MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài với những biến động và
thăng trầm của riêng mình. Gắn liền với nó là sự ảnh hưởng của rất nhiều các
trường phái triết học khác nhau đã du nhập, đã được chọn lọc và áp dụng trong
cách sống, cách tư duy của người Việt Nam chúng ta. Và không thể phủ nhận
rằng trong hàng loạt các tư tưởng triết học đó, Việt Nam nói riêng và Đông Nam
Á cũng như Châu Á nói chung đã bị ảnh hưởng khác sâu sắc và rõ rệt bởi mảng
triết học phật giáo. Tất nhiên khi du nhập vào một đất nước, một quốc gia hay
một dân tộc thì triết học phật giáo nói riêng cũng như các loại triết học khác đều
có những biến chuyển để phù hợp và mang đậm dấu ấn riêng của các quốc gia
đó. Cùng bị ảnh hưởng bởi triết học phật giáo nhưng tại sao người ta không bao
giờ đồng quy Việt Nam với các vương quốc phật giáo khác như Thái Lan,
Campuchia hay Mianma…? Có lẽ câu trả lời nằm trong chính nhận thức của
1
mỗi một cá nhân mang dòng máu Việt Nam, cũng như chính bản thân những
người viết bài nghiên cứu này. Chúng ta có những tư duy riêng của mình, có
những cảm thụ cũng như cách chắt lọc riêng về những lý luận hay tri thức mà
triết học phật giáo mang lại cho chúng ta. Đến với Việt Nam, những người nước
ngoài không bao giờ quên được những hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình,
những cánh đồng sen tỏa ngát hương thơm, hay cong cong mái chùa nghi ngút
khói hương, hay thân tình hơn là cách mà con người Việt Nam đối xử với nhau
và với xã hội. Vậy triết học phật giáo đã đến, đã ảnh hưởng và đã biến đổi như
thế nào ở Việt Nam là vấn đề mà chúng tôi muốn tìm hiểu và phân tích dưới góc
độ cảm nhận của cá nhân mình. Nhưng có lẽ triết học phật giáo với hàng chục
các vấn đề mang trong mình sẽ làm cho một bài nghiên cứu nhóm sẽ trở nên
phức tạp và không bao quát hết được các khía cạnh. Vì thế với bài nghiên cứu
này chúng tôi sẽ chọn cho mình một khía cạnh riêng để tìm hiểu, để viết và để
hiểu hơn về một vấn đề mà có lẽ nếu nói chung chung thì ai cũng biết nhưng nếu
nói cho cặn kẽ thì lại có thật nhiều điều mới mẻ. Khía cạnh đó là tư duy biện
chứng trong triết học phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư duy của con người
Việt Nam. Trong khuôn khổ một bài viết gần 20 trang có thể sẽ có những thiếu
sót và chưa đầy đủ nhưng chắc chắn nó sẽ có những phát hiện riêng và quan
niệm mới mẻ về một vấn đề tưởng như rất lý luận và trừu tượng đối với các bạn
trẻ. Bản thân chúng tôi khi viết những dòng này cũng hy vọng mình sẽ có được
nhiều sự hiểu biết hơn về các kiến thức triết học, và thấy rằng triết học thực sự là
một bộ môn khoa học với những tri thức rất tuyệt vời.
2
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO
Có thể nói khi bàn về các vấn đề triết học người ta thường rơi vào trạng
thái là được tiếp xúc với rất nhiều các kiến thức, các luận giải nhưng lại rất khó
để hiểu được đâu là vấn đề cốt lõi thực sự. Ở đây triết học phật giáo cũng thế, nó
chứa đựng trong mình hàng chục các vấn đề khác nhau và hầu hết chúng đều có
các ảnh hưởng đến tư duy của người Việt Nam. Vậy khía cạnh tư duy biện
chứng trong triết học phật giáo thực chất là gì? Và biểu hiện cụ thể ra sao? thì
chúng ta có thể phân tích khái quát như sau:
1. Bản chất của tư duy biện chứng trong triết học phật giáo
- Tư duy biện chứng trong phật giáo là tư duy về sự vận động biến đổi của
vạn vật trong thế giới. Nó thể hiện rõ ràng nhất, nổi bật nhất là phạm trù tư duy
3
về về thế giới và con người trong đó luận giải về các vấn đề sinh ra, tồn tại và
biến mất:
+ Con người nằm trong vòng sinh lão bệnh tử, quan niệm về con người
trong vòng luân hồi số kiếp và giải thoát.
+ Thế giới vô thường - vô tại, hiện tại này là nguyên nhân dẫn đến những
cái khác.
- Tư duy biện chứng thể hiện rõ nhất và trung tâm nhất là ở thuyết vô ngãvô thường và luật nhân quả.
+ Luật nhân-quả: Triết học phật giáo đề cao tính tự thân sinh thành, biến
đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh
hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ
biến của luật nhân-quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề
của cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu…
+ Thuyết vô ngã-vô thường: Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật
giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô
thường” của vạn vật.
2. Thuyết vô ngã-vô thường
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn
không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên
thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua
cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác),
tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục
tại”: Địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở),
không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là
sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như vậy
thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là
vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay:
4
Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe
quay) bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà
chẳng mất.
