Nuôi chim trĩ đỏ
15111140 Nguyễn Thanh Thiện
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CHIM TRĨ ĐỎ
Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong sách đỏ
Việt Nam. Chúng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng Sơn,
Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng
(Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và phía Đông
Nam Trung Quốc.
Khi trưởng thành con đực có màu
lông sáng, đầu và cổ con đực có màu
xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt
xung quanh vùng cổ, giữa ngực là 1
màu đỏ tía đậm, các vùng bên cạnh có
màu sáng hơn, hai bên sườn có màu
vàng nhạt (vàng tái) với các vết đen
trên diện rộng, lông đuôi có màu vàng
oliu (nâu vàng nhạt) với các sọc
ngang rộng màu đen.
/>Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ
rệt, các lông cổ màu nâu và đen kẻ sọc
quanh chỏm đầu, với các đường viền có
màu hạt dẻ, phần lông phía sau lưng và
ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu
nâu đen, vùng bụng có màu nâu nhạt. Các
lông đuôi rất rõ rệt với các đường gợn
sóng dày khít có màu vàng sẫm và đen.
/>Chim trĩ có sức sống, khả năng thích ứng và kháng cự mạnh mẽ đối với bệnh tật,
sống được ở nhiệt độ từ - 320C đến 460C.(thích hợp miền Nam ). Trĩ đỏ lớn rất
nhanh và có khả năng đề kháng rất cao nên ít mắc bệnh. Ngoài 8 tháng là trĩ mái
bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 80 –
100 quả trứng. Trĩ là loài đẻ vào tổ loài chim khác nên cần ấp nhân tạo, nuôi ít nhờ
gà ấp hộ thành công 75%, ấp bằng máy với tiêu chuần nhiệt độ, ẩm độ phù hợp tỉ lệ
tăng đến 80~85%.
Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại của Cty CP thực
phẩm tiêu chuẩn GAP như sau:
- Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản: 90 – 100 quả
- Tỷ lệ trứng giống(%): 92 – 95%
- Tỷ lệ phôi (%): 93 – 95%
- Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp (%): 75 – 80%
- Tỷ lệ nuôi sống (%): 85%
- Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ: 60g – 70g/con/ngày
- Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi)
- Tỷ lệ nuôi sống (%): 80 - 85%
- Khối lượng cơ thể (g): 1100 – 1300 g/con
- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng k.lượng cơ thể (g): 4800 – 5000 g
Giá trị kinh tế
Giá trị kinh tế của chim Trĩ chắc chắn gấp hàng chục lần gà. Trứng trĩ rất thơm
ngon, bổ dưỡng. Hiện tại trứng trĩ cũng đang được thị trường rất ưa chuộng nên
việc nuôi trĩ lấy trứng đang rất tiềm năng. Và điều quan trọng hơn tất cả là bảo tồn
được nguồn gen cùng với việc đưa giống chim quý hiếm này vào phục vụ du lịch
thậm chí thương phẩm hóa. Nuôi loài này với mục đích trước tiên là bảo tồn và tiến
tới thương mại hóa thì lợi nhuận tăng rất nhiều lần. Giá mỗi con 2,5- 3 tháng tuổi
là 280.000~300.000 đồng, loại 6 tháng trở lên ~ 700.000 đồng, loại đang thời kỳ đẻ
trứng ~ 900.000 đồng, trứng trĩ hiện đang bán ra thị trường với giá 30 nghìn
đồng/quả.(Bảng giá tham khảo Vườn chim Việt tại Hà Nội, nếu mua ở các tỉnh
thành khác giá ở mức giá cao hơn)
Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh
Thịt trĩ có hàm lượng protein cao lên tới 30% cao hơn hẳn hàm lượng protein
trong thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, giàu các vitamin A, C, B1, B2, B3, B6, B12, E,
hàm lượng chất béo bão hòa và cholesterol thấp, chứa các amino axit thiết yếu cơ
thể con người, trong đó có nhiều amino axit không tổng hợp được trong cơ thể, và
giàu nguyên tố vi lượng thiết yếu như germanium (Ge), selenium (Se), kẽm (Zn), sắt
(Fe), canxi (Ca). Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc,
tính vị gọt, bình. Công hiệu: bổ trung ích khí, tư bổ gan thận, chữa tiêu chảy, chủ trị
tỳ vị hư yếu, ít ăn. Thịt trĩ còn được dùng làm bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh:
băng huyết, thiếu máu, suy nhược sau sinh, sa tử cung, và dạ dày, dùng làm thức ăn
tăng cường sức khỏe cho người già, hồi phục sức khỏe sau bệnh, dùng cho trẻ em
suy dinh dưỡng. Thường xuyên ăn thịt chim trĩ có tác dụng chống suy nhược thần
kinh, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi và có thể điều trị
ngăn ngừa bệnh ung thư (theo Đại học Y của Trung Quốc).
