Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn Tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.83 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN KIÊN

TÌNH THÁI TỪ
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN KIÊN

TÌNH THÁI TỪ
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số:

60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. BÙI MINH TOÁN



HÀ NỘI, 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................ 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................................. 3
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: ....................................................... 5
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: ...................................................... 5
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ......................................................................... 6
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN: ............................................................................ 6
7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN: ...................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................... 8
1.1. LỚP TỪ TÌNH THÁI: ......................................................................................... 8
1.1.1.Từ loại trong Tiếng Việt và sự phân chia từ loại: .......................................... 8
1.1.2. Các tiểu loại Tình thái từ trong Tiếng Việt: ................................................ 10
1.2. NGHĨA TÌNH THÁI: ......................................................................................... 15
1.2.1. Một số quan điểm nghiên cứu tiên phong về tình thái: ...............................15
1.2.3. Các loại nghĩa tình thái: .............................................................................. 23
1.3. KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NAM
CAO .......................................................................................................................... 26
1.3.1. Khái quát về cuộc đời Nam Cao: ...............................................................26
1.3.2. Sự nghiệp văn chƣơng: ................................................................................ 27
1.4. TIỂU KẾT: ......................................................................................................... 29
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG TÌNH THÁI TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM
CAO TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945............................................. 31
2.1. HỆ THỐNG TÌNH THÁI TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƢỚC
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ........................................................................ 31
2.1.1. Tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao nhìn từ bình diện ngữ nghĩa: ..........31

2.1.1.1. Tiểu từ tình thái: ................................................................................... 31
2.1.1.2. Trợ từ: ................................................................................................... 45
2.1.1.3. Thán từ: .......................................................................................... 54


2.1.2. Tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao với chức năng thể hiện vị thế giao
tiếp của các nhân vật: ................................................................................................61
2.1.2.1. Tình thái từ thể hiện nhân vật giao tiếp ở vị thế cao: ........................... 62
2.1.2.2. Tình thái từ thể hiện nhân vật giao tiếp ở vị thế thấp: .......................... 73
2.1.2.3. Tình thái từ thể hiện nhân vật giao tiếp ở vị thế ngang bằng: .............. 76
2.2. TIỂU KẾT: ......................................................................................................... 81
CHƢƠNG 3: CÔNG DỤNG CỦA TÌNH THÁI TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN
NAM CAO TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945. ................................. 84
3.1. TÌNH THÁI TỪ VỚI VAI TRÕ BỘC LỘ TÍNH CÁCH NHÂN VẬT:........... 84
3.1.1. Nhân vật Chí Phèo: ....................................................................................85
3.1.2. Nhân vật Hộ: .............................................................................................. 93
3.2. Tình thái từ bộc lộ phong cách trữ tình, bộc lộ tình cảm chủ quan của ngƣời kể
chuyện ....................................................................................................................... 96
3.4. Biểu hiện nghĩa hàm ẩn: ................................................................................... 101
3.4. TIỂU KẾT: ....................................................................................................... 102
KẾT LUẬN..................................................................................................... 104

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 107


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngữ dụng học là ngành học nghiên cứu ngôn ngữ từ phía ngƣời dùng, đặc biệt
nghiên cứu những sự lựa chọn mà họ thực hiện, những bó buộc mà họ gặp phải khi
sử dụng ngôn ngữ trong tƣơng tác xã hội và nghiên cứu tác động của cách sử dụng

ngôn ngữ lên ngƣời đối thoại của mình trong hoạt động giao tiếp. Ra đời trên thế
giới khoảng những năm 1960, vào Việt Nam từ những năm 1990, song ngữ dụng
học đã phát triển mạnh về lí thuyết cũng nhƣ có những thành tựu đáng kể về những
nghiên cứu cho thấy cần mở rộng ngôn ngữ theo chiều hƣớng gắn nó với với ngữ
cảnh giao tiếp thì mới hiểu chính xác nội dung của phát ngôn.
Trong việc nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ, vấn đề tình thái trong ngôn ngữ
không phải là mới, từ triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm tình thái của lôgic học
đƣợc dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu (necessity) và tính khả hữu
(possibility) đƣợc phản ánh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn sắc thái đa dạng.
Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, ngƣời ta không thể không lƣu
ý đến mối quan hệ giữa cách con ngƣời diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế
giới đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con ngƣời
diễn đạt khác nhau về thế giới. Trong mỗi câu nói, ngoài nội dung nghĩa biểu hiện
còn có nội dung nghĩa biểu thái. Charles Bally cho rằng tính tình thái chính là linh
hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy
một biểu hiện nào đó của tính tình thái.
Theo W. Humboldt: “Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ, đó chính là phƣơng tiện
nối kết các hiện tƣợng bên ngoài với thế giới bên trong của con ngƣời… Đặc biệt,
bản sắc riêng của mỗi dân tộc luôn luôn đƣợc thể hiện qua tiếng `mẹ đẻ của họ;
ngôn ngữ là nơi bảo lƣu tinh thần, văn hóa dân tộc, sức mạnh liên minh giữa các
dân tộc- tất cả để lại dấu ấn tài tình trong mỗi âm thanh” [4; 203].
Đằng sau ngôn ngữ là dấu ấn văn hóa cộng đồng. Tất cả những gì con ngƣời
tạo ra đều có tính văn hoá, đều có dấu ấn của ngôn ngữ, vậy giải mã văn hoá có thể
căn cứ vào nhiều thông số, nhƣng chiếc chìa khoá rất quan trọng, để có thể giải mã

1


văn hoá của dân tộc, đó chính là ngôn ngữ của dân tộc ấy. Trong ngữ cảnh giao tiếp,
để bày tỏ ý định, mục đích hay thể hiện cách đánh giá, nhận xét hoặc bày tỏ tình