Triết học phật giáo cho rằng các sự vật hiện tượng trong vũ trụ là vô thủy
vô chung (vô cùng- vô tận). Tất cả thể giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô
thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều
thuộc về một giới ( vạn vật nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một
pháp( mỗi một sự vật hiện tượng, hay một lớp các sự vật hiện tượng) đều ảnh
hưởng đến toàn pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế
giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và quy định lẫn nhau.
Tác phẩm “thanh dung thực luận” của kinh phật viết: có người cố chấp có Đại tự
nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định ra chu pháp,
đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi phối bởi luật nhân quả, biến hóa vô
thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình
thức nào tồn tại vĩnh viễn.
Sanh diệt vô thường: Là sự vô thường nhanh chóng trong từng ý niệm,
nó thay đổi hoàn toàn, cái mà xảy ra bên trong bất cứ một chúng sanh nào hay
một sự vật nào, ngoài sự tập hợp của các pháp thì xuất hiện sự sanh diệt ngay
lúc đó. Như vậy, mỗi người, mỗi vật luôn luôn thay đổi và không bao giờ giống
nhau, vì hai sự kiện hoạt động tiếp nối nhau. Trong Triết học Phật giáo gọi là
“sanh diệt vô thường”, nguyên lý này được giải thích theo quan điểm Phật giáo
là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều sanh diệt không ngừng trong từng
khoảnh khắc.
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá
êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
Nhưng không hẳn là như vậy mà lắm lúc chúng ta quên đi sự vô thường và biến
hoại của vật chất trong từng giây phút đi qua. Ta có thể tận mắt nhìn một đám
mây đang bay ngang trước mắt, nhưng rồi nó cũng phải biến tướng dời đi nơi
5
khác mà không còn nguyên vẹn như ban đầu chúng ta đang có cảm thọ là đám
mây kia vẫn ở vị trí cũ.
Tóm lại: Ngay từ đầu triết học phật giáo đã giả quyết các vấn đề một cách
biện chứng và duy vật. TH phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các
đấng tối cao, của thượng đế và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan
và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng
trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động,
nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào.Và có
thể nói qua thuyết vô ngã vô thường người ta nhận ra thế giới quan trong triết
học phật giáo hay nói cách khác là cách nhìn nhận thế giới của triết học phật
giáo. Đó là một thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng và triết học phật
giáo đã nhìn nhận thế giới trong sự hình thành, tồn tại, phát triển và biến mất.
Hay nói một cách khác triết học phật giáo đã nhìn nhận sự tồn tại thế giới trong
sự phức tạp của nó.
3. Luật nhân quả
Luật nhân quả được hiểu một cách thông thường như sau: cái nhân nhờ có
cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân
khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới … Cứ thế nối nhau vô
cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hóa hóa mãi. Tất cả
vạn vật đều tuân theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá
ấy là thường còn(vĩnh viễn).
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt( sinh thành, biến đổi, tồn tại và diệt vong). Qúa trình đó phổ
biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự
vật hiện tượng. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của
vạn vật đã xây dựng nên thuyết nhân duyên. Trong thuyết nhân duyên có ba khái
niệm cơ bản là Nhân, Quả, Duyên:
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó được gọi
là Nhân
6
- Cái gì tập lại từ Nhân gọi là Quả.
- Duyên là điều kiện, mối liên hệ giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp
cho sự biến chuyển của Phật pháp.
Luật nhân quả có thể hiểu cụ thể như sau:
- Nhân Quả là một định luật mới ngó thì rất giản dị, nhưng nếu càng đi
sâu vào sự vật thì càng thấy phức tạp, khó khăn! Trong vũ trụ mọi sự vật không
phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết, xoắn lấy nhau, ảnh
hưởng nhau, tương phản nhau, tiếp thừa nhau, chằng chịt giữa sự vật, hành giả
gọi nó là "Duyên" nên mới có từ “Nhân Duyên”.
Ví dụ: hạt lúa cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa
sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những
mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những nhân tố đó
chính là duyên. Mối quan hệ Nhân – Quả là mối quan hệ biện chứng trong
không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ bao trùm lên toàn bộ thế giới
không tính đến cái lớn nhỏ, cái đơn giản hay phức tạp.Ví như một hạt cát nhỏ
được tạo thành từ mối quan hệ nhân quả trong toàn vũ trụ, cả vũ trụ hòa hợp tạo
nên nó.
- Thuần nhân không sinh ra quả. Hạt lúa không thành cây, nếu không đem
gieọ Hạt lúa không thành cơm, nếu không đem xay giả và nấu chín. Ở khía cạnh
khác thì lại khác. Thí dụ, muốn có quả cam thì phải có nhân (hạt) cam. Tức nhân
nào thì quả nấỵ Học đàn thì biết đàn. Nghĩa là nhân quả phải đồng loại nhau. Do
đó, nhân chuyển đổi thì quả cũng chuyển đổi theọ Thế nên dựa vào luật nhân
quả ông bà ta khuyên ngắn gọn "làm lành hưởng phước, làn ác mang họa", với
ước muốn con cháu ăn hiền ở lành.
- Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Chính trong Nhân hiện tại đã
hàm chứa cái Quả vị lai; cũng chính trong Quả hiện tại đã có hình bóng của
Nhân quá khứ. Một sự vật ta gọi là Nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình
thành ra cái Quả. Một vật đều có Nhân và Quả; đối với quá khứ nó là Quả,
7
nhưng đối với tương lai nó là Nhân. Nhân và Quả đấp đổi nhau, tiếp nối nhau
không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào, người ta
cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một người. - Sự
biến chuyển từ Nhân đến Quả có khi mau, khi chậm, chứ không phải bao giờ
diễn tiến trong một thời gian đồng đều. Có những Nhân và Quả xảy ra kế tiếp
nhau, Nhân vừa phát thì Quả xuất hiện, như khi ta vừa đánh xuống mặt trống
(nhân) thì âm thanh phát ra (quả). Nhiều khi Nhân gây rồi, nhưng phải đợi một
thời gian mới hình thành. Cái thời gian ấy phức tạp vô chừng. Như gieo hạt lúa
phải cần thời gian vài ba tháng. Có khi từ Nhân đến Quả hàng chục năm, như từ
khi đi học (nhân) đến lúc thành tài (quả). Có khi từ Nhân đến Quả phải đợi một
vài trăm năm hay hơn nữạ Điều nầy vượt qua mức sự kiểm soát của một kiếp
người nên có kẻ không tin luật Nhân Quả
Nhân Quả nơi con người: Nói đến con người thì có nhiều phương diện
nào vật chất, như con người do cha mẹ sanh ra (nhân) rồi hoàn cảnh cuộc sống
(duyên). Về phương diện tinh thần thì có tư tưởng tốt và xấu. Nói một cách tổng
quát dù vật chất hay tinh thần, hễ gieo nhân nào thì gặt quả nấỵ
Về thời gian thì Nhân trước, Quả sau. Nhân Quả tồn tại trong diễn biến
trước sau nối nhau, trong sự hòa hợp liên quan đến nhau. Có nguyên nhân thì tất
có kết quả, có kết quả thì tất có nguyên nhân. Mọi sự vật đều biến đổi sinh diệt
theo phép Nhân quả. Luật nhân quả là lý luận cơ bản mà triết học phật giáo dùng
để giải thích mối quan hệ tương hỗ của mọi sự vật.
4. Nhân sinh quan trong triết học phật giáo
Quan điểm về triết lý nhân sinh, ở phương Đông đã kết luận bản tính tự
nhiên của con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được cấu tạo từ vật
chất. Còn theo triết học Mác-Lênin, quan niệm về con người: Con người là một
thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với xã hội; trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; con người là chủ thể và là
sản phẩm của lịch sử. Đạo Phật quan niệm về triết lý nhân sinh thể hiện trong
thuyết “thập nhị nhân duyên”. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh căn bản.
8
Từ nhân quá khứ sang quả hiện tại lại làm lại nhân cho quả tương lai. Cũng theo
phật giáo nguồn gốc vũ trụ và con người không do lực lượng siêu nhân sáng tạo
ra mà cho rằng thế giới là vô cùng vô tận.
Trong thập nhị nhân duyên ta chú trọng đến quy luật “sinh lão bệnh tử”,
mà ở đó con người tuân theo quy luật này để hình thành, tồn tại, phát triển và
biến mất:
- Sinh: hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm
súc vật. Do sinh mà có tử, ấy là sinh làm quả cho hữu và làm nhân cho tử.
- Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhưng chết- sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là
hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang nghiệp rơi vào
vòng luân hồi khổ não.
Sinh lão bệnh tử là bốn nỗi khổ mà ai cũng phải trải qua theo như phật
giáo, nó xuất phát từ một bài thơ của đức phật:
Trên trời dưới đất
Chỉ là tôn nhất
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ
bất cứ ai. Trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt: sự sống và cái chết. Khi con
người sinh ra và lớn lên cũng đồng nghĩa với việc tiến dần tới cái chết. Do vậy,
nếu tất cả mọi người đều hiểu được sinh tử là quy luật tự nhiên thì họ sẽ sống
tích cực hơn và ra sức đóng góp cho đời nhiều hơn.
9
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1 Ảnh hưởng của tư duy biện chứng trong phật giáo đến tư duy người
Việt Nam
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt
phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của
cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận thức
được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc quan bình
thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong Lý – Trần đã có quan niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng,thành, thức là
những vấn đề có ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy
tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý;
Từ sự vật khánh quan (Sắc), Con người cảm thụ được (Thụ), Suy nghĩ (Tưởng),
Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết (Thức). Ở đây nếu đem bóc cái thần
bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng
với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo nhìn sự vật trong sự
vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại
mãi.Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định
tương đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được của cái hình thức
vận động sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt khác phải thấy
nhận thức được như vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được phương diện cơ bản
của sự phát triển sự vật.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc
xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên
nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác.
10
Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt
Nam góp phần làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của
người Viêt Nam.
2. Biểu hiện cụ thể của những ảnh hưởng này trong cuộc sống của
người Việt Nam
2.1. Quan hệ giữa người với người
2.1.1. Đạo đức
Khi quan sát thế giới bên ngoài, Phật giáo đã nhìn ra một mối quan hệ phổ
biến, cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng – đó là mối quan hệ Nhân – Duyên Quả. Thuyết này là sự phản ánh khái quát rút ra từ thế giới hiện tượng, đặc biệt
là khi xem xét sự phát triển của tự nhiên. Cách nhận thức hợp lý này đã cung
cấp cho người Việt một cách suy nghĩ mang tính chất nhân quả để nhìn con
người, cuộc sống, vạn vật: “nhân nào, quả nấy”,”gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp
lành”.... Phạt giáo khuyến khích con người ăn ở nhân đức để có được cuộc sống
tốt đẹp trong thời gian mai sau.