Giá trị cảnh và quà biếu
Việc nuôi chim cảnh đối với loài trĩ này hiện đang là một nhu cầu chắc chắn không
nhỏ. Do tính chất quý hiếm và nhờ "ngoại hình" rất đẹp của chúng, nên hiện tại một
phần nhỏ chim trĩ được nuôi làm cảnh trong các khu biệt thự cao cấp, các khách
sạn, dùng làm trưng bày ở các triển lãm, hội nghị, còn phần lớn chim trĩ cung cấp
cho các khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn Quốc gia, khu du lịch sinh thái. Chim
trĩ có thể được dùng làm quà tặng, quà biếu cao cấp, sang trọng, lịch sự vào các dịp
lễ Tết, lễ hội, khánh thành, liên hoan… Dưới thời các triều vua Trung Quốc, chim Trĩ
dùng làm lễ vật cống của các nước nhỏ tới các nước lớn. Ở Mỹ, chim Trĩ được dùng
làm một trong các món ăn sang trọng để thếp đãi các quan khách trong Nhà trắng.
Chọn con giống
Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt trống mái:
Giai đoạn ấu trĩ rất khó phân biệt, thường dựa vào cảm quan nghề nghiệp và biểu
hiện sai khác trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim. Có thể bằng mắt thường
so sánh được qua kích cỡ thân, chiều cao chân và lỗ huyệt (con trống thường lớn
hơn).
Khi bước vào thời kỳ 2 – 3 tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần màu
lông từ lâu nhạt sang màu đỏ pha, lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể lớn hơn
chim mái rõ rệt. Trên cổ chim trống hình thành tuyến lông màu đồng phía dưới là
màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng. Kế tiếp xuất hiện 1 vòng lông cổ màu trắng
(thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng), lông đuôi có màu đỏ và màu hạt dẻ pha
trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt. Trên má hình thành hai mào đỏ và hai chỏm
lông sừng màu xanh thẫm. Chim Trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5 – 2kg,
lông đuôi có thể đạt
0,4 – 0,6m, tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả.
Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống. Sau khi thay lông ở thời kỳ 3- 5
tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lông màu tối có những đốm đen,pha lẫn màu
hạt dẻ. Chim mái có đuôi ngắn hơn chim trống, trọng lượng bình quân của một
chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg/con.
Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quản lý và giao phối với rất
nhiều chim mái. Với bản tính rất hăng, một chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều
chim trĩ mái trong một thời gian ngắn. Chúng tôi đã quan sát và ghi nhận lại có
những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp liên
hồi tới 4 lần/3 chim mái. Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc
nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ. Chim mái sẽ thường
xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn, bị dập trứng, hoặc lồi Zoong (tuột hậu môn)
đôi khi có vấn đề về tâm, sinh lý ảnh hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh
ra. Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất
lượng phôi trứng. Qua nghiên cứu thực nghiệm Vườn Chim Việt đã ổn định đàn
chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái.
Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định liên
quan đến chế độ dinh dưỡng, điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận chuyển. Vì
vậy những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ đỏ nên hạn chế việc
đầu tư mua con giống cỡ nhỏ. Người mua nên chọn mua những cá thể chim ở thời
kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị.
Chọn chim trống có ngoại hình to, cao, đuôi dài, lông mượt, trường chim, dáng
khỏe mạnh, lanh lợi. Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư thế
nghiêng mình sung trận.Chim mái: bầu chim, nở hậu, không dị hình, dị tật. Nên mua
chim ở những cơ sở gây nuôi uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được
những cá thể chim khỏe mạnh, không bị đồng huyết, cũng như được tư vấn về kỹ
thuật gây nuôi.
Một điểm đáng lưu ý: hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động vật
hoang dã nên việc gây nuôi vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại. Phần
lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký gây
nuôi. Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các cơ quan
hữu quan cũng như việc vận chuyển, buôn bán cho các hộ dân. Bà con nên tìm đến
các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc hợp lệ. Tránh
mua trôi nổi trên thị trường sẽ gặp phải không ít khó khăn trong khâu vận chuyển
cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau.
Kĩ thuật chăm sóc nuôi dưỡng chim trĩ đỏ
1. Yêu cầu chung về chuồng trại:
Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, thoáng mát, cách xa các trại nuôi gia súc,
gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng chéo.
Chuồng trại phải đảm
bảo giữ ấm về mùa
đông, mát về mùa hè.
Nền chuồng phải bằng
phẳng, tiện cho công
tác dọn vệ sinh, rải
chất độn chuồng bằng
phôi bào hoặc trấu có
thể trộn với cát được
phơi khô đã được
phun khử trùng. Mặt
khác phải đảm bảo
thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.
/>Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần/tuần. Phun thuốc khử
trùng định kỳ. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilong trong
khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
Trong thời gian qua trên các diễn đàn mạng và truyền hình có giới thiệu 1 số mô
hình nuôi chim trĩ đạt hiệu quả cao, tuy nhiên cách thiết kế chuồng trại thường
theo phương thức chia nhiều ô với kích thước rất nhỏ , mỗi ô chỉ nuôi từ 1 -4 cá thể
(ghép bộ) . Cách làm này tuy hạn chế được việc chim đánh , mổ nhau nhau nhưng
lại tốn kém rất nhiều trong khâu thiết kế chuồng trại, máng ăn cũng như công
chăm sóc , Mô hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện nuôi kiểng, hoặc diện tích
đất nhỏ .Tuỳ mục đích, quy mô sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế chuồng
trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu tố kỹ
thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim.
2. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi điều
kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất độn
chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi.