cảm, cảm xúc của mình với đối tƣợng giao tiếp, ngƣời Việt Nam thƣờng dùng nhiều
loại hành vi ngôn ngữ, mỗi loại hành vi ngôn ngữ đó đƣợc thể hiện bằng một số
kiểu câu có nội dung, hình thức nói năng nhất định. Theo các nhà nghiên cứu Việt
ngữ học, có thể thấy bốn kiểu câu thể hiện mục đích nói là:
- Câu kể (còn gọi là “câu miêu tả, trần thuật”)
- Câu cầu khiến (hay “câu mệnh lệnh”)
- Câu nghi vấn (còn gọi là “câu hỏi”)
- Câu cảm thán (còn gọi là “câu cảm”)
Nghĩa tình thái trong câu Tiếng Việt có tính ngữ dụng rất cao, hơn nữa mật độ
nghĩa tình thái trong giao tiếp của Tiếng Việt có thể nói rất dày đặc. Để có đƣợc
những câu mang nghĩa cảm thán, câu cầu khiến, câu hỏi tu từ… nhằm biểu thị tình
cảm – cảm xúc đa dạng, tinh tế và cao hơn là đạt mục đích trong quá trình giao tiếp
ngƣời Việt sử dụng phƣơng tiện ngôn ngữ tình thái trong câu nói của mình. Cũng
nhƣ vậy, từ loại tình thái từ (gồm thán từ, trợ từ, tiểu từ tình thái) đƣợc sử dụng
trong sáng tác văn chƣơng ở mỗi tác giả, mỗi tác phẩm lại có những điểm khác biệt,
nó thể hiện văn phong cũng nhƣ phong cách của nhà văn. Tuy nhiên, nghiên cứu về
tình thái từ trong tác phẩm văn học mà cụ thể hơn là nghiên cứu về các phƣơng tiện
diễn đạt trong tình thái từ ở một tác phẩm văn học cụ thể vẫn còn bỏ ngỏ cho dù
thực tế việc sử dụng các phƣơng tiện biểu thị tình thái là rất phổ biến trong tác
phẩm văn học.
Nền quốc văn mới hình thành ở cuối thế kỷ XIX và nhất là đầu thế kỷ XX là
một sự kiện hết sức quan trọng, một cột mốc trong sự hình thành ngôn ngữ văn học
hiện đại tiếng Việt có nhiều nhân tố tác động tích cực đến sự hình thành nền quốc
văn mới và ngôn ngữ văn học tiếng Việt hiện đại [31]. Quá trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam diễn ra đầu thế kỷ XX, nhƣng đến những năm 1930-1945 văn xuôi
hiện thực mới thực sự hình hành những phong cách nhà văn nổi bật. Đó là cây bút
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao...Trong số các tác giả

2



hàng đầu của văn xuôi hiện thực giai đoạn văn học 1930 – 1945, Nam Cao đến với
làng văn không sớm nhƣng sáng tác để lại dấu ấn hiện đại rõ nét.
Chọn đề tài với nội dung nghiên cứu “Tình thái từ trong truyện ngắn Nam
Cao trƣớc cách mạng tháng Tám 1945” tác giả luận văn mong muốn sẽ tiếp cận
đƣợc các tác phẩm văn học để đời của Nam Cao trên bình diện ngôn ngữ học nhằm
thấy đƣợc những sáng tạo thiên tài của tác giả ở việc sử dụng ngôn từ trong sáng tạo
nghệ thuật.
Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài có thể cung cấp thêm cơ sở
để các thầy cô giáo và các em học sinh cảm thụ, phân tích sâu sắc hơn về truyện
ngắn Nam Cao trƣớc 1945.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nam Cao (1917-1951) là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ
nghĩa lớn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng
đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu
thế kỷ XX. Toàn bộ truyện ngắn của Nam Cao viết trƣớc 1945, theo kết quả sƣu
tầm cho đến nay, có khoảng 60 truyện. Đó chƣa phải là con số đáng kể về số lƣợng,
nhƣng lại vẫn đủ sự tin cậy về chất lƣợng để xác nhận đóng góp của Nam Cao trong
văn học hiện đại Việt Nam [28; 13]. Thế giới truyện của Nam Cao trƣớc 1945 là
một nỗi đau lớn vì những nỗi khổ - hiện ra trong rất nhiều dạng của con ngƣời;
đồng thời cũng là niềm khắc khoải lớn, vì nhu cầu phát triển con ngƣời [28; 17].
Viết về Nam Cao, đã có nhiều nhà nghiên cứu dành tâm huyết để tìm hiểu
Nam Cao và tác phẩm của ông (trong đó đặc biệt là truyện ngắn trƣớc 1945). Các
tác giả tập trung phân tích về nghệ thuật xây dựng và đi sâu vào tâm lí nhân vật,
hình tƣợng nghệ thuật, triết lí nhân sinh hay bi kịch về quyền sống, quyền làm
ngƣời của nhân vật trong tác phẩm... Đó là các công trình có giá trị nhƣ: Chủ
nghĩa hiện thực Nam Cao của Trần Đăng Xuyền (2001); Nam Cao, Lịch sử văn học
Việt Nam 1930-1945 của Nguyễn Hoành Khung; Nhà văn Nam Cao: Day dứt phận
ngƣời của Đỗ Ngọc Yên


3


Tuy nhiên, qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy
vấn đề phân tích từ loại về mặt ngữ pháp và đặc biệt là mặt ngữ dụng trong một tác
phẩm văn chƣơng đều còn hạn chế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi
xin điểm qua một số công trình nghiên cứu có tính chất nổi trội về vấn đề tình thái
trong Tiếng Việt nói chung, trong đó có những nghiên cứu đề cập đến vấn đề
phƣơng tiện biểu thị tình thái.
2.1. Về các tác giả nƣớc ngoài:
Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov khi

viết

về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ cũng
đã phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa nhƣ: Tiểu từ có tính chất nghi
vấn, tiểu từ nhấn mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái
nhƣ là một từ loại tiếng Việt hơn là một phƣơng tiện biểu thị tình thái [33; 34].
Một tác giả nƣớc ngoài khác cũng quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt là
V.S. Panfilov (2003), trong chƣơng VIII của cuốn “Cơ cấu ngữ pháp Tiếng Việt”
[38] (bằng tiếng Nga, do Nguyễn Thủy Minh dịch) ông đã trình bày về bán hƣ từ,
trong đó có đề cập đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ pháp này bao gồm
những từ nhƣ: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên… những từ này đƣợc dùng
với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc đƣợc nhắc tới
trong câu, hoặc đối với sự việc đƣợc nhắc tới trong câu, hoặc đối với chính phát
ngôn nhƣ một hành động lời nói” [38; 277]. Nhƣ vậy, có thể thấy chƣa có một tác
giả nƣớc ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng nhƣ những phƣơng tiện
biểu thị ý nghĩa tình thái trong Tiếng Việt.
2.2. Về các tác giả trong nƣớc:
Với các kiểu câu phân loại theo mục đích nói (trong đó có câu cảm

thán) cũng đã có rất nhiều tác giả tập trung nghiên cứu ở những công trình
lớn, vừa và nhỏ nhƣ: “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” của Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến; “Ngữ pháp tiếng Việt - Câu” của Hoàng Trọng
Phiến; “Ngữ pháp Việt Nam” của Diệp Quang Ban; “Tiếng Việt” - tập 2 của
Đinh Trọng Lạc và Bùi Minh Toán; “Câu trong tiếng Việt” của Cao Xuân Hạo; “Từ