Phật giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm
bình tĩnh, tỉnh táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham lam, hận
thù, si mê, tâm đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và ghét, thì nhận
thức không thể nào khách quan được. Tâm như vậy giống như mặt nước hồ qua
trận cuồng phong làm nổi sóng, vẩn đục và không thể nào thấy được những
viên cuội dưới đáy sông. Muốn cho tâm được yên tĩnh, tỉnh táo thì việc đầu tiên
là nên nghĩ và làm những điều thiện. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy
nghĩ về làm những điều thiện, làm lành lánh giữ. Trong các loại nghiệp của con
người có 3 loại nghiệp quan trọng nhất là thân, khẩu, ý. Trong đó Phật giáo coi
nghiệp ý (về tư duy, suy nghĩ) là quan trọng nhất. “Tổng vệ sinh”, “làm sạch”
tư duy vừa là công việc khẩn thiết vừa là công việc thường xuyên từng giờ,
từng phút với mỗi Phật tử. Chính vì quan tâm cứu vớt con người trước bất công
đau khổ nên người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình ủng hộ đạo Phật.
11
Đạo hiếu là nền tảng đạo đức của người dân việt và chịu ảnh hưởng trực
tiếp của phật giáo. Đạo hiếu là truyền thống quý báu của dân tộc ta, là bản chất
người Việt Nam từ xa xưa. Tập tục của người Việt Nam thể hiện tinh thần hiếu
đạo qua việc thờ cúng tổ tiên trong mọi gia đình, mà chúng ta thường gọi là đạo
ông bà. Có thể nói, báo hiếu này là điểm tựa tinh thần cững chắc và cũng là nền
tảng đạo đức của dân tộc ta và nó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những lơi răn dạy
của Thế Tôn, của Phật giáo : “Tâm hiếu là tâm Phật, Hạnh hiếu là hạnh Phật”.
2.1.2. Chính tri
Phật giáo ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của Văn hóa- Xã hội của đất
nước, Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến ngày nay, trải qua nhiều thăng trầm
trong lịch sử nhưng Phật giáo vẫn có sức ảnh hưởng tới chính trị Việt Nam, tới
các nhà nước của Việt Nam.
Dưới hai triều Đinh và Lê, các nhà vua của hai triều này đều coi trọng
Phật giáo, nhiều nhà Sư đã trở thành cố vấn cho các ông vua về đường lối đối
nội và đối ngoại. Nhà chùa đã thực sự trở thành nơi hun đúc lòng yêu nước, một
trung tâm của ý thức và niềm tin vào độc lập dân tộc, có sức ảnh hưởng rộng
khắp trong dân gian. Tuy nhiên, Các vua Đinh – Tiền Lê chưa thực sự áp dụng
việc trị nước dựa vào tư tưởng từ bi, hỷ xả của đức Phật.
Sang thời Lý, nhận thấy tư tưởng và giáo lý của đạo Phật có nhiều điểm
phù hợp với việc trị quốc trong thời bình nên các vua nhà Lý coi trọng tăng đoàn
– một phần vì mến đạo nhưng cũng một phần vì lý do chính trị. Nhờ vào học
vấn và tài lực của chư tăng Phật tử thời Lý mà Đại Việt ổn định về chính trị và
phát triển hơn các thời trước về văn hóa xã hội. Không chỉ giữ vai trò ổn định hệ
thống chính trị, Phật giáo thời Lý còn tác động không nhỏ đến tình trạng phát
triển kinh tế xã hội. Thực tế lịch sử đã chứng minh, bản thân các vua Thiền sư
thời Lý đã tự trau dồi đạo đức vô ngã, triết lý sống nhập thế trên cơ sở tinh thần
từ bi, hỷ xả, vô ngã của đạo Phật
Các vua Trần là những người có tri thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng dù
vị trí trực tiếp trong công việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo
12
lại vẫn phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính trị, kinh
tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân tộc thời bấy giờ. Phật
giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngược lại,
triều đình là một quyền lực củng cố cho Phật giáo.
Từ sau khi vua Trần Anh Tông băng hà, đạo Phật bắt đầu có chiều hướng
đi xuống, sự đi xuống này cần được giải thích từ nguồn gốc sâu xa trong những
vấn đề xã hội của Phật giáo. Có thể thấy là khi nền độc lập quốc gia đã trở nên
vững vàng, việc củng cố quyền lực thống trị của mọi triều đại là không thể tránh
khỏi.
Đến thời hậu Lê, thời Nguyễn, Nho giáo phát triển hơn, nhiều nhà Nho
phủ nhận Phật giáo, coi đó là mê tín. Hơn nữa, từ giữa thời nhà Nguyễn có sự du
nhập của văn hóa phương Tây và sự thống trị của thực dân Pháp nên Phật giáo
không còn được coi là quốc giáo, không còn tầm ảnh hưởng tới chính trị.