Mật độ nuôi và úm chim non trong chuồng nhỏ:
•
•
•
•
Chim 0 – 30 ngày tuổi : 40 - 15 con /m2:
30 – 60 ngày tuổi : 12 – 6 con / m2
60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con /m2
Sau 90 ngày tuổi có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2
con /m2
Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi:
Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước
khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy định về vệ
sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%. Sau đó để khô
phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m 2 hoặc bằng các loại thuốc sát
trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần. Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2
ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin 3% và đóng kín cửa. Sau khi phun 5h mở cửa
cho thông thoáng bay hết mùi thuốc sát trùng rồi mới thả chim. Nếu như chuồng
trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng Virkon®S của hãng Bayer: pha
100g với 10 lít nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ trại bao gồm nền, tường, bồn
ăn uống, không khí, giày ủng. Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc
úm chim trĩ.
Trong thời gian úm gột, để tập trung nguồn nhiệt và tránh gió lùa ta sử dụng lồng
úm.
Kích thước lồng úm nuôi: Chiều cao (H) 40 – 50 cm; Chiều dài (L) 1,0 – 1,2 m;
Chiều rộng (W) 0,7 – 0,9 m. Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía
trên làm bằng lưới ô nhỏ để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ
thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày
đầu, mỗi lồng như vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.
/>
Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi:
Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rãi trấu hoặc phôi
bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ được thả ra ngoài
nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho chim khỏi bay đi. Bên
ngoài lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành cây giúp cho môi trường
sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này một chim cần 0,5 m 2 tổng diện
tích sàn bên trong chuồng nuôi, và 2 m 2 diện tích nền bên ngoài được dùng cho việc
vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có thể được nuôi khép kín, nhưng cần thiết
phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi được rào kín bằng lưới để ngăn chim thoát ra
ngoài.
Để ngăn chặn việc bay mất, kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh
ngay ban đầu. Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt
trong chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thoát
ra ngoài sau khi sợ hãi, chúng có thể bay rất xa và mất.
Giai đoạn sau 12 tuần tuổi:
Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con/m 2. Nên
chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh
tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu tốn kém trong việc
chia chuồng ra nhiều ô nhỏ thì có thể chọn phương án nuôi tập trung (quần thể).
Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới mắt cáo. Trên nóc sử dụng các loại
tấm lợp Bro - ximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn có tại địa phương, miễn sao đảm bảo
chim không thoát ra ngoài.
Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để chim
tắm cát và làm ổ đẻ. Phần còn lại có thể sự dụng bằng nền bê tông, hoặc trồng cỏ
trong khoảng sân chơi.
Mái che có thể lợp toàn phần hoặc bán phần miễn sao đảm bảo thoáng về mùa hè,
ấm về mùa đông. Với các địa phương khu vực phía bắc thường có rét đậm rét hại
vào mùa đông, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận toàn bộ chuồng nuôi bằng
vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim. Với các tỉnh khu vực phía Nam và
Tây Nguyên khí hậu nóng ẩm quanh năm hạn chế phải che phủ chuồng trại hơn,
tuy nhiên nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ
mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,...
Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2-3 lần/tuần. Phun thuốc khử
trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm ướt.
Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực nuôi đề
phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
Làm chuồng cho chim lớn:
Nên chia chuồng thành nhiều ô
khác nhau để tiện cho công tác
quản lý và theo dõi bệnh tật cũng
như quá trình sinh trưởng và phát
triển của chim :
Nếu làm chuồng mới để nuôi chim
sinh sản có thể thiết kế theo kích
thước khung cơ bản sau:
Chuồng nuôi chim hậu bị
/>Cao (H) 2,5 – 2,8 m, Dài (L) 6 m,
Rộng ngang (W): 3,5 m. Với diện
tích ô chuồng này có thể nuôi được
20 -25 cá thể chim bố mẹ sinh sản,
hoặc 30 - 40 cá thể chim hậu bị.
Chuồng nuôi chim sinh sản
/>3.3. Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng
3.3.1 Nuôi chim con (giai đoạn từ 1- 3 tháng tuổi)
Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo, Sử dụng bóng điện hoặc đèn
sưởi đám bảo nhiệt độ 25 - 27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa, mưa
tạt, che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật nuôi khác tấn công:
Chó, mèo, chuột. Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định kỳ tối thiểu 1520 ngày/lần.
Thức ăn: sử dụng loại cám viên dùng cho gà con, sử dụng loại máng ăn, uống tự
chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh.. Nên cho lượng cám và nước
vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới, tránh để nước lưu
lại sang ngày thứ 2. Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử dụng loại nước cất hoặc
nước đun sôi để nguội cho chim uống.
3.3.2 Nuôi chim trưởng thành
Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng thành,
gia cầm sinh sản (cám gà đẻ) kết hợp với thóc. Tỉ lệ pha tuỳ theo thời kỳ sinh
trưởng của chim: có thể dùng tới 60% thóc trong khẩu phần thức ăn. Ngoài ra kết
hợp cho ăn thêm các loại rau xanh: rau muống, rau lang, thân cây chuối thái nhỏ.
Hạn chế cho các loại thức ăn lạ: tôm, cua, cá có thể dẫn đến tình trạng chim bị tiêu
chảy.