4


điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” của Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên); "Ngữ pháp
tiếng Việt - Từ loại" của Đinh Văn Đức; "Giáo trình ngôn ngữ học" và “Dẫn luận
ngôn ngữ học” của Nguyện Thiện Giáp (chủ biên); “Trợ từ trong tiếng Việt
hiện đại” của Phạm Hùng Việt; “Câu tiếng Việt” của Nguyễn Thị Lƣơng; “Hành
động ngôn ngữ biểu lộ trong kiểu câu cảm thán của tiếng Việt hiện đại”của Hồ
Xuân Lộ; Luận án tiến sĩ “Câu cảm thán trong tiếng Việt” và bài viết “Một số hình
thức hỏi biểu thị cảm thán trong tiếng Việt” của Nguyễn Thị Hồng Ngọc; “Hành vi
cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng Việt” - luận án Tiến sĩ của Hà Thị
Hải Yến; “Câu cảm thán dƣới góc nhìn dụng học” của Đặng Thị Hảo Tâm v.v...
Các công trình vừa nêu trên đã đi vào nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến ngữ dụng học, hành vi ngôn ngữ, về các kiểu câu phân loại theo
mục đích nói, cũng nhƣ các tác phẩm nghiên cứu và đánh giá đa chiều về Nam Cao.
Song chúng tôi nhận thấy chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về công dụng
và ý nghĩa của tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc 1945.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là Tình thái từ trong truyện ngắn Nam
Cao trƣớc cách mạng tháng Tám.
3.2. Phạm vi nghiên cứu là Truyện ngắn Nam Cao trƣớc 1945 (Chí Phèo 1941, Trăng sáng - 1942, Lão Hạc - 1943, Đời thừa - 1943)
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
4.1. Mục đích:
Nghiên cứu hệ thống tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc cách mạng

tháng Tám, phân tích công dụng của chúng để góp phần làm sang tỏ đặc điểm và
công dụng của tình thái từ trong tiếng Việt, góp phần làm rõ đặc điểm ngôn ngữ của
Nam Cao.
4.2. Nhiệm vụ:
Tiếp thu thành tựu của các nhà Việt ngữ học, luận văn trình bày khái niệm về
tình thái, nội dung của tình thái, vai trò của tình thái từ trong tiếng Việt nói chung
và truyện ngắn Nam Cao trƣớc 1945 nói riêng.

5


Thu thập và khảo sát ngữ liệu, lọc ra các dẫn chứng có biểu thị tình thái.
Thuyết minh việc sử dụng và công dụng của tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc 1945.
Miêu tả, phân tích những đặc điểm cơ bản của các phƣơng tiện biểu thị, phân
tích công dụng của tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc 1945 trong từng
ngữ cảnh cụ thể.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1. Thống kê: Khi làm việc với nguồn ngữ liệu là các tác phẩm Chí Phèo 1941, Trăng sáng - 1942, Lão Hạc - 1943, Đời thừa – 1943 chúng tôi sử dụng
phƣơng pháp thống kê để định lƣợng ngữ liệu và xác lập hệ thống các từ ngữ thuộc
tình thái từ.
5.2. Phƣơng pháp phân tích văn bản, phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng, phân
tích diễn ngôn (đặt vào ngữ cảnh): Quá trình giao tiếp, diễn ngôn bao gồm cả các
yếu tố ngoài ngôn ngữ nhƣ cảnh huống, yếu tố dụng học và các tác động của các
chiến lƣợc văn hóa ở ngƣời sử dụng ngôn ngữ.
5.3. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Thấy đƣợc vị trí các phƣơng tiện tình
thái trong câu, trong diễn ngôn qua đó mà thấy đƣợc sắc thái nội dung, ý nghĩa…
tình thái trong diễn ngôn của từng ngữ cảnh.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
6.1. Về mặt lí luận:

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, là chất liệu của văn chƣơng, văn học
là nghệ thuật ngôn ngữ. Những điều đó đã đƣợc thừa nhận một cách hiển nhiên, dƣờng
nhƣ không có gì phải bàn cãi. Từ đó, nghiên cứu văn học nhất thiết không thể bỏ qua
bình diện ngôn ngữ văn học, không chỉ bởi vì mọi yếu tố, mọi bình diện khác của văn
học đều chỉ có thể đƣợc biểu đạt qua ngôn ngữ, mà còn vì sáng tạo ngôn ngữ là một
trong những mục đích quan trọng, cũng là một phần không nhỏ trong sự đóng góp vào
những giá trị độc đáo, riêng biệt của văn chƣơng. Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ mang
đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về ngôn ngữ nói chung và từ loại Tình thái từ
nói riêng trong một số truyện ngắn của Nam Cao trƣớc 1945.

6


6.2. Về mặt thực tiễn:
Lịch sử văn học, xét về một phƣơng diện cũng chính là lịch sử của ngôn ngữ
văn học. Ngôn ngữ văn học vừa là điều kiện, lại vừa là kết quả của quá trình vận
động, biến đổi của văn học qua các thời kỳ, giai đoạn. Sự thay đổi hệ hình văn học
cũng đi liền với sự thay đổi của hệ hình ngôn ngữ văn học, và qua đó phản ánh sự
biến đổi của đời sống xã hội, của tƣ duy, của môi trƣờng văn hóa tinh thần và các
giá trị của quan niệm thẩm mỹ [31]. Chúng tôi mong rằng kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ góp phần cho việc ứng dụng vào giao tiếp trong thực tế và trong quá
trình dạy Tiếng Việt cũng nhƣ dạy Văn (về Nam Cao) ở trƣờng phổ thông.
Giao tiếp sẽ đạt hiệu quả cao khi biết vận dụng những phƣơng tiện tình thái.
Việc giảng dạy Tiếng Việt và phân tích tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học
cũng nhƣ phong cách của từng nhà văn sẽ hiệu quả hơn nếu biết phát hiện và sử
dụng hệ thống phƣơng tiện tình thái bởi nó là một trong những cơ sở để ngƣời nói
tạo dựng phát ngôn cũng nhƣ để ngƣời nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao
tiếp của ngƣời nói.
7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN:
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận văn có 3 chƣơng

nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và tổng quan về Nam Cao
Chƣơng 2: Hệ thống tình thái từ trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc cách
mạng tháng Tám 1945
Chƣơng 3: Công dụng của việc sử dụng tình thái từ trong truyện ngắn
Nam Cao trƣớc cách mạng tháng Tám 1945

