Ôn thi lý thuyết và kỹ năng lập pháp
Câu 1. Trình bày đặc điểm của văn bản pháp luật ( Phân tích) cho ví dụ?
Câu 2. Phân tích các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng văn bản pháp luật?
Câu 3. Phân tích tính hợp pháp của văn bản pháp luật?
Câu 4. Phân tích nguyên tắc để xây dựng văn bản pháp luật?
Câu 5. Trình bày đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. (Phân tích). Cho ví dụ?
Câu 6. Trình bày và phân tích vai trò của văn bản quy phạm pháp luật?
Câu 7. Nêu khái niệm và đặc điểm của văn bản áp dụng pháp luật. Cho ví dụ? (chỉ cần kể tên
văn bản ADPL)
Câu 8. Phân tích vai trò của văn bản áp dụng pháp luật?
Câu 9. Trình bày và phân tích nội dung của phân tích chính sách? ( Khái niệm, đặc điểm, kỹ
năng, quy trình, phương pháp giải quyết các vấn đề, kể thêm một số lưu ý)
Câu 10. Trình bày quy trình lập pháp , theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
của Việt Nam?
Phần 1. Lý thuyết
Câu 1. Trình bày đặc điểm của văn bản pháp luật ( Phân tích) cho ví dụ?
Khái niệm. Văn bản pháp luật là những văn bản do những chủ thể có thẩm quyền ban hành theo
trình tự thủ tục và hình thức pháp luật quy định , có nội dung là ý chí của nhà nước , luôn mang
tính bắt buộc và đảm bảo thực hiện bằng nhà nước.
Đặc điểm.
1,Văn bản pháp luật được xác lập bằng ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ viết được thể hiện trên nhiều chất liệu khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là giấy viết.Thể
hiện bằng ngôn ngữ viết sẽ giúp chủ thể ban hành văn bản pháp luật trình, bày đầy đủ,mạch lạc
toàn bộ ý trí của mình về các vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước,giúp đối tượng thi hành
biết được và hiểu được để thực hiện.Cách thức thực hiện này tiện lợi cho việc chuyển tải tiếp
cận khai thác,lưu trữ thông tin để phục vụ cho hoạt động quản lý.
1. Do những chủ thể có thẩm quyền ban hành ( được hiểu là những cơ quan hoặc là
những cá nhân được cơ quan nhà nước trao quyền ban hành VBPL). Cụ thể
Chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành.Các cơ quan
nhà nước,cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:quốc hội,ủy
ban thường vụ quốc hội,chủ tịch nước,chính phủ,thủ tướng chính phủ,bộ trưởng,thủ trưởng cơ
1
quan ngang bộ,hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao,chánh án tòa án nhân dân tối
cao,viện kiểm sát nhân dân tối cao,hội đồng nhân dân,ủy ban nhân dân tổ chức chính trị-xã hội
khi tổ chức chính trị xã hội đó tham gia vào quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.Chỉ
những chủ thể do pháp luật quy định mới có quyền ban hành văn bản pháp luật.Nếu văn bản
được ban hành bởi một cá nhân hay tổ chức mà pháp luật không quy định về thẩm quyền ban
hành thì văn bản đó không có hiệu lực pháp luật. Ví dụ:
•
Cơ quan nhà nước
Cơ quan lập
pháp
Cơ quan
hành pháp
Cơ quan tư
pháp
•
Trung ương
-Quốc hội: Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết
-UBTVQH: Pháp lệnh, Nghị quyết
-Chính phủ: Nghị định, Nghị quyết
-Bộ, cơ quan ngang bộ: Thông tư,
quyết định, chỉ thị
Toà án nhân dân( tối cao, tỉnh,
huyện): bản án, quyết định.
Địa phương
HĐND các cấp: nghị quyết (2008)
UBND các cấp: Quyết định, chỉ thị
VKSNH( tối cao, tỉnh, huyện): quyết
định, cáo trạng, kiến nghị, yêu cầu.
Cá nhân được nhà nước trao quyền
+ Người đứng đầu cơ quan nhà nước
- Chủ tịch nước: Lệnh, quyết định.
- TTCP: quyết định, chỉ thị.
- Chánh án toà án nhân dân tối cao: thông tư
- Viện trưởng VKSNDTC: thông tư
- Chủ tịch UBND các cấp: quyết định, chỉ thị
+ Đội ngũ cán bộ công chức thi hành pháp luật
Công an
Bộ đội biên phòng
Nhân viên thuế
Nhân viên hải quan….
2. Được ban hành theo trình tự , thủ tục ban hành VBPL
-
Thủ tục ban hành đối với mỗi loại văn