Trong quá trình nuôi đàn thường xảy ra hiện tượng chim cắn, mổ nhau: Vị trí mổ
thường tập chung vào mắt, đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt. Để hạn chế việc này ta có thể sử
dụng 1 số phương thức sau:
Tách riêng cá thể chim bị đánh, hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3- 5
ngày. Sau đó thả lại bình thường.
• Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất: Ca, Zn. Có thể sử dụng loại thuốc
chống cắn,mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim.
• Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong
quy trình nuôi công nghiệp theo quy mô lớn). Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của
chim không làm ảnh hưởng đến ngoại hình(vì phần mỏ dưới bị che khuất).
Không ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của chim trống. Vì thực chất chim
trĩ đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh (từ 15 - 30 giây) không nhất thiết
cần sự hỗ trợ của bộ mỏ, nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ. Ngoài ra việc cắt, mài
mỏ còn loại bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim. Đây là lý do một số
người đã nuôi chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản. Khi
đưa vào môi trường nuôi nhân tạo thì ngoại hình, trọng lượng của chim do
người nuôi quyết định.
•
Ví dụ: Nếu sử dụng 100% cám tổng hợp làm khẩu phần ăn, chim trĩ sẽ rất nhanh
lớn và có thể đạt trọng lượng >2kg /con. Tuy nhiên chất lượng thịt thương phẩm sẽ
giảm vì mất dần tính hoang dã của chim, đồng thời sức đề kháng của chim cũng
kém đi. Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng béo lú mà không sinh sản được.
Để khẳng định được nguồn gốc chim cũng như chất lượng con giống bà con nên
đến trực tiếp các trang trại gây nuôi có uy tín, được cấp phép của chi cục kiểm lâm
sở tại. Tránh mua tại các tiệm chim hoặc thương lái vì chim mới bị nhập về thường
bị nhốt trong môi trường chật, không được chăm sóc có thể mang sẵn mầm bệnh.
+ Máng ăn:
Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre, máng tôn
hình chữ nhật hoặc máng tròn, tuỳ theo kích thước của lồng úm.
Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích thước to
hơn (có thể là máng dài hoặc máng tròn). Máng dài có thiết diện hình thang, đáy
nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5 mét; cao 4 – 8 cm
có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn. Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn
làm theo kiểu máng P50 Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.
+ Máng uống:
Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù
hợp và kinh tế. Thông thường dùng máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân nắp
vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non dùng gallon
1 – 2 lít, chim dò hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 –8 lít. Máng uống dài có độ dài
tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.
+ Chụp sưởi: Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó
phải có hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả
năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ môi trường, bóng điện hoặc
đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà bố trí hệ thống sưởi
cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.
+ Chất độn chuồng: Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể
dùng phôi bào, trấu, rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có
mùi mốc, phun sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung
trong nền chuồng để có thể tắm hoặc ăn.
3.5. Nhiệt độ, ẩm độ và thông thoáng
Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hoàn hảo, do đó
các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá dễ phát sinh khi ẩm độ môi trường lên cao sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim. Thời
điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 35 0C, sau nhiệt độ được giảm dần
xuống 300C khi chim được 3 tuần tuổi. Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc
lông ở chim để điều chỉnh nhiệt độ cho thích hợp. Trong quá trình nuôi phải quan
sát phản ứng của chim đối với nhiệt độ: Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt,
chen lấn chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh. Nếu
chim tản ra xa nguồn nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng
cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ. Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy
hiểm, cần che kín hướng gió thổi.Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường,
ngủ, nghỉ tản đều lồng úm.
Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm thời gian
chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm bảo cường
độ ánh sáng 3W/m2 là đủ.
3.6. Nước uống
Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp nước
sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho những
ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 – 21 0C trong
vài ngày đầu. Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị
trí đặt máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và không bị máng ăn che khuất.
Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.
3.7. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Cũng như chăn nuôi các loài gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức ăn của trĩ
là cám tổng hợp (loại không có tăng trọng), ngô xay, thóc, đậu tương, rau xanh,
cỏ,... Ngoài 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20% vào khẩu
phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50% thóc vào khẩu phần ăn.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi phát triển
cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt nhanh
đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
Chim Trĩ nuôi lấy thịt được chia ra các giai, đoạn 0 – 4 tuần tuổi; 5 – 9 tuần tuổi và
10 → giết mổ (10–16 tuần).
Nhu cầu dinh dưỡng cho Chim Trĩ thương phẩm nuôi thịt có thể tham khảo qua
bảng dinh dưỡng sau.
Thành phần
dinh dưỡng
Protein thô (%)
ME (kcal)
Lipit (%)
Xơ thô (%)
Khoáng (%)
0-4
23
2900
2,5
3
5
Giai đoạn tuần tuổi
5-9 10-16 16-32
21
19
18
2850 2900
2850
3
3
3
3
3
3
3,9
3,3
3
Sinh sản
20
2800
3
3
5
Sau khi chim được uống nước 2 – 3 giờ thì mới cho ăn, thường cho ăn theo bữa.
Thức ăn được trải đều vào nhiều khay tuỳ thuộc quy mô đàn để tránh sự tranh
giành thức ăn giữa các con trong đàn. Chỉ nên cung cấp lượng thức ăn vừa đủ, một
ngày đêm cho ăn 9 – 10 lượt để thức ăn luôn mới thơm, hấp dẫn tính ngon miệng
và tránh lãng phí.