Tuy nhiên, Khi nước ta giành được độc lập, Đảng lên nắm quyền, thì Phật
giáo lại được khôi phục những vị thế của mình. Trong quốc hội ngày nay các
nhà sư cũng có một tiếng nói khá quan trọng trong các quyết định của Đảng. Tư
tưởng phật giáo cũng được áp dụng trong luật pháp của Việt Nam, đó là luật
khoan hồng, giảm tội cho các phạm nhân cải tạo tốt. Tư tưởng bình đẳng trong
triết học phật giáo giữa con người với con người cũng đã được thể hiện một
phần tích cực trong đường lối lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam đó là làm sao để
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Giai đọan đổi mới và
hội nhập hiện nay là một cơ hội tuyệt vời cho khái niệm “Tri hành hợp nhất” của
Phật giáo có thể nói ngay bây giờ, rất cần những ngọn lửa bùng cao, tỏa rộng và
đồng thời liên tục mở ra các cuộc hội thảo quốc tế như thế này để nhân tài
hướng về, có vậy thì vượn khí của quốc gia mới hội tụ và vận hành theo chiều
hướng phát triển. Chính vì vậy triết học phật giáo cần phải phát triển, cập nhật
để luôn trở thành người bạn đồng hành tuyệt vời của chính phủ.
2.1.3. Văn hóa
13
Có thể thấy, đạo Phật ảnh hưởng rất lớn tới văn hóa của chúng ta. Đạo
Phật du nhập vào Việt Nam kết hợp với văn hóa bản địa đã tạo nên sự riêng biệt,
khác biệt so với giáo lý đạo Phật gốc. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này qua
ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, … Qua nhiều thế hệ, các tác phẩm dân gian đều
được truyền thụ cho thế hệ sau, thế hệ trước luôn dạy thế hệ sau phải ăn ở hiền
lành, chăm chỉ làm việc, phải biết yêu thương con người, luôn luôn ghi nhớ
nguồn gốc của mình…Đây chính là sự thể hiện khác đi của tư tưởng phật giáo
về sự tư bi, hỷ xả, về quy luật nhân quả. Dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử, bị
đô hộ, bị chiến tranh, những tư tưởng biện chứng trong phật giáo vẫn phát triển
và ảnh hưởng lớn tới nước ta, là một giáo lý truyền thống mà mọi nhà, mọi
người đem ra để nghiền ngẫm, để truyền dạy cho con cháu mình: “lá lành đùm
lá rách”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.
Đó là cách cư xử đầy yêu thương nhân ái giữa người với người, nhắc nhở con
người phải luôn làm việc thiện, nghĩ điều thiện có như thế mới có thể nhận được
những điều tốt đẹp. Nếu làm điều ác, nghĩ điều ác thì không chỉ mình mà con cái
mình cũng chỉ nhận được những điều xấu, điều gở.
Bên cạnh lối sống tốt đẹp, Phật giáo còn để lại những kiến trúc đẹp mang
hồn dân tộc, in đậm dấu ấn của từng thời kỳ: Đó là những ngôi chùa, mái đình
cổ. Kiến trúc của những ngôi chùa, ngôi đình của các thời rất khác nhau, nhưng
đều thể hiện nét linh thiêng, là nơi mà dân trong làng tụ tập để bàn việc trọng đại
của làng, là trung tâm trong các lễ hội. Những nét văn hóa đi lễ chùa ngày tết,
ngày đầu tháng, tổ chức lễ hội được dân ta kế thừa, lưu giữ qua bao đời. Những
nét truyền thống đó là những nét đẹp của dân tộc ta, là thể hiện những truyền
thống lâu đời, thể hiện cái riêng biệt của Việt Nam. Người Việt Nam dù đi đâu
cũng luôn nhớ tới: “cây đa, giếng nước, mái đình”. Những hình đó đã in đậm
vào tâm hồn Việt, trở thành hình ảnh thân thiết, là máu thị, là quê hương. Người
Việt Nam có tinh thần yêu quê hương đất nước, yêu thương con người sâu sắc,
rộng lớn cùng với thái độ tôn trọng, đề cao những giá trị tốt đẹp của con người.
14
Ngày nay, khi có sự du nhập của văn hóa phương Tây, nhiều nét truyền
thống không còn giữ nguyên vẹn như xưa, nhưng chúng ta đã khẳng định văn
hóa của mình trong thời kỳ hiện đại là ‘hòa nhập chứ không hòa tan’, chúng ta
tiếp thu các nét văn hóa tiến bộ của người khác nhưng luôn giữ cho mình những
nét văn hóa rất riêng. Chúng ta mở cửa để tiếp thu những cái hay, cái văn minh,
nhưng không bao giờ từ bỏ những cái tốt đẹp trong văn hóa của mình. Đương
nhiên không thể phủ nhận một bộ phận giới trẻ có học một cách quá mức văn
hóa phương Tây, sống quá phóng khoáng mà đánh mất bản thân. Họ sa đà vào tệ
nạn xã hội, tôn sùng chủ nghĩa thụ hưởng trụy lạc, chẳng cần biết ngày mai. Đó
là con đường dẫn họ và giới trẻ đến nghiện ngập, hút chích, ma túy, hoặc nặng
hơn có thể đi đến tự sát! Nói theo lương tâm, muốn cho nước nhà sau khi hội
nhập được phát triển và bền vững, thì mọi giới trong xã hội phải ý thức được
mình đang ở đâu.