7


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. LỚP TỪ TÌNH THÁI:
1.1.1.Từ loại trong Tiếng Việt và sự phân chia từ loại: Thƣờng thấy có 2
cách phân chia:
1.1.1.1. Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này chia từ loại thành 2 loại: Thực
từ và Hƣ từ
a. Thực từ: Gồm Danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ
Theo Nguyễn Kim Thản: Những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể làm
thành phần câu gọi là thực từ. [40; 147]
Theo Hồng Dân: Từ thực là những từ có khả năng một mình tạo thành câu,
một mình làm phần nêu hoặc phần báo trong phần chính của câu; đồng thời có chức
năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật, thuộc tính sự vật [12; 68].
Theo Nguyễn Tài Cẩn: Tiếng độc lập, thực, chính là những yếu tố xƣa nay ta
thƣờng quen gọi là thực từ [3; 33].
Theo Đinh Văn Đức: Trong bản thân ý nghĩa của mỗi từ loại, thực từ bao
giờ cũng chứa đựng sự thống nhất của các nhân tố "từ vựng" và nhân tố "ngữ
pháp" [14; 39].
Trong quyển "Ngữ pháp tiếng Việt" của nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà

Nội: Thực từ là từ có "nghĩa thực" (hoặc nghĩa từ vựng) về sự vật, hiện tƣợng, loại
nghĩa mà nhờ nó có thể làm đƣợc sự liên hệ giữa các từ với sự vật, hiện tƣợng nhất
định. Ví dụ: cơm, bánh, ăn, sản xuất, ngon, giỏi, tích cực... Thực từ có thể dùng làm
phần đề và phần thuyết trong một nòng cốt câu. Với hai thực từ đã có thể cấu tạo
đƣợc một nòng cốt câu đơn. Ví dụ: Xe // chạy. Lúa // tốt [48; 68].
b. Hư từ: Gồm Phụ từ/phó từ, quan hệ từ (giới từ, liên từ), tình thái từ (tiểu từ
tình thái, trợ từ, thán từ)
Hƣ từ không có chức năng định danh, không có khả năng độc lập làm thành
phần câu, dùng để biểu thị các quan hệ ngữ nghĩa - cú pháp khác nhau giữa các thực
từ [54; 123].

8


Hƣ từ dùng để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp và không có ý nghĩa từ vị [47; 196].
Theo Đỗ Hữu Châu: Hƣ từ không tồn tại độc lập nếu không có những thực từ.
Tuy vậy, chúng vẫn khác với các từ tố ở chỗ không gắn chặt với thực từ, chúng vẫn
có đời sống riêng giữa các thực từ, thậm chí giữa các mệnh đề nữa.Hƣ từ vẫn biểu
thị khái niệm: đó là khái niệm về sự tƣơng quan giữa các sự vật. Bởi vậy, hƣ từ - là
những từ - quan hệ - tuy không làm thành phần của câu nhƣng rất cần thiết cho việc
xây dựng câu [5; 20].
Theo Nguyễn Kim Thản: Theo nghĩa dùng trong ngôn ngữ học, hƣ từ là những
từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, mà chỉ có tác dụng làm công cụ ngữ pháp
để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau của các từ [40; 35].
Từ hƣ là những từ không có khả năng một mình tạo thành câu, không có khả
năng một mình làm phần nêu hoặc phần báo trong phần chính của câu; đồng thời
không có chức năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật, thuộc tính của sự vật, nhƣng lại có
chức năng làm dấu hiệu của một quan hệ ngữ pháp nào đó, một tình cảm hoặc một
thái độ nào đó [12; 66].
Tiếng độc lập, hƣ, phần lớn là những yếu tố xƣa nay ta thƣờng quen gọi là hƣ

từ (hay từ công cụ) [3; 33].
Hƣ từ là những từ dùng để biểu thị một số những quan hệ cú pháp nhất
định [48; 29].
Đó là tập hợp không lớn về số lƣợng các từ, bản chất của ý nghĩa hƣ từ là tính
chất ngữ pháp, là phƣơng tiện biểu đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tƣ duy
theo cách thức phản ánh bằng ngôn ngữ của ngƣời bản ngữ [14; 43].
Hƣ từ chân chính thì không thể thay thế bằng từ khác trong một văn cảnh cụ
thể đƣợc. Thuộc vào đây có các chỉ tố về số (những, các), các mạo từ (mọi, mỗi,
từng, cái), các chỉ tố thời gian (đã, sẽ, đang, vừa, mới, từng), hệ từ (là), giới từ
(cùng, bằng, với), liên từ (nếu, tuy, nên), liên giới từ (của, vì, bởi) [45; 43].
1.1.1.2. Quan điểm thứ hai: Quan điểm này chia từ loại thành 3 loại: Thực từ,
hƣ từ và tình thái từ

9


a. Thực từ (Nằm trong nòng cốt câu, làm thành tố chính): Những từ có đầy đủ
ý nghĩa từ vựng, nó là đơn vị cơ bản thực hiện chức năng gọi tên các sự vật, nó
chiếm số lƣợng lớn. Thực từ có khả năng độc lập đảm nhận các chức vụ ngữ pháp
trong câu, có khả năng làm trung tâm của một cụm từ (đoản ngữ)
b. Hư từ (Nằm trong nòng cốt câu, làm thành tố phụ): Những đơn vị chủ yếu
có ý nghĩa ngữ pháp, có chức năng liên kết các thực từ lại trong câu, trong phát
ngôn có chức năng biểu thị mối quan hệ giữa từ này với từ khác trong dòng ngữ
lƣu. Bản thân hƣ từ không có khả năng hoạt động độc lập mà phải dựa vào thực từ
mới bộc lộ khả năng ngữ pháp.
c. Tình thái từ (Không nằm trong nòng cốt câu): Những đơn vị chủ yếu biểu
thị tình cảm, sự bình giá, sự nhận xét hoặc trạng thái cảm xúc con ngƣời đối với sự
vật, hiện tƣợng đƣợc đề cập đến. Về chức năng, tình thái từ không nằm trong các
cấu trúc ngữ pháp, không tham gia thực hiện nòng cốt câu, nó tách khỏi nòng cốt
câu, chúng chỉ đƣợc dùng trong câu để bày tỏ thái độ tình cảm.

Lƣu ý:
- Sự phân loại Thực từ - Hƣ từ chỉ mang tính chất tƣơng đối.
- Số lƣợng thực từ nhiều hơn hƣ từ nhƣng hƣ từ lại có tần số sử dụng cao hơn.
- Trong quá trình sử dụng, có sự chuyển hóa giữa thực từ sang hƣ từ và ngƣợc lại.
Trong quan điểm thứ nhất chia từ loại thành 2 loại: Thực từ và Hƣ từ. Trong
đó, các từ loại thuộc Hƣ từ có: Quan hệ từ, phụ từ, trợ từ, tình thái từ, thán từ. Trong
luận văn này, chúng tôi nghiên cứu theo quan điểm thứ nhất, xem Tình thái từ là Hƣ
từ. Đồng thời xem xét và nghiên cứu Tình thái từ là một từ loại có 3 tiểu loại: Trợ
từ, Tiểu từ tình thái và Thán từ.
1.1.2. Các tiểu loại Tình thái từ trong Tiếng Việt:
1.1.2.1. Trợ từ:
Theo Nguyễn Minh Thuyết: Trợ từ là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ
trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc đƣợc nói đến
ở từ ngữ đó [49; 69].