Một số điều cần lưu ý: Thức ăn được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho
nhu cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn. Khẩu phần ăn có thể phối chế đa
nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung động vật, thực vật, Premix khoáng vi lượng
và Vitamin. Không sử dụng các nguyên liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột
cá mặn (có hàm lượng muối cao). Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất
dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa
nguyên liệu, sử dụng đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi
lượng v.v. Dùng đậu tương phải rang chín chim mới tiêu hoá được, nếu chín không
đều chim ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá (đi ỉa).
Nếu nuôi sinh sản thì có thể làm truồng dài 1m2 x 60 cao 75 phân trên mái có lót
xốp để tránh trĩ hoảng nhảy lên đập đầu vào khung sắt đối với những con dạn
người do nuôi nhốt thì không cần thiết . với diện tích này bạn có thể làm sàn bằng
sắt nggang lọt phân và hơi dốc ra ngoài để khi đẻ trứng tự lăn ra như kiểu gà công
nghiệp đó . Chuồng này nuôi thích hợp nhất cho 1 trống 3 mái .
Nuôi trĩ đẻ nên cho ăn cám CON CÒ C24 ( cám gà đẻ ) .Thức ăn mang nhiều xơ như
rau xanh lên cho ăn ngày 1 lần vào 1 buổi nhất định. Biện pháp cắt mỏ trĩ thường
được dùng ở những trại nuôi tập chung số lượng lớn để trĩ không mổ ăn lông nhau,
thêm vào đó là có thể trộn thuốc vào thức ăn do bị cắt mỏ lên trĩ phải ăn tất không
nhặt ra được nên máng ăn thường là máng sâu và có miệng nhỏ để tránh bị hất vãi
. Bạn nên xài ống nước nhựa cắt ngang ko quá nửa ống bịt 2 đầu lại làm máng rất
tiện .
Trĩ nuôi nhốt có thể nuôi dễ dàng như gà ta nếu bạn vệ sinh tốt thì tự dưng có thể
phòng các bệnh không cần thiết Việc bố trí truồng trại phải có đủ ánh nắng để trĩ
có thêm nắng và hấp thụ đc các vitamin cần thiết .
Về con giống Trĩ trống có thể sử dụng 2 năm,e năm thứ 2 có thể dùng để cho đạp
những con mái tơ đẻ vào đầu vụ năm trước sẽ đẻ sớm trong khi trĩ trống tơ chưa
thành thục. Trĩ mái chỉ nên xài 1 năm vì sau thời gian đẻ ta phải nuôi béo 1 thời
gian nên tốt nhất bán thịt và xài luôn trĩ mái hậu bị của năm vừa xong là kinh tế
nhất .
Trĩ là 1 giống chim rất khoẻ lớn nhanh và cũng rất dễ dàng sinh sản trong môi
trường nuôi nhốt . Khi nuôi số lưộng ít các bạn chỉ cần quan tâm đến những vấn đề
như mình nêu ở trên . Còn khi muốn kinh doanh nuôi trại số lượng lớn bạn cần phải
có đủ kiến thức cần thiết về phương pháp nuôi cách bố trí truồng trại và phải có
chế độ tiêm phòng hay nhiều vấn đề khác . Nên tốt nhất khi mới bắt tay vào nuôi
bạn cần tìm hiểu kỹ giống vật nuôi sau đó hẵng nuôi để tránh những rủi ro không
đáng có .
3.8 Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở
Chim trĩ giống bình quân sau khi nuôi đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng. Thời gian
đẻ thường từ đầutháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch, Sau đó chim trĩ
ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8 âm lịch thì
nghỉ. Bình quân mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 68 – 80 trứng. Với các tỉnh phía
bắc nước ta nơi có mùa đông lạnh và kéo dài chim thường đẻ muộn hơn, thường
mùa đẻ chỉ bắt đầu khi vào mùa xuân ấp áp. Các tỉnh khu vực phía Nam nơi có thời
tiết nắng ấm mùa đẻ của chim trĩ thường sớm hơn và kéo dài hơn. Ngoài ra số
trứng, thời gian đẻ còn phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi, chế độ cho ăn, và quản lý vật
nuôi.
Nếu cho ăn tăng lượng đạm động vật, canxi và sử dụng 1 số tác nhân phụ có thể
cho chim trĩ đẻ 2 quả/ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý thích của người nuôi. Tuy
nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp khai thác trứng chim trĩ làm
thương phẩm. Việc nhân giống chim không nên áp dụng, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe
sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng con giống sinh ra.
Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng, chim thường đẻ nhờ vào tổ chim
khác. Vì vậy khi đưa vào nuôi trong môi trường nhân tạo ta phải dùng tác nhân
phụ để ấp trứng cho chim. Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố: là chất lượng phôi
trứng, và kỹ thuật ấp. Thường có 2 cách cơ bản ấp trứng trĩ:
a) Dùng vật nuôi khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự (Thường dùng, gà
mái hoa mơ, gà tre..vv). Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm thông thường
tuy nhiên cho tỷ lệ thành công thấp và khó áp dụng cho nuôi quy mô lớn.
b) Dùng máy ấp: Sử dụng loại máy ấp trứng gia cầm thông thường để ấp. Thời gian
ấp nở khoảng 22-23 ngày. Hiệu chỉnh nhiệt độ, độ ẩm tùy theo giai đoạn:
•
•
•
Nhiệt độ ấp trong tuần đầu: 37,5 độ C, độ ẩm 55%
Tuần thứ 2 Nhiệt độ 37,3 độ C, độ ẩm 60%
Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 37 độ, độ ẩm 75%
(Lưu ý sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm, không dùng nước bẩn, có chứa
tạp chất sẽ làm ảnhhưởng đến quá trình bay hơi của nước). Các tia máu hình thành
trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ trứng ra khỏi lò
sớm, bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo quản trứng rất tốt.
Thường thì những quả trứng không có trống mà ấp tới 15 ngày vẫn không bị thối
như trứng gà trứng vịt. Vẫn có thể ăn bình thường mà không nguy hại cho sức
khỏe.
Ấp nở đạt tỉ lệ 70 - 80%. Tỉ lệ nuôi sống thành công sau ấp nở đạt 85%.
BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CHIM
1. Mùa xuân là mùa chim cảnh dễ bị nhiễm bệnh
Có nhiều loại chim do “nóng trong” nên phát bệnh. Nếu như gặp trường hợp này, ta
có thể hái mầm liễu (ngọn liễu non) cho các loại chim ăn ngũ cốc và ăn tạp ăn, bắt
nhện cho chim sâu ăn để “hạ hỏa” cho chim; cũng có thể giảm bớt khẩu phần ăn có
mỡ và nhiều chất béo, đồng thời mỗi tuần cho chim uống một lần berberin (lấy ¼
viên berberin tức khoảnh 1g hòa với nước) cũng có thể làm cho chim đỡ nóng hơn.
Ngoài ra vào mùa hè, ngoài việc chăm sóc, vệ sinh chuồng, thức ăn, nước uống và
chống muỗi cắn cho chim, chúng ta nên thường xuyên cho các loại chim, chẳng hạn
như chim ăn ngũ cốc, ăn rau răng ngựa (hay còn gọi là cỏ sống đời), kê tươi, và ngô
tươi; cho chim ăn sâu, ăn nhện, dế, ve. Với cách này ta cũng có thể tăng cường sức
đề kháng cho chim.
2. Cách chữa viêm tuyến nhờn ở chim
Phần đuôi chim có một tuyến nhờn – đó là nơi tiết ra chất dịch giúp chim làm mượt
lông vũ. Tuyến này của chim bị thương, bị nhiễm trùng hay chim bị cảm nắng, cảm
lạnh. Đều là những nguyên nhân dẫn đếnbệnh viêm tuyến nhờn ở chim. Những con
chim bị mắc bệnh này thường tỏ ra mệt mỏi, lông vũ tả tơi, biếng ăn, tuyến nhờn đỏ
tấy, mưng mủ. Khi phát hiện ra chim có bệnh, ta có thể chữa bằng cách sau:
Dùng cồn iôt khử trùng tuyến nhờn.
Dùng kim đã khử trùng đâm thủng tuyến nhờn, dùng tay bóp cho mủ ra hết
(bóp khi nào nhìn thấy máu tươi là được)
• Bôi cồn iôt một lần nữa vào chỗ đau của chim.
•
•
Sau khi làm các động tác trên, ta nên cho chim vào nơi yên tĩnh, tránh nơi quá nóng
hoặc quá lạnh, cho chim ăn thức ăn có chất bổ, sau một thời gian, chim sẽ khỏi
bệnh.
3. Chữa các bệnh về chân cho chim
Chim nuôi trong lồng/chuồng, chân thường dễ bị vật nhọn cứa vào hoặc bị côn
trùng cắn rồi nhiễm trùng, mưng mủ, sưng tấy, nếu nghiêm trọng có thể dẫn đến
hoại thư xương. Để ngăn chặn và phòng chống những bệnh này cho chim, ta nên
thường xuyên khử trùng chuồng, đồng thời kiểm tra loại bỏ các vật cứng nhọn. Nếu
chẳng may chim bị mắc bệnh, chúng ta phải dùng dao nhọn lấy mủ, sau đó dùng
nước muối sinh lý (hay còn gọi là muối đẳng trương) hoặc dùng dung dịch thuốc
tím 0,1% (KMnO4) rửa sạch vết thương, sau cùng bôi cồn iôt và thuốc chống nhiễm
trùng là đuợc.
4. Diệt ký sinh trùng làm hại chim
Ký sinh trùng làm hại chim thường rất nhỏ, chúng bám vào lông và da chim, ăn dần
lông, da, thậm chí hút cả máu chim. Để phòng ngừa ký sinh trùng cho chim, việc
quan trọng nhất là ta phải thường xuyên giữ cho lồng/chuồng chim được sạch sẽ,
khô ráo, đồng thời phát hiện sớm nếu chim bị ký sinh trùng xâm hại hoặc có rận.