2.2. Quan hệ giữa người với thế giới xung quanh
2.2.1. Cải tạo môi trường phục vụ cho cuộc sống của mình
Đối với môi trường, đạo Phật có cái nhìn rất đặc trưng không giống như
những tôn giáo khác. Qua lăng kính duyên khởi, môi trường chính là yếu tố
quan trọng đối với sự sống chúng ta. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt
thì cái kia diệt. Con người trong từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, nhờ
hít thở không khí mà sống, nếu thiếu không khí thì vạn vật đều bị hủy diệt.
Không khí trong lành, con người sống khỏe mạnh trường thọ. Không khí ô
nhiễm, con người bị đau yếu, bệnh tật, chết yểu. Không khí, cảnh vật tạo nên
môi trường sống. Vì vậy, môi trường chung quanh rất quan trọng trong đời sống
con người.
Hiện nay, nhân loại đang phải chịu đựng những biến chuyển bất thường
tai hại do chính con người tạo ra làm hủy diệt môi trường, ô nhiễm môi sinh,
chặt phá cây cối, đốt rừng làm rẫy, khai thác cây gỗ, đất đá, nước ngầm một
cách bừa bãi mà hậu quả là lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất đe dọa đời sống
của nhân loại.
15
Người Phật tử ý thức điều này, từ xưa đến nay thích sống với thiên nhiên,
coi trọng thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên để tạo một cuộc sống tốt, hòa nhập
với thiên nhiên trong mọi sinh hoạt để nâng cao đời sống tâm linh, hướng
thượng và thánh thiện.
Ngày xưa, các vị vua chúa thỉnh thoảng tổ chức những cuộc tuần du, săn
bắn, mục đích săn thú thì ít mà dã ngoại để sống với thiên nhiên thì nhiều.
Người ta lúc về già hay lo nghĩ đến hậu sự cho mình, các vua chúa cũng tìm
trước cho mình nơi để xây lăng tẩm, mộ phần ở những nơi có núi, sông, cảnh trí
thiên nhiên thơ mộng.
Trong cuộc sống văn minh hiện nay, con người đang quan tâm, đang nỗ
lực bồi đắp trả lại những gì đã cướp mất của thiên nhiên nhưng không thấm vào
đâu so với những gì mà con người đã phá hoại. Song, có còn hơn không; nơi nào
còn và có thì cố gắng bảo tồn, nơi nào chưa hay không có cũng tìm cách tạo nên
cho có. Các công viên trong thành phố, các bồn hoa được chăm sóc chu đáo,
chính là để giảm bớt sự nặng nề, khô khan của nhà đúc, nhà xây, đường nhựa
nóng bỏng, các nhà lầu cao tầng cũng cố tạo cho được một khoảng nhỏ không
gian để trồng hoa, trồng cỏ. Trong phòng khách cũng trang trí cây cảnh, cỏ cây;
thật thì tốt, không có thì cỏ cây giả, chậu giả cũng làm cho phòng khách trang
nhã dễ thương. Các công sở, xí nghiệp, công ty cũng trang trí trước sân, trước
cổng các bồn hoa, cây cảnh để thêm vẽ trang nhã, trịnh trọng cho cơ sở mình. …
Phật dạy: “Tàn phá thiên nhiên là một tội ác”. Hơn ai hết, người Phật tử sống
hòa nhập với thiên nhiên, cảm nhận trọn vẹn sự cần thiết của thiên nhiên, phải
biết bảo vệ thiên nhiên, xem như là một bổn phận cao cả để xứng đáng làm
người.
2.2.2. Đấu tranh giải phóng dân tộc
Trong xã hội phong kiến, các hoạt động của nhà chùa đã gắn chặt với hoạt
động của nhà nước phong kiến, đem lại cho chính quyền phong kiến ánh hào
quang của sự tốt lành và nhân đạo. Nhiều nhà sư là những viên quan có uy tín
trong chính quyền nhà nước, là những nhà quân sự, những cố vấn trong cung
16
đình, những nhà ngoại giao, những nhà văn hóa. Nhà nước phong kiến sử dụng
đạo Phật trong việc thực hiện chính sách đối nội, quan hệ ngoại giao với các
nước khác.
Tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo đã tác động quan trọng vào tư
tưởng bình đẳng dân tộc trong nhân dân ta để không thể ngồi im chịu áp bức bóc
lột của dân tộc khác. Đồng thời, tư tưởng vô ngã của Phật giáo cũng đã tác động
đến tinh thần không ngại hi sinh vì độc lập tự do của đất nước. Vì thế, những
người trí thức dân tộc được sản sinh ra từ Phật giáo, mang tinh thần của Phật
giáo không thể không cứu đời. Hoạt động theo tư tưởng bình đẳng bác ái của
Phật giáo, họ sẵn sàng đứng lên lãnh đạo nhân dân trong giải phóng dân tộc.
Lí Bí sau khi khởi nghĩa đánh quân Lương dựng nước Vạn Xuân, xưng Lí
Nam Đế, đã cho dựng chùa Khai Quốc làm nơi di dưỡng văn hóa tinh thần. Đinh
Bộ Linh đập tan loạn 12 sứ quân nắm quyền cai trị đất nước đã phong nhà sư
Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại Sư, nhà sư được quyền tham gia bàn luận
triều chính.