10


Theo Hà Quang Năng: Từ nhấn mạnh có chức năng nhấn mạnh nội dung ý
nghĩa của từ, cụm từ, của câu mà chúng đi kèm. Từ nhấn mạnh thƣờng đững trƣớc
từ, cụm từ, câu nhƣ: cả, chính, đúng, chỉ, đến, ngay, những…[37; 65]
Nó ăn hai bát cơm. (câu không có trợ từ)
Nó ăn những hai bát cơm.
Nó ăn có hai bát cơm.
Nhƣ vậy, câu đầu không có sắc thái nhấn mạnh. Chỉ lƣu ý câu có từ những và
từ có; những hai: Nhấn mạnh nghĩa hai là nhiều, có hai: Nhấn mạnh nghĩa hai là ít
Hoặc: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cƣời
(Tản Đà)
Hoặc: Hai ngày sau, chính một số cảnh sát đã giải anh đi tối hôm trƣớc lại

quay về nhà thƣơng Chợ Quán.
(Trần Đình Vân)
Theo Diệp Quang Ban: Là những từ dùng để nhấn mạnh vào một từ, một cụm
từ, một câu nào đó với nó đi kèm. Trợ từ không có ý nghĩa riêng của mình. [1, 342]
Trợ từ dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái, bằng cách nhấn mạnh vào từ,
kết hợp từ… có nội dung phản ánh liên quan với thực tại mà ngƣời nói, ngƣời viết
muốn lƣu ý ngƣời nghe. [2, 166]
Vị trí của trợ từ thƣờng tƣơng ứng với chỗ ngừng hay chỗ ngắt đoạn khi phát
ngôn câu. Do đó, trợ từ có thể có tác dụng phân tách các thành phần câu.
1.1.2.2. Tiểu từ tình thái:
Theo Hà Quang Năng: Từ tình thái là những từ làm dấu hiệu chỉ rõ mục đích
nói của câu hỏi, câu kể, câu mệnh lệnh, câu cảm thán… Từ tình thái thƣờng đứng
cuối câu biểu hiện sắc thái: cầu khiến, cảm thán, nghi vấn… bộc lộ tình cảm thái độ
ngƣời nói, ngƣời viết với sự vật hiện tƣợng. Chúng gồm các từ nhƣ: với, đã bảo mà,
đấy nhé, đấy, nhé, đi, mau, nhanh…[36; 76]
Theo Diệp Quang Ban: Tiểu từ tình thái là những từ dùng tạo dạng cho câu
phân biệt theo mục đích nói (câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán) và bày tỏ

11


quan hệ của ngƣời nói đối với nội dung câu nói hay với ngƣời nghe, có khi cả chức
năng tạo câu theo mục đích nói và chức năng diễn đạt quan hệ xã hội của ngƣời nói
cùng có trong một yếu tố tình thái [1; 343].
Tiểu từ tình thái có vị trí linh hoạt trong câu. Chúng có thể đặt đầu câu, trong
câu hay cuối câu. Khi đứng trong câu, tiểu từ tình thái thƣờng có tác dụng phân tách
ranh giới các thành phần câu, tạo dạng thức các kiểu câu theo mục đích phát ngôn.
Những từ này tuy bao gồm một số lƣợng không nhiều nhƣng diễn đạt những
sắc thái tình cảm, cảm xúc tế nhị, phức tạp. Chúng bao gồm những từ nhƣ: à, ư, nhỉ,
nhé, chứ, vậy, đâu, chăng, ừ, ạ, hử .... Nhờ chúng mà ngƣời nói hay ngƣời viết có

thể bày tỏ những sắc thái tinh tế trong thái độ, tình cảm đối với ngƣời nghe. ngƣời
đọc hoặc đối với nội dung đƣợc nói tới. Các tiểu từ tạo dạng câu theo mục đích nói
có tính chất chuyên dụng với từng kiểu câu.
Nhìn chung, tính khái quát của ý nghĩa tình thái thấp, thƣờng phải căn cứ vào
nghĩa sự việc và tình huống vật lí, có khi cả tình huống xã hội – văn hóa mới nhận
biết đƣợc, và có khi cũng chỉ có thể cảm nhận, khó miêu tả rạch ròi.
Theo Nguyễn Thị Lƣơng [32], trong luận án của mình, tác giả cũng đã dẫn
ra khái niệm về tiểu từ tình thái của F. Keifer làm căn cứ cơ sở cho luận án nhƣ
sau: “Tiểu từ tình thái là những tiểu từ có hiệu lực tạo tính tình thái”. Tác giả cũng
đã tổng hợp và chia chúng thành 3 nhóm chính:
- Các tiểu từ nhƣ: à, ư, nhỉ,... thƣờng có hiệu lực tạo tình thái nghi vấn, tạo
câu hỏi cần có sự giải đáp.
- Các tiểu từ nhƣ: đi, nào, thôi… thƣờng có hiệu lực tạo tính tình thái cầu
khiến, bày tỏ mong muốn của ngƣời phát ngôn đối với ngƣời nghe.
- Các tiểu từ nhƣ: thay, thật… thƣờng có hiệu lực bộc lộ trạng thái, cảm xúc
của ngƣời phát ngôn.
Những nghiên cứu và cách định nghĩa trên đây của các tác giả cho thấy, vấn
đề định nghĩa của tiểu từ tình thái vẫn còn chƣa thống nhất. Thật khó để đƣa ra
một định nghĩa chính xác cho các tiểu từ tình thái câu tiếng Việt. Song tựu chung
lại, chúng ta có thể nhận xét chung về tiểu từ tình thái nhƣ sau:

12


Tiểu từ tình thái là những đơn vị từ vựng không biểu thị sự vật, hiện tượng
của thực tại, mà chỉ biểu thị thái độ, tình cảm của người nói với hiện thực được
nói đến trong câu và với người nghe.
1.2.2.3. Thán từ
Đó là những từ dùng để bộc lộ trực tiếp xúc cảm của ngƣời nói. Chúng không
thể dùng làm tên gọi cho xúc cảm đƣợc, mà chỉ làm dấu hiệu cho những xúc cảm

mà thôi. Chúng không thể làm thành phần cho cụm từ hay câu, nhƣng lại có thể tách
riêng khỏi câu để làm thành một câu riêng biệt.
Trong khi sử dụng chúng thƣờng gắn liền với một ngữ điệu hay cử chỉ, nét
mặt, điệu bộ của ngƣời nói. Các thán từ có thể dùng để gọi đáp ơi, vâng, dạ, bẩm,
thưa, ừ,...; có thể dùng để bộc lộ cảm xúc vui mừng, ngạc nhiên, đau đớn, sợ hãi,
tức giận ôi, trời ơi, ô, ủa, kìa, ái, ối, than ôi, hỡi ôi, eo ôi, ôi giời ôi,... Có thể nói,
chúng dùng để bộc lộ những cảm xúc đột ngột, mạnh mẽ thuộc các loại khác nhau.
Ô hay! Sao lại vất thang lại thế này?
(Trần Đăng)
Ồ, sao mà ngu si làm vậy?
(Chu Văn)
Theo Hà Quang Năng: Từ cảm thán bộc lộ cảm xúc ngƣời nói, làm dấu hiệu
chỉ dẫn những xúc cảm con ngƣời mà thôi, vì thế không làm thành phần trong câu,
trong cụm từ mà nó tách ra làm một bộ phận riêng khỏi câu. Vì thế có rất nhiều
trƣờng hợp thán từ đứng riêng làm nhiệm vụ của câu đặc biệt. [36, 122]
- Giời ơi là giời!
(Nam Cao)
- Vẽ chuyện!
(Nam Cao)
Theo Diệp Quang Ban: Thán từ là từ - tín hiệu phản ánh các trạng thái tâm sinh lí. Chúng gần với tiếng kêu tự phát nhiều hơn. Thán từ có nét riêng về cú pháp
là nó có thể một mình làm thành một câu riêng, hoặc là một vế câu cùng với vế câu
khác chỉ sự việc làm hành một câu ghép [1, 347]. Trong một câu ghép nhƣ vậy,
thông thƣờng về câu chỉ sự việc có tác dụng giải thích lí do của sự cảm thán, nhƣ
trong vế câu cảm thán đƣợc in đậm.

13


- Ôi, đau quá.
Về cấu tạo, có thể chia thán từ ra thành 3 nhóm:

Thán từ gần nguyên dạng
Thán từ không nguyên dạng
Thán từ gọi – đáp
1.2.2.4. Phân biệt Trợ từ, Tiểu từ tình thái, Thán từ:
Trợ từ, tiểu từ tình thái, thán từ có những điểm giống nhau:
Tất cả chúng đều không mang nghĩa từ vựng chân thực
Chúng không xuất hiện trong cụm từ với tƣ cách là thành tố trung tâm hoặc là
thành tố phụ hay liên kết.
Chúng có khả năng xuất hiện ở cấp độ câu để tạo các ý nghĩa thuộc về thái độ
đánh giá.
Tuy vậy, chúng có những điểm khác nhau:
Thán từ có khả năng đứng độc lập với tƣ cách là câu đặc biệt; đứng ở đầu câu,
trƣớc cụm C – V để làm thành phần phụ cho cả câu. Còn trợ từ, tiểu từ tình thái
không có khả năng này. Trợ từ, tiểu từ tình thái phải luôn đi với từ khác thì mới
phát huy tác dụng.
Thán từ đứng độc lập làm câu đặc biệt: (Thán từ bộc lộ cảm xúc ngƣời nói,
làm dấu hiệu chỉ dẫn những xúc cảm con ngƣời mà thôi, vì thế không làm thành
phần trong câu, trong cụm từ mà nó tách ra làm một bộ phận riêng khỏi câu. Vì thế
có rất nhiều trƣờng hợp thán từ đứng riêng làm nhiệm vụ của câu đặc biệt)
Ví dụ:
Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ƣng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nƣớc đổ.
(Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Thán từ đứng đầu câu với tƣ cách là thành phần phụ của cả câu:
Thôi, chuyện cũ bỏ đi.
(Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng)

14



1.2. NGHĨA TÌNH THÁI:
1.2.1. Một số quan điểm nghiên cứu tiên phong về tình thái:
1.2.1.1. O. Jespersen (1949), khi bàn về tình thái, đã nhận xét về các thức
tƣờng giải/trực thuyết, giả định và cầu khiến trong cuốn “A Modern English
Grammar on Historical Principles I - IV, London and Copenhagen” nhƣ sau:
"Chúng biểu thị những thái độ nhất định của ngƣời nói hƣớng về nội dung của câu,
dù rằng, trong một số trƣờng hợp, sự lựa chọn thức đƣợc quyết định không phải bởi
thái độ của ngƣời nói mà bởi đặc điểm của bản thân mệnh đề và mối quan hệ của nó
với chuỗi (mệnh đề) liên hệ chính mà nó lệ thuộc vào". Theo nhận xét của F.
Palmer, những đề xuất của O. Jesperson là ít quan trọng về mặt lý thuyết, ngoại trừ
nhận thức của ông về hai loại "thức":
a. Nhóm bao gồm yếu tố ý chí:
- Cầu khiến: Đi đi!
- Ép buộc: Nó buộc phải đi
- Nghĩa vụ: Nó phải đi/Chúng ta phải đi
- Khuyên bảo: Anh nên đi
- Khẩn cầu: Làm ơn đi cho!
- Khích lệ: Hãy để chúng tôi đi
- Cho phép: Anh có thể đi, nếu muốn
- Hứa hẹn: Tôi sẽ đi/Sẽ ổn thôi
- Mong mỏi (có thể thực hiện đƣợc): Mong cho nó vẫn sống
- Ƣớc vọng (không thể thực hiện đƣợc): Giá mà nó vẫn còn sống
- Dự tính: Để nó có thể đi
b. Nhóm không bao gồm gồm yếu tố ý chí:
- Xác thực: Hai lần hai là bốn
- Đòi hỏi cần phải có: Nó chắc hẳn giàu (nếu không thì nó chẳng tiêu hoang
như vậy)
- Xác nhận: Nó giàu
- Giả định có cơ sở: Nó rất có thể giàu có/nó sẽ biết