Khi làm vệ sinh lồng chim ta có thể nhúng lồng chim qua nước sôi già. Đối với
nhũng chim bị ký sinh trùng, ta dùng nước pha với vài giọt dầu hỏa (dầu tây) rắc
vào lông chim, đồng thời dùng bột băng phiến 20% rắc vào lông chim (phải xoa nhẹ
để bột thấm sâu vào phía trong). Làm như vậy ta có thể tiêu diệt ký sinh làm hại
chim.
5. Phòng chứng béo phì ở chim
Chim nhốt trong lồng/chuồng thời gian dài, ít vận động, lại ăn nhiều thức ăn có
mỡ, nhiều chất đạm nên rất dễ dẫn đến chứng béo phì. Mắc chứng béo phì, chim trở
nên chậm chạp, không hay nhảy nhót, ca múa, hô hấp khó khăn, có con trong khi
nhảy nhót, đột ngột chết do lâu ngày không vận động. Để tránh tình trạng trên, ta
nên cho chim ăn một cách khoa học. Đồng thời thường xuyên giúp chim vận động
và cố kéo dài thời gian hoạt động cho chim.
6. Chữa bệnh dạ dày cho chim
Chim ăn phải thức ăn để lâu ngày, hay uống phải nước bẩn đều dẫn đến bị viêm dạ
dày. Khi bị bệnh, lông chim tả tơi, thân hình gầy gò, thường tỏ ra ủ rũ, phân dính
đặc, có màu vàng trắng, mùi hôi. Nếu không chữa trị kịp thời chim sẽ chết. Bởi vậy
để phòng cho chim khỏi bị bệnh viêm dạ dày, chúng ta phải thường xuyên chú ý giữ
đồ ăn, thức uống của chịm sạch sẽ. Với nhũng con chim bị bệnh, cần nhốt chúng vào
những nơi ấm áp, ít gió, mỗi ngày cho uống 0,2 đến 1mg thuốc kiết lị hòa với nước
đường. Cho chim uống liền trong 3 ngày. Ngoài ra người ta còn cho vào trong thức
ăn của chim một lượng bột than gỗ để bột than gỗ hút bớt chất độc trong dạ dày
chim.
7. Chữa cảm và viêm phổi cho chim
Khí hậu thay đổi đột ngột hoặc sau khi tắm xong gặp phải gió mạnh, chim nuôi
trong chuồng rất dễ bị cảm, lông vũ tả tơi, thở khò khè, ăn yếu dần, nước mũi chảy
ra, có lúc toàn thân run lẩy bẩy. Số lượng chết do bị cảm và viêm phổi ở chim
thường rất cao. Ta có thể chữa cho chim theo cách sau: Kịp thời đưa chim vào nơi
kín gió, ấm áp, nhưng thoáng đãng để tĩnh dưỡng. Cho chim ăn thức ăn có nhiều
dinh dưỡng. Dùng bông thấm với dầu thầu dầu lau nước mũi cho chim. Hòa nước
đường (đường trắng) cho chim uống, đồng thời mỗi ngày cho chim uống 2 lần 2 –
3g thuốc Têtraxilin.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh ta cầm quan tâm theo dõi đàn chim để kịp thời xử lí các
tình huống: trạng thái ăn, ngủ, thể trạng, âm thanh tiếng thở, chất bài tiết v.v. để
bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào đều được xử lý kịp thời. Cần thiết phải kiểm
tra đàn chim dựa trên các đặc điểm hàng ngày như sau:
Lắng nghe âm thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh hàng ngày.
Trạng thái đàn chim (uể oải hay hung hăng).
Ngửi để xem có mùi khai hay sự kém thông thoáng.
Trong chuồng chỉ nuôi chim không nuôi chung với các động vật khác.
Định kỳ diệt trừ các loài động vật gặm nhấm, chim hoang và côn trùng có
hại khác.
• Chim được cho ăn tự do 24h/24h.
•
•
•
•
•
Trong 4 tuần đầu, ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp điện sáng để chim
ăn đêm. Trong điều kiện thời tiết và nhiệt độ thuận lợi (ấm áp khô ráo) sau 4 tuần
tuổi (nếu thời tiết lạnh dưới 200C thì sau 6 - 7 tuần tuổi) có thể cho chim vận động
giống như trong tự nhiên để giúp cơ săn chắc nâng cao chất lượng thịt.
Số lượng thức ăn được chim trĩ tiêu thụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như
dạng thức ăn, phương thức cho ăn, thành phần dinh dưỡng và các điều kiện thời
tiết. Một con chim trĩ từ 1 ngày tuổi cho tới khi xuất bán tại thời điểm 16 tuần tuổi
sẽ ăn khoảng 5kg thức ăn. Tại độ tuổi này, các con trống khối lượng khoảng 1,3kg
và con mái là 1,0kg.
BỆNH DO VIRUS GÂY RA
Bệnh Newcastle
- Đặc điểm chung: Do virút gây ra, là bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm và
chim. Lây lan nhanh, mạnh. Gây ốm và chết nhiều ở mọi lứa tuổi. Bệnh xảy ra
quanh năm. Không thể chữa bằng thuốc, chỉ có thể phòng bằng vacxin.
- Đường lây lan: Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá. Do tiếp xúc
giữa những con ốm và con khoẻ. Do bụi, gió và không khí có mầm bệnh. Do phương
tiện vận chuyển, thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh. Do dụng cụ chăn nuôi thú y
nhiễm mầm bệnh. Do công nhân chăn nuôi, khách tham quan đến từ vùng có bệnh.