Ngay từ khi Pháp đặt chân xâm lược Nam Bộ, nhiều ngôi chùa được lập
ra để làm cơ sở tập hợp lực lượng kháng chiến chống Pháp như: chùa Tam Bửu
lập năm 1872 ở Ba Chúc, An Giang, do nhà sư Ngô Văn Lợi khởi xướng. Chùa
Long Khánh ở Gia Định là một cơ sở hội kín, nhà sư Đoàn Văn Huyên khởi
xướng Phật giáo Bửu Sơn Kì Hương mưu việc chống Pháp.
Khi đất nước bước vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh
đạo thì những ngôi chùa trên cả nước, với tính chất là những cơ sở tôn giáo,
được ở “ngoài vòng pháp luật” nên đã trở thành những cơ sở cách mạng, nhiều
nhà sư có lòng yêu nước đã giúp đỡ che chở cho những cán bộ cách mạng. Chùa
Đồng Kị ở Tiên Du- Bắc Ninh đã là nơi diễn ra Hội nghị ban thường vụ TW
Đảng họp bàn, ra nghị quyết “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Theo số liêu thống kê của Ủy ban TW giáo hội Phật giáo Việt Nam
(1997) trong cả nước ta có 392 ngôi chùa là di tích lịch sử cách mạng, có một bà
17
mẹ Việt Nam anh hùng là nhà sư, 3 liệt sĩ là nhà sư, và nhiều nhà sư tham gia
cách mạng.
Ngày nay giáo hội Phật giáo Việt Nam là một thành viên trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Phật giáo có đại biểu trong Quốc hội. Với khẩu hiệu hành
động của người tu hành Phật giáo là “Đạo pháp, dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” đã
làm cho Phật giáo ngày nay gắn liền với đời, làm cho Phật giáo vẫn hòa được
vào việc tăng cường văn hóa chính trị xã hội ở nước ta.
2.2.3. Hội nhập kinh tế thế giới
Đạo Phật du nhập vào nước ta đến nay đã trải qua khoảng 2000 năm lịch
sử. Hiện nay, Phật giáo Việt nam đang đứng trước một trào lưu mới, đó là trào
lưu đất nước đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập và phát triển trong xu hướng
toàn cầu.
Đồng hành cùng với dân tộc, Phật giáo cũng đã hòa nhập theo những sự
chuyển biến sâu rộng ấy. Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc (tổ chức tại Việt Nam
hồi năm 2008) là một bước ngoặt quan trọng để Phật giáo Việt Nam biểu hiện rõ
nét tính hội nhập và phát triển của mình. Vừa qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
đã công bố bản Hiến chương được tu chỉnh trong Đại hội đại biểu Phật giáo toàn
quốc lần VI, nhiệm kỳ 2007-2012, khẳng định “Tính kế thừa lịch sử gần 2000
năm hoằng pháp độ sinh của Phật giáo Việt Nam mà Giáo hội Phật giáo Việt
Nam là đỉnh cao của thời đại thống nhất Phật giáo cả nước”. Đồng thời cũng
biểu hiện sự quan tâm đến một bộ phận lớn chư tôn túc Tăng ni và đồng bào
Phật tử nước ngoài.
Sau khi Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên của tổ chức WTO,
Phật giáo Việt Nam cũng chuyển mình theo chiều hướng hội nhập. Khi nền kinh
tế phát triển, thì các thể chế sinh hoạt của xã hội cũng chuyển mình theo. Đời
sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội cũng có sự thay đổi; thậm chí từ nhận
thức cho đến cách suy nghĩ và hành động cũng dần dần chuyển biến. Nếu Phật
giáo đáp ứng được nhu cầu hội nhập và phát triển thì tinh thần giáo điển của đức
18
Thế Tôn sẽ hiện diện một cách tích cực trong đời sống, trong mọi sinh hoạt của
xã hội.
Tuy nhiên, trong các hình thái hội nhập, chúng ta cần phải chọn lọc và kết
hợp như thế nào cho nhuần nhuyễn để khỏi bị xem là phủi sạch cái cũ, tôn sùng
cái mới. Qua đây, chúng ta thấy rằng thời kỳ hội nhập và phát triển của xã hội
chính là điều kiện tốt để cho Phật giáo khẳng định vai trò hội nhập và phát triển
của mình.
Đang có những đơn vị tập thể, cá nhân Tăng ni, Phật tử đã đưa ra những
hoạt động mang tính trẻ hóa. Đồng thời thành lập những diễn đàn điện tử,
chuyển tải tiếng nói của Phật giáo đến khắp mọi nơi. Tuy đã tạo được sự quan
tâm, chú ý của nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần đáng kể vào việc truyền
trì và hoằng dương chánh pháp. Song những vấn đề ấy chỉ thuộc phạm vi cá
nhân, chỉ theo xu hướng cảm hứng và tự phát, mà chưa có sự lãnh đạo, chỉ đạo
xuyên suốt. Cho nên, Giáo hội cần quan tâm đặc biệt và hợp thành một khối
thống nhất, có sự hoạt động đồng bộ và hợp thức hóa theo đúng định hướng hoạt
động của Giáo hội.