15


- Hồ nghi: Có lẽ là nó giàu
- Khả năng: Nó có thể nói
- Điều kiện: Nếu nó giàu
- Giả thiết: Giá nó giàu
- Nhƣợng bộ: Dù nó giàu
Thực ra, O. Jespersen cũng đã chỉ rõ "thức" là một sự phân loại của ngữ pháp.
1.2.1.2. V. Wright (1951), trong một công trình có tính khai sáng về logic tình
thái, đã phân chia tình thái thành bốn loại:
Tình thái hiện thực (the alethic modes);
Tình thái nhận thức (the epistemic modes);
Tình thái trách nhiệm (the deontic modes);
Tình thái tồn tại (the existential modes).
Điều đáng lƣu ý ở đây là sự phân biệt giữa tình thái nhận thức và tình thái
trách nhiệm. Sự phân biệt này có thể đƣợc minh hoạ bằng sự so sánh cặp đôi các
cách sử dụng “may” và “must” trong tiếng Anh nhƣ:
a1. John may be there by now (Có lẽ lúc này John đang ở đó);
a2. You may come in now (Bây giờ anh có thể vào được);
b1. John must be there by now (John chắc là đã ở đó lúc này);
b2. You must come in now (bây giờ anh phải vào).
Tuy “may” biểu thị khả năng, nhƣng “may” ở a2 còn diễn tả ý nghĩa "đƣợc
phép", "cho phép" (làm một việc gì). Tƣơng tự, “must” ở b1 khác với “must” ở b2 ở
chỗ trong khi “must” ở b1 diễn tả khả năng (possibility) hay có sự suy đoán logic
thì “must” ở b2 mang hàm nghĩa bắt buộc. Do đó “may” a1 và “must” b1 biểu thị
tình thái nhận thức, còn “may” a2 và “must” b2 biểu thị tình thái trách nhiệm. Hai
loại tình thái trên đây đƣợc coi là quan trọng và phổ biến trong các ngôn ngữ khác
nhau nên hầu nhƣ công trình nào nghiên cứu về tình thái sau này đều đề cập và phân

tích về chúng một cách khá chi tiết.
1.2.1.3. N. Rescher (1969), trong giới hạn của khung logic đƣợc trình bày
trong cuốn “Topics in philosophical logic”, đã đề nghị một hệ thống mở về tình

16


thái. Những nhận xét của ông về các loại tình thái đƣợc mở đầu bằng câu: "Một
phán đoán đƣợc trình bày bằng một câu thƣờng thuật. Cái mà đƣợc nhận thức nhƣ
một tổng thể, sẽ là đúng hoặc sai”.
Ví dụ: The cat is on the mat (Con mèo ở trên tấm thảm)".
Và khi một phán đoán nhƣ vậy tham gia vào một kết cấu lớn hơn cùng loại
một lần nữa tự nó là một phán đoán, thì kết cấu lớn hơn này đƣợc xem nhƣ đại diện
cho một tình thái đối với phán đoán gốc nhƣ: X believes "the cat ... mat". Cách hiểu
nhƣ vậy về tình thái tạo ra nhiều vấn đề về mặt lý luận. Bên cạnh các loại tình thái
hiện thực, nhận thức, trách nhiệm, ông đề cập đến các loại tình thái biểu thời
(temporal), tình thái vọng cảm (boulomaic), tình thái đánh giá (evaluative), tình thái
nguyên nhân (causal) và tình thái điều kiện (conditional).
1.2.1.4. J.R. Searle (1979) là ngƣời đã phát triển nội hàm khái niệm tình thái
lên một bƣớc mới. Sự tiếp cận của Searle hƣớng đến vấn đề hành vi ngôn ngữ. Sự
tiếp cận này cung cấp một khung ngữ nghĩa hữu ích cho việc thảo luận về tình thái.
Lý thuyết hành vi ngôn ngữ quan tâm tới mối quan hệ giữa ngƣời nói và cái mà anh
ta nói. Mối quan hệ này, nhƣ đã biết, chứa đựng rất nhiều vấn đề nội dung tình thái.
Chẳng hạn, hành vi khẳng định (assertive) đƣợc mô tả theo phƣơng diện lòng tin
(belief). Nhƣng, mức độ của “lòng tin” có thể ở mức zero. Nội dung này liên quan
đến tình thái nhận thức. Hay, loại chi phối (directive) có sự tƣơng ứng rất lớn với
tình thái trách nhiệm. Có thể nói rằng, cái mà Searle gọi là "khẳng định" và "chi
phối" thực sự là trung tâm của bất kỳ sự thảo luận nào về tình thái. Đối với ba loại
còn lại thì loại cam kết (commissive) không có sự phân biệt rõ ràng với loại chi
phối (directive) vì chúng đều có khuynh hƣớng “sẽ thực hiện một cái gì đó". Loại

này chỉ khác với loại trên ở chỗ là ngƣời nói "cam kết" làm, còn loại dƣới là ngƣời
nghe "phải" làm. Do vậy, hai loại này cùng nằm trong phạm vi tình thái trách
nhiệm. Loại biểu cảm (expressive) tƣơng ứng với phạm trù tình thái đánh giá
(evaluative) của Rescher. Có rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đánh giá là một
phạm trù tình thái. Chẳng hạn Volf, E.M. (1985) đã nhận xét rằng "có thể xem
đánh giá nhƣ là một trong những dạng của tình thái, tức là cái đƣợc đặt chồng thêm

17


cho một nội dung mô tả trong sự thể hiện bằng ngôn ngữ". Theo Arutiunova
(1988), thì “đánh giá "đƣợc coi là biểu hiện rõ ràng nhất của nghĩa ngữ dụng" [3,
62]. Loại tuyên bố (declaration) tƣơng đối giống loại khẳng định về phƣơng diện
hiệu lực tại lời. Nói tóm lại, qua hệ thống phân loại các hành vi tại lời của Searle,
có thể nhận thấy rằng có một sự tƣơng hợp giữa các hành vi tại lời với các phạm trù
tình thái. Điều này tạo ra những tiền đề lý thuyết cho việc nghiên cứu về khung tình
thái trong mối tƣơng quan với nội dung mệnh đề, một mối tƣơng quan có tính thống
nhất và tính phân loại [22, 83].
1.2.1.5. T. Givón (1993) diễn đạt quan niệm của ông về tình thái khá ngắn
gọn: "Tình thái biểu thị thái độ của ngƣời nói đối với phát ngôn". Theo ông, thái độ
bao gồm hai loại đánh giá của ngƣời nói về thông tin của phát ngôn đƣợc chuyển tải
qua nội dung mệnh đề:
Những đánh giá nhận thức về tính hiện thực, khả năng, lòng tin, sự chắc chắn
hay bằng chứng;
Những đánh giá giá trị về ƣớc muốn, sự ƣa thích, ý định, năng lực, sự ràng
buộc hay sự điều khiển.
Cũng theo T. Givón, bốn tiểu loại chính của tình thái nhận thức sau đây đƣợc
thể hiện rõ nét nhất trong ngôn ngữ của nhân loại:
- Tiền giả định (presupposition);
- Xác nhận hiện thực (realis assertion);

- Xác nhận phi hiện thực (irrealis assertion);
- Xác nhận phủ định (negative assertion).
Theo W. Frawley (1992), "Phạm vi ngữ nghĩa liên quan đến vị thế hiện thực
của phát ngôn là tình thái". Tình thái ảnh hƣởng tới toàn bộ nội dung của một sự
diễn đạt nào đó. Và nhƣ vậy, nó liên quan đến toàn bộ phán đoán. Tình thái gợi lên
không chỉ các mức độ nhận thức khách quan về hiện thực, mà cả các thái độ và sự
định hƣớng chủ quan đối với nội dung của sự biểu đạt. Frawley cho rằng "hiện
thực" (realis) và "phi hiện thực" (irrealis) là hai thuộc tính cơ bản của tình thái,
tƣơng tự nhƣ nhận xét của M.A.K. Halliday. Ông cũng cho rằng, ba lớp tình thái
thƣờng đƣợc nói tới trong tất cả các ngôn ngữ là:

