Chương trình Công tác trọng tâm năm 2013.
13. Quyết định số 1733/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 của UBND tỉnh Thanh
Hóa phê duyệt đề cương nhiệm vụ xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu tỉnh
Thanh Hóa [4].
14
CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ
HỘI TỈNH THANH HÓA
2.1. Điều kiện về địa lý, khí hậu và khí tượng.
2.1.1. Vị trí địa lý
Thanh Hoá là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, cách Thủ đô Hà Nội 153km
về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Thanh Hoá Nằm ở vị trí
từ 19,18o đến 20,40o vĩ độ Bắc; 104,22o đến 106,40o kinh độ Đông. Có ranh giới
như sau:
- Phía Bắc giáp 3 tỉnh: Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La.
- Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An.
- Phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn - CHDCND Lào.
- Phía Đông mở ra phần giữa của Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông.
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa
Diện tích đất tự nhiên của Thanh Hoá là 11.130,47 km 2, dân số của tỉnh
năm 2012 là 3.426.511 người. Toàn tỉnh có 1 thành phố, 2 thị xã, 24 huyện,
15
trong đó có 6 huyện, thị ven biển (Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng
Xương, Tĩnh Gia và thị xã Sầm Sơn).
2.1.2. Địa hình
Địa hình ở Thanh Hoá đa dạng, có hướng thấp dần từ Tây sang Đông và
chia thành 3 vùng rõ rệt:
* Vùng núi và trung du: “gồm 11 huyện (Như Xuân, Như Thanh,
Thường xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc
Lặc, Cẩm Thuỷ và Thạch Thành) với diện tích tự nhiên 7994,28 km 2 (chiếm
70,5% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đây là vùng nối liền giữa hệ núi cao phía
Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Độ cao trung bình ở vùng núi từ 600
- 700 mét, độ dốc trên 25o, vùng trung du có độ cao trung bình 150-200 mét, độ
dốc từ 150 đến 200. Vùng có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh gây trở ngại lớn
cho phát triển kinh tế và xây dựng kết cấu hạ tầng”.
(Website://thanhhoa.gov.vn/)
* Vùng đồng bằng: “gồm 10 huyện (Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định,
Đông Sơn, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Nông Cống, Hà Trung, TP Thanh Hoá và TX.
Bỉm Sơn) với diện tích tự nhiên 1.955,40 km2 (chiếm 18,5% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh). Đây là vùng được bồi tụ bởi hệ thống sông Mã, sông Yên. Vùng có
địa hình xen kẽ giữa vùng đất bằng với các đồi thấp và núi đá vôi độc lập, độ
cao trung bình từ 5 - 15 mét, một số nơi trũng như Hà Trung có độ cao chỉ từ 0 1 mét. Nhìn chung vùng đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi
cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp”. (Website://thanhhoa.gov.vn/)
* Vùng ven biển: “gồm 6 huyện chạy dọc bờ biển từ huyện Nga Sơn, Hậu
Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh Gia, với diện tích 1.180,80
km2 (chiếm 11 % diện tích tự nhiên). Vùng có địa hình bằng phẳng, độ cao trung
bình từ 3 - 6 mét, riêng phía Nam huyện Tĩnh Gia địa hình có dạng sống trâu do
các dãy đồi kéo dài ra biển. Đây là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi gia cầm), đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cảng và phát triển dịch vụ vận tải
sông, biển...’. (Website://thanhhoa.gov.vn/)
16
* Đặc điểm đường bờ vùng ven biển
Vùng ven biển gồm 06 huyện chạy dọc ven bờ biển với chiều dài 102 km
từ huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh
Gia. Địa hình tương đối bằng phẳng, chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Các
dạng đường bờ biển trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa được thống kê như sau.
17
Bảng 2.1. Đặc điểm đường bờ vùng bờ biển tỉnh Thanh Hóa
18
TT
Huyện
1
Huyện
Nga Sơn
2
3
Huyện
Hậu Lộc
Huyện
Hoằng
Hóa
Xã
Xã Nga Tân
Bùn, cát
Xã Nga Thủy
Bùn, cát
Xã Đa Lộc
Bùn, cát
Xã Ngư Lộc
Bùn, cát
Xã Minh Lộc
Bãi triều
Xã Hải Lộc
Bùn, cát
Xã Hoàng Yến
Bùn
Xã Hoằng Trường
Bờ sỏi đá
Xã Hoằng Trường đến Bến cá
Bờ cát
Hoằng Phụ
Bến cá Hoằng Trường đến Cửa
Bùn, cát
sông Lạch Hới
Xã Hoằng Châu
4
5
6
Huyện
Quảng
Xương
TX. Sầm
Sơn
Huyện
Tĩnh Gia
Đặc diểm đường
bờ
Bùn, cát
Bờ biển từ Quảng Vinh đến X. Quảng
Bờ cát
Nham
Khu vực cửa sông Lạch Ghép
Bùn, cát
Bờ biển khu vực cảng cá Lạch Hới
Bùn cát
Xã Quảng Cư
Bùn, cát
Bờ biển từ xã Quảng Cư đến
Bãi cát
phường Trường Sơn
Bờ biển phường Trường Sơn
Bờ sỏi đá
Xã Hải Châu
Bùn
Xã Hải Ninh
Bùn
Bờ biển từ xã Hải An đến xã Hải
Bờ cát
Hòa
Xã Hải Thanh
Bùn, cát, rạn đá
Xã Hải Bình
Bùn, cát
Xã Hải Bình đến xã Hải Thượng
Bờ cát
Khu vực đảo Nghi Sơn
Bờ sỏi đá
Cảng nước sâu Nghi Sơn
Rặng đá
Xã Hải Hà
Bùn
Khu vực đảo Mê
19
Bờ sỏi đá
2.1.3. Khí hậu và khí tượng
Thanh Hoá nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt: Mùa hạ
nóng, ẩm mưa nhiều và chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô, nóng. Mùa đông
lạnh và ít mưa. Theo quan trắc của Trung tâm KTTV Thanh Hóa, điều kiện thời tiết
Thanh Hóa có những đặc trưng sau:
- Chế độ nhiệt: Thanh Hoá có nền nhiệt độ cao, nhiệt độ trung bình năm
khoảng 230C- 240C, tổng nhiệt độ năm vào khoảng 8.500 0C- 8.7000C. Hàng năm
có 4 tháng nhiệt độ trung bình thấp dưới 20 0C (từ tháng XII đến tháng III năm
sau), có 8 tháng nhiệt độ trung bình cao hơn 200C (từ tháng IV đến tháng XI).
Biên độ ngày đêm từ 70C - 100C, biên độ năm từ 110C - 120C.
- Độ ẩm: Độ ẩm không khí biến đổi theo mùa nhưng sự chênh lệch độ ẩm
giữa các mùa là không lớn. Độ ẩm trung bình các tháng hàng năm khoảng 85%,
phía Nam có độ ẩm cao hơn phía Bắc, khu vực núi cao ẩm ướt hơn và có sương
mù.
- Chế độ mưa: “ Lượng mưa ở Thanh Hóa là khá lớn, trung bình năm từ
1.456,6 - 1.762,6 mm, nhưng phân bố rất không đều giữa hai mùa và lớn dần từ
Bắc vào Nam và từ Tây sang Đông. Mùa khô (từ tháng XI đến tháng IV năm
sau) lượng mưa rất ít, chỉ chiếm 15 - 20% lượng mưa cả năm, khô hạn nhất là
tháng I, lượng mưa chỉ đạt 4 - 5 mm/tháng. Ngược lại mùa mưa (từ tháng V đến
tháng X) tập trung tới 80 - 85% lượng mưa cả năm, mưa nhiều nhất vào tháng
VIII có 15 đến 19 ngày mưa với lượng mưa lên tới 440 - 677 mm. Ngoài ra
trong mùa này thường xuất hiện giông, bão kèm theo mưa lớn trên diện rộng gây
úng lụt. Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình từ 84 - 86% và có sự chênh
lệch giữa các vùng và theo mùa. Mùa mưa độ ẩm không khí thường cao hơn
mùa khô từ 10 - 18%”. (Website://thanhhoa.gov.vn/)
- Chế độ gió: Thanh Hoá nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ,
hàng năm có ba hướng gió thịnh hành:
+ Gió Bắc (còn gọi là gió Bấc): Do không khí lạnh từ Bắc cực qua lãnh
thổ Trung Quốc thổi vào.
+ Gió Tây Nam: Từ vịnh Belgan qua lãnh thổ Thái Lan, Lào thổi vào, gió
rất nóng nên gọi là gió Lào hay gió phơn Tây Nam. Trong ngày, thời gian chịu
ảnh hưởng của không khí nóng xảy ra từ 10 giờ sáng đến 12 giờ đêm.
20
+ Gió Đông Nam (còn gọi là gió nồm): Thổi từ biển vào đem theo không khí
mát mẻ.
Vào mùa hè, hướng gió thịnh hành là hướng Đông và Đông Nam; các
tháng mùa đông hướng gió thịnh hành là hướng Bắc và Đông Bắc.
Tốc độ gió trung bình năm từ 1,3 - 2 m/s, tốc độ gió mạnh nhất trong bão
từ 30 -40 m/s, tốc độ gió trong gió mùa Đông Bắc mạnh trên dưới 20 m/s.
- Bão và áp thấp nhiệt đới: Các cơn bão ở Thanh Hoá thường xuất hiện
từ tháng VIII đến tháng X hàng năm. Tốc độ gió mạnh nhất trong bão ghi nhận
được từ 30 - 40 m/s. Theo số liệu thống kê từ năm 1996 đến 2005 có 39 cơn bão
và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam, trong đó có 13 cơn bão và áp thấp
nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp tới Thanh Hóa.
2.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội
2.2.1. Dịch vụ du lịch
Thanh Hoá có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, gồm cả tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, là điều kiện thuận lợi để
phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như du lịch biển, du lịch mạo hiểm, du
lịch văn hóa-lịch sử, du lịch sinh thái…
21
- Về tài nguyên du lịch tự nhiên: “Thanh Hoá có bờ biển dài với nhiều bãi
biển đẹp như Sầm Sơn, Hải Tiến-Hoằng Hóa, Hải Hoà-Tĩnh Gia,... Các bãi biển
này đều có đặc điểm chung là dài, độ dốc thoải, cát trắng mịn, nước trong... rất
phù hợp cho tắm biển và các hoạt động vui chơi giải trí. Bên cạnh những bãi tắm
đẹp là những thắng cảnh như Hòn Trống Mái, đền Độc Cước, Đền Cô Tiên ở
Sầm Sơn... Ngoài khơi có các đảo như Hòn Nẹ, Hòn Mê,... làm cho các tuyến du
lịch ven biển thêm phần hấp dẫn. Hiện nay, bãi biển Sầm Sơn đã được khai thác
với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Các bãi biển khác hầu như vẫn còn giữ
nguyên vẻ hoang sơ với môi trường thoáng đãng, trong lành và đang được đầu
tư xây dựng như : Hải Tiến, Hải Hòa…”. (Website://thanhhoa.gov.vn/)
Thanh Hoá còn có nhiều hang động đẹp gắn với các truyền thuyết như
Động Từ Thức (Nga Sơn), động Hồ Công (Vĩnh Lộc), động Tiên Sơn (TP.
Thanh Hoá). Vườn quốc gia Bến En, các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Pù
Hu, khu sinh thái Hàm Rồng, vườn cò Tiến Nông, thắng cảnh Cửa Hà (Cẩm
Thuỷ), suối cá thần Cẩm Lương... là những tài nguyên du lịch sinh thái quý giá.
- Về tài nguyên du lịch nhân văn: Thanh Hoá là miền đất văn hoá rất lâu
đời. Các nền văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đa Bút… cùng với những địa danh
gắn liền với những tên tuổi của các anh hùng hào kiệt, các danh nhân như: Triệu
Thị Trinh, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ... đã để lại nhiều dấu ấn
trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, trong đó,
nhiều di tích đã được Nhà nước xếp hạng và đang được trùng tu, tôn tạo ở quy
mô quốc gia như: Đền Bà Triệu, Lam Kinh, Thành Nhà Hồ, Thái miếu Nhà
Lê… Đây là những tài sản vô cùng quý giá, không chỉ có ý nghĩa lịch sử, giáo
dục mà còn có thể khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Du khách đến Thanh Hoá không chỉ bởi cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú mà
còn giàu chất nhân văn với những lễ hội được lưu giữ từ bao đời nay như lễ hội
Lam Kinh (từ ngày 21 - 23/8 âm lịch); Lễ hội bánh chưng bánh dày (ngày 12/5
âm lịch); lễ hội Phủ Na được tổ chức 2 lần trong năm (tháng 1 đến tháng 2 và ngày
15/8 âm lịch); Lễ hội Cửa Đặt (từ ngày 4 - 30/1 âm lịch); Lễ hội Mai An Tiêm (từ
ngày 12 - 14/3 âm lịch)…
Theo số liệu thống kê, số lượng khách du lịch
trong năm 2012 của tỉnh là: Khách trong nước 2.980,1 (nghìn lượt người), khách
quốc tế 19,1 (nghìn lượt người); số ngày khách do các cơ sở lưu trú phục vụ
4.736,7 (ngày) với tổng doanh thu hơn 900 tỉ đồng.
22
2.2.2. Hoạt động hàng hải
a) Đường thủy nội địa
Tỉnh Thanh Hóa là tỉnh duy nhất có hệ thống kênh đào (Kênh đào nhà Lê)
nối liền 4 hệ thống sông tự nhiên chạy dọc theo vùng đồng bằng ven biển thông
suốt từ Bắc đến Nam của tỉnh. Chiều dài toàn bộ hệ thống sông, kênh dài
khoảng 1.889 km. Trong đó, có 1.609 km là sông tự nhiên, 280 km là kênh đào.
Khả năng khai thác vận tải là 1.170 km (61,9%). Trong toàn bộ hệ thống sông
Thanh Hoá thì hệ thống sông Mã và hệ thống sông Yên là 2 hệ thống sông lớn
nhất đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới đường thuỷ nội địa của tỉnh. Hệ
thống sông và các cửa sông đều có tình trạng sa bồi, các phương tiện ra vào gặp
nhiều khó khăn.
Hệ thống sông ngòi được phân theo 2 vùng chủ yếu: vùng đồng bằng ven
biển và trung du miền núi.
- Đồng bằng ven biển: Với 755 km sông tự nhiên và 280 km kênh đào, có
thể tận dụng khai thác được 877 km gồm 7 sông, kênh lớn nhỏ. Phương tiện
trọng tải đến 70 tấn có thể đi lại được trên chiều dài 355 km, phương tiện nhỏ có
tải trọng từ 5 - 10 tấn đi lại được 522 km.
- Trung du miền núi: Với 854 km sông tự nhiên, có thể khai thác 260 km
cho phương tiện nhỏ 5-10 tấn.
Tuy nhiên hiện tỉnh Thanh Hóa mới chỉ đưa vào quản lý, khai thác được
487 km bao gồm:
Sông Mã: 127 km
Sông Cầu Quan: 29 km
Sông Chu: 57 km
Sông Chuối: 29 km
Sông Lèn: 40 km
Sông Yên: 17,5 km
Sông Bưởi: 26 km
Sông Cầu Chày: 15,5 km
Kênh Choán, De, Nga; 48,5 km
Sông Càn: 9 km
Sông Trường Giang: 6,5 km
23
b) Hệ thống cảng biển, cảng sông
Thanh Hoá có 102 km bờ biển trải dài qua 6 huyện, thị: Nga Sơn, Hậu
Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia với 5 cửa lạch phân bố khá
đồng đều ở các huyện ven biển tạo thành hệ thống giao thông đường thuỷ (giữa
sông và biển) rất thuận tiện cho các loại phương tiện ra vào hoạt động. Hệ thống
cảng Thanh Hóa bao gồm:
+ Cảng Lễ Môn: Là cảng tổng hợp, được quy
hoạch thuộc nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ (nhóm 2). Công suất 300.000
tấn/năm, cỡ tàu vào cảng lớn nhất là 1.000 DWT. Hiện nay do hạn chế về luồng
tàu nên khối lượng hàng thông qua Cảng chỉ khoảng 70.000 - 80.000 tấn.
+ Cảng Nghi Sơn: Là cảng biển tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực Bắc
Trung Bộ (cảng loại 1) gồm các khu bến chức năng: Bắc Nghi Sơn là khu bến
chuyên dùng cho tàu 1 ÷ 5 vạn DWT phục vụ liên hợp lọc hóa dầu, xi măng;
Nam Nghi Sơn là khu bến cho tàu 3 ÷ 5 vạn DWT, có bến chuyên dùng. Lượng
hàng qua cảng dự kiến khoảng: 69 ÷ 80 triệu T/năm (2015); 132 ÷ 152 triệu
T/năm (2020); 212 ÷ 248 triệu T/năm (2030) (Theo Quyết định số 2190/QĐ-TTg
ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy
hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và
Quyết định số 1401/QĐ-BGTVT ngày 26/5/2010 của Bô Giao thông Vận tải về
việc phê duyệt quy hoạch chi tiết cảng biển Nghi Sơn - Thanh Hóa giai đoạn
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030).
+ Cảng Quảng Châu: Là cảng tổng hợp thuộc nhóm cảng biển Bắc Trung
Bộ, được UBND tỉnh phê duyệt Quy hoạch chi tiết đến năm 2020 và tiềm năng
sau năm 2020 tại Quyết định số 4464/QĐ-UBND ngày 15/12/2009 của UBND
tỉnh. Cảng được thiết kế với công suất dự kiến đến năm 2020 là
1.500.000tấn/năm; cỡ tàu vào cảng lớn nhất là 1.000 DWT.
Ngoài ra còn có một số cảng cá như cảng Lạch Hới, cảng Lạch Trường,
cảng Hoà Lộc…
c) Cửa sông
Toàn tỉnh hiện có 104 bến sông trong đó có 39 bến sông có quy mô >
3.000 tấn/năm. Còn 65 bến có quy mô < 3000 tấn/năm. Trong đó, có một bến
cảng đầu mối quan trọng là bến cảng Hàm Rồng, cảng cá Quảng Tiến, cảng cá
Lạch Trường, bến Vạn Hà, bến Hói Đào.
24
2.2.3. Hoạt động ngư nghiệp
Hoạt động ngư nghiệp trên địa bàn tỉnh bao gồm hoạt động nuôi trồng và
khai thác thuỷ hải sản.
Theo số liệu thống kê của Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Thanh Hóa, tính đến ngày 15/9/2013 trên địa bàn toàn tỉnh có tổng số lượng tàu
thuyền khai thác thủy hải sản là 7.501 tàu, với tổng công suất là 367.350CV.
Công suất bình quân 33,1 CV/tàu. Loại tàu cá công suất dưới 20 CV là 5.000 chiếc
chiếm 72,3%; từ 20CV đến 50CV là 429 chiếc, chiếm 6,2%; từ 50 CV đến
90CV là 399 chiếc, chiếm 5,8%; tàu có công suất trên 90 CV trở lên là 1.092
chiếc, chiếm 14,6%.
Ngư trường vùng biển Thanh Hóa có đầy đủ giống, loài cá như trong Vịnh
Bắc Bộ, nhiều loài có giá trị kinh tế cao, đối với cá nổi: Cá chim, cá thu, cá nục,
cá trích, …Đối với cá đáy: Cá Hồng, phèn, lưỡng mối, mực ống, mực nang, các
loại nhuyễn thể hai mảnh.
2.2.4. Các hoạt động sử dụng nguồn nước biển
Hoạt động sử dụng nước biển ở vùng ven biển tỉnh Thanh Hóa chủ yếu cho
hoạt động nuôi trồng thủy hải sản và sản xuất muối. Trong đó, nuôi trồng thủy sản
(nước mặn, nước lợ) ở vùng biển ven bờ, cửa sông năm 2012 được thống kê với diện
tích khoảng 5500 ha, sản xuất muối 320 ha.
Bảng 2.2. Sản lượng thủy sản (nghìn tấn) của các huyện ven biển tỉnh
Thanh Hóa năm 2014
Đơn vị
Sản lượng thủy sản (nghìn tấn)
Huyện Nga Sơn
4.196
H. Hậu Lộc
20.687
H. Hoằng Hóa
17.662
Thị xã Sầm Sơn
14.823
H. Quảng Xương
15.948
H. Tĩnh Gia
22.412
Tổng
95.728
Toàn tỉnh
116.241
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thanh Hoá năm 2014)
Hoạt động thủy sản của các huyện ven biển là ngành truyền thống, thường
chiếm trên 4/5 tổng sản lượng thủy sản của tỉnh Thanh Hóa. Tổng sản lượng
25