Đất nước Việt Nam có phát triển thế nào cũng không đi ngược lại với
truyền thống văn hóa dân tộc. Và Phật giáo Việt Nam có hội nhập ra sao cũng
không ngoài tinh thần giáo điển giác ngộ, giải thoát của đức thế Tôn. Tinh thần
nhập thế của Phật giáo qua bao thời đại đã luôn đi cùng dân tộc, được ví như
nước hòa với sữa. Dẫu có lúc thăng trầm, mỗi nơi mỗi khác, nhưng tính gắn bó
keo sơn của Phật giáo với dân tộc đã rút ra cho chúng ta một bài học quý báu vô
cùng. Đất nước đang chuyển mình trong sự hội nhập và phát triển trên mọi lãnh
vực của xã hội, chúng ta có quyền hy vọng một ngày nào đó, Phật giáo và dân
tộc sẽ tìm ra một giải pháp, cùng nhau đưa Phật giáo, đất nước ngày càng sống
động, huy hoàng và thịnh vượng hơn.
KẾT LUẬN
19
Qua đề tài nghiên cứu này, cái trước hết mà chúng ta có được là thực sự
hiểu trong hàng loạt các vấn đề mà triết học phật giáo đề cập đến thì một trong
cái tiến bộ nhất và cái sáng nhất là tư duy biện chứng. Tiếp đến là việc cung cấp
cho những người không thực sự hiểu sâu sắc về triết học phật giáo biết là tư duy
biện chứng thực sự là cái gì? Trong thực tế nó biểu hiện như thế nào, và quan
trọng hơn nó đã góp phần hình thành nên tư duy và nhân cách của con người
Việt Nam xuyên suốt một quãng thời gian dài từ xa xưa cho đến nay ra sao.
Mặc dù còn tồn tại những khiếm khuyết và hạn chế, song chúng ta không
thể phủ nhận những giá trị mà phật giáo nói chung cũng như triết học phật giáo
nói riêng đã mang lại. Nó đã tạo nên cách sống, cách tư duy rất riêng, rất đẹp
của người Việt Nam, cho người Việt Nam một sự thực tế, tự tin, sự can đảm
nhưng cũng rất phong phú về nội tâm, tình cảm. Tư duy biện chứng trong phật
giáo đã góp phần tạo nên sự đoàn kết vững trãi của cả dân tộc Việt Nam, mà ở
đó mỗi con người luôn suy ngẫm những hành động của mình tránh tổn hại người
khác và biết cống hiến cho xã hội. Bước sang thế kỉ 21, khi đất nước chuyển
sang một giai đoạn mới, phải đối mặt với các thách thức mới, thì đòi hỏi mỗi cá
nhân phải hoàn thiện cả về thể xác và tinh thần, phải chinh phục cả thế giới
khách quan và chủ quan. Vì thế chúng ta phải khai thác triệt để hơn sự đóng góp
tích cực mà tư tưởng biện chứng trong triết học phật giáo đem lại, để xây dựng
đạo đức nhân văn hơn, sự tự giác cao hơn, ý thức trách nhiệm tốt hơn. Trong bối
cảnh hội nhập và phát triển người ta có thể phải đối mặt với rất nhiều vấn đề mà
phải kể đến như tư duy lệch lạc sai lầm của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa chiến
tranh thù hận,…, nên hơn ai hết người Việt Nam phải tỉnh táo và mạnh mẽ hơn.
Như vậy trong cả quá khứ và hiện đại, trong từng khía cạnh nhỏ đến các
vấn đề lớn triết học phật giáo luôn gắn liền với cuộc sống của con người Việt
Nam. Chúng ta đã đang và sẽ không bao giờ phủ nhận những nhân tố tích cực
mà triết học phật giáo đã đem đến Việt Nam mà biểu hiện cụ thể của nó là qua
mảng tư tưởng biện chứng. Cuộc sống càng hiện đại, càng phát triển, con người
càng tiến bộ nhưng cũng phải đối mặt với các bước lùi trong cách nghĩ và nhân
20
cách đạo đức. Vì thế luôn phải nâng cao ý thức giữ gìn để phát triển, phát triển
phải dựa trên những cái nền tảng, phải đổi mới và hoàn thiện dần những lớp
móng tư duy đã có, đừng phủ nhận sạch trơn mọi thứ.
Việc khai thác hợp lý các hạt nhân tích cực của triết học phật giáo nhằm
xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ là một mục tiêu
chiến lược đòi hỏi sự giáo dục kết hợp của xã hội- gia đình-nhà trường và cá
nhân, một sự kết hợp tự giác giữa truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng
vào một thế hệ trẻ có sức khỏe, tri thức, và đạo đức để trinh phục mọi thứ, để kế
thừa cái nhân bản của truyền thống và triết học phật giáo để xây dựng và phát
triển đất nước.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô và các bạn đã có những đóng góp và
giúp đỡ bọn em trong lúc làm đề tài nghiên cứu này. Trong quá trình nghiên cứu
và viết bài, chúng em còn nhiều điều thiếu sót mong cô và các bạn thông cảm.
Chúng em đã cố gắng gửi đến cô bản viết hoàn chỉnh nhất, mong cô đọc và tiếp
tục góp ý với chúng em. Bài viết của chúng em có lẽ chưa đủ để phản ánh đến
từng chi tiết của vấn đề nhưng chúng em hứa sẽ tìm hiểu sâu hơn vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
21