18


- Sự phủ định (tình thái phủ định) đƣợc cấu thành bởi sự tách rời giữa thế giới
đƣợc biểu đạt và thế giới tham chiếu (the expressed world and the reference world);
- Tình thái nhận thức bao gồm sự hội nhập tiềm tàng giữa thế giới đƣợc biểu
đạt và thế giới tham chiếu;
- Tình thái trách nhiệm quan tâm đến sự hội nhập bắt buộc giữa thế giới biểu
thị và thế giới tham chiếu.
1.2.1.6. F. Palmer: Theo Palmer, tình thái là một hiện tƣợng ngữ nghĩa còn
thức (mood) là một hiện tƣợng ngữ pháp. Sự khác biệt giữa chúng cũng giống nhƣ
sự khác biệt giữa thời gian (time) và thì (tense), giữa giới tính (sex) và giống
(gender). Palmer đã định nghĩa tình thái nhƣ là thông tin ngữ nghĩa gắn kết với thái
độ và ý kiến của ngƣời nói về nội dung đƣợc nói. Các nội dung tình thái đƣợc
Palmer đề cập rất đa dạng. Nhƣng trọng tâm vẫn là tình thái nhận thức và tình thái
trách nhiệm. Theo Palmer, tình thái nhận thức đƣợc chia thành hai lớp cơ bản: đánh
giá (judgement) và bằng chứng (evidence). Tình thái đánh giá gồm tất cả các khái
niệm nhận thức, tính khả năng và sự cần thiết. Ông còn phân lớp tình thái đánh giá
dựa vào mức độ tin tƣởng mà ngƣời nói có trong khi khẳng định thành hai tiểu lớp:

đánh giá sự cần thiết và đánh giá khả năng. Mỗi tiểu loại trên, theo thứ tự, dựa vào
suy luận (inference) và xác tín hay đánh giá mạnh yếu. Ông cho rằng, các ngôn ngữ,
xét về kiểu dạng, có thể là thiên về đánh giá, thiên về bằng chứng, hoặc pha trộn cả
hai. Chẳng hạn, tiếng Anh là ngôn ngữ cơ bản thiên về đánh giá. Trong khi tình thái
nhận thức đƣợc liên hệ với lòng tin, tri thức, sự thật trong mối quan hệ với phát
ngôn, thì tình thái trách nhiệm lại đƣợc liên hệ với hành động. Tình thái trách nhiệm
thƣờng có một thuộc tính quan trọng, đó là tính phi thực hữu (non - factual). F.
Palmer cũng đã đề xuất một loại tình thái thứ ba là tình thái “dynamic” (có thể tạm
dịch là tình thái động, tình thái linh hoạt hoặc tình thái trạng huống) nhƣ là một
dạng trung gian giữa tình thái nhận thức và tình thái trách nhiệm, một dạng tình thái
có tính "tình huống".
Ví dụ:
- You must come here at once (Anh phải đến đây ngay);

19


- You must go now if you wish to catch the bus (Anh phải đến ngay nếu anh
muốn đón được chuyến xe buýt).
Ở ví dụ thứ hai, ngƣời nói đề cập đến việc ngƣời nghe phải làm một việc,
nhƣng việc đó có tính bắt buộc hay không lại tuỳ thuộc vào ngƣời nghe. “Đi” hay
“không đi” ở đây đƣợc đặt vào trong một tình huống liên quan với việc nội dung
mệnh đề đi sau có mang tính hiện thực hay không [39, 17].
1.2.2. Phân biệt nghĩa tình thái và nghĩa miêu tả của câu:
1.2.2.1. Nghĩa miêu tả của câu (nghĩa sự việc)
Nghĩa miêu tả của câu là thành phần nghĩa ứng với sự việc mà câu đề cập đến.
sự việc trong hiện thực khách quan rất đa dạng và thuộc nhiều loại khác nhau. Do
đó, câu cũng có những nghĩa sự việc khác nhau [51, 8].
Câu biểu hiện hành động:
Xuân Tóc Đỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chỗ những ngƣời đi đƣa.

(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
Câu biểu hiện trạng thái, tính chất, đặc điểm:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao.
(Nguyễn Khuyến, Vịnh mùa thu)
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.
(Hồ Xuân Hƣơng, Tự tình – bài II)
Câu biểu hiện quá trình:
Lá vàng trƣớc gió khẽ đƣa vèo.
(Nguyễn Khuyến, Câu cá mùa thu)
Câu biểu hiên tƣ thế:
Lom khom dƣới núi tiều vài chú.
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua đèo ngang)
Giữa giƣờng thất bảo ngồi trên một bà.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Câu biểu hiện sự tồn tại:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử.

20


Hết cơm, hết rƣợu, hết ông tôi.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thói đời)
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Câu biểu hiện quan hệ:
Đội Tảo là một tay vai vế trong làng.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Ngựa xe nhƣ nƣớc áo quần nhƣ nêm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nghĩa sự việc của câu thƣờng đƣợc biểu hiện nhờ những thành phần ngữ pháp

nhƣ chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ và một số thành phần phụ khác. Một câu
có thể biểu hiện một sự việc, cũng có thể biểu hiện một số sự việc [51, 8].
1.2.2.2. Nghĩa tình thái của câu
Nghĩa tình thái là một lĩnh vực phức tạp, gồm nhiều khía cạnh khác nhau, có
thể thấy ở các trƣờng hợp dƣới đây:
a. Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói với sự việc được đề cập
đến trong câu:
Khi đề cập đến sự việc nào đó, ngƣời nói không thể không bộc lộ thái độ, sự
đánh giá của mình với sự việc đó. Đó có thể là sự tin tƣởng chắc chắn, sự hoài nghi,
sự phỏng đoán, sự đánh giá cao hay thấp, tốt hay xấu, sự nhấn mạnh hoặc coi
nhẹ,… đối với sự việc. Một số ví dụ (từ ngữ thể hiện nghĩa tình thái đƣợc in đậm):
Khẳng định sự chân thật của sự việc:
Sự thật là dân ta đã lấy lại nƣớc việt nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập)
Phỏng đoán sự việc với độ tin cậy cao hoặc với độ tin cậy thấp:
Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng
bên ngoài chắc là rực rỡ.
(Nam Cao, Chí Phèo)

21


×