Do động vật, chim mang mầm bệnh.
- Triệu chứng: Chim ủ rũ, mào thâm, ăn ít, chảy nhớt dãi. Diều căng, đầy hơi. Khó
thở kèm theo tiếng kêu “tóc – tóc” nhất là ban đêm. Tiêu chảy, phân loãng có màu
trắng, xanh, cứt cò. Chim ốm chết nhiều. Con sống sót để lại di chứng thần kinh,
nghẹo cổ, đi vòng quanh, mổ thức ăn không chính xác.
- Bệnh tích (những biểu hiện bên trong): Xuất huyết ở lỗ huyệt, thanh khí quản
có nhiều dịch nhầy và xuất huyết. Dạ dày tuyến xuất huyết và loét. Thành ruột xuất
huyết và loét hình cúc áo. Van hồi manh tràng xuất huyết.
- Biện pháp phòng trị:
Phòng bệnh: không nên nuôi chung các lứa tuổi. Đảm bảo chuông nuôi, thức
ăn, nước uống sạch sẽ ăn uống đủ chất đủ lượng. Biện pháp hữu hiệu nhất là
sử dụng vacxin phòng bệnh theo lịch ở các độ tuổi khác nhau.
• Điều trị bệnh: Khi có bệnh Newcastle xảy ra nên thông báo ngay cho cán bộ
thú y cơ sở. Dùng vacxin cho những đàn chưa mắc bệnh, bổ sung thuốc bổ
tăng sức đề kháng cho đàn chim. Cách ly đàn chim ốm, đốt xác chim ốm, chết
hoặc chôn rồi rắc vôi bột. Không bán chạy chim ốm. Không được đến thăm
các nơi nuôi chim khác. Sát trùng chuồng nuôi, sân thả chim, dụng cụ chăn
nuôi và khu vức xung quanh hàng ngày. Thu dọn chất thải phân đem đốt
hàng ngày. Rắc vôi bột để cách ly chuồng nuôi với khu vực xung quanh và
rắc ở lối ra vào chuồng nuôi. Khi đã nổ bệnh có thể đưa vacxin trở lại nhưng
tỷ lệ khỏi bệnh không cao. Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học và thực tế
gây nuôi bảo tồn phát triển tại trang trại của Công ty cổ phần thực phẩm
tiêu chuẩn GAP thấy rằng chim trĩ rất khó lây nhiễm các bệnh như bệnh
Gumboro và bệnh đậu. Trong khi đó bệnh Newcastle thì đặc biệt nguy hiểm
đối chim trĩ, cần phải tiêm phòng đầy đủ, đúng liều lượng (2 lần Lasota
trong thời gian úm 1 tháng, tiêm Newcastle lần 1 vào tháng thứ 2, lần 2 vào
tháng 4, lần 3 vào cuối tháng 7).
•
Cúm A/H5N1
Tiêm chủng theo lịch của thú y địa phương.
Bệnh tụ huyết trùng
- Đặc điểm của bệnh: Do vi khuẩn gây nên. Chim các lứa tuổi đều mắc. Bệnh gây
chết nhanh và nhiều trong cùng một thời gian. Bệnh hay tái phát trong cùng một
khu vực. Có thể phòng bằng vacxin và điều trị bằng kháng sinh.
- Đường lây lan:Qua đường tiêu hoá, hô hấp, do thức ăn nước uống nhiễm mầm
bệnh, do tiếp xúc giữa con ốm với con khoẻ.
- Triệu chứng:Tuỳ thuộc vào mức độ gây bệnh mà mầm bệnh có thể phát ra nhanh
hay chậm. Trường hợp bệnh cấp tính: Chim chết đột ngột, đang đi lăn đùng ra chết.
Chết khi đang nằm trong ổ đẻ. Trường hợp bệnh mãn tính: chim ủ rũ, bỏ ăn đi lại
chậm chạp, nước nhầy chảy ra từ miệng, đôi khi lẫn máu, tích tím bầm. Phân lỏng
hoặc xanh đôi khi có dính máu. Khó thở, chết do ngạt thở, xác tím bầm, máu đông
kém. Nếu bệnh kéo dài, viêm kết mạc mắt, tích sưng, khớp sưng đi lại khó khăn.
- Bệnh tích (biểu hiện bên trong):Tụ huyết ở các cơ quan nội tạng. Gan sưng có
nốt hoại tử lấm tấm trắng. Bao tim tích nước, xuất huyết vành tim, có dịch nhầy
trong khớp.
- Biện pháp phòng trị:
Phòng bệnh: vệ sinh sạch sẽ, giữ chuồng luôn khô ráo, thức ăn nước uống
đảm bảo hợp vệ sinh, định kỳ sử dụng kháng sinh trộn thức ăn 3- 5 ngày
/lần. Dùng vắcxin phòng bệnh không bảo hộ tốt, vì hiệu giá của vacxin này
trong thực tế không cao.
• Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh sau: Tetracylin, Streptomycine,
Coxsmix forte, Neotezol, Ampicillin, Enrofloxacin. Liều lượng và thời gian
dùng theo hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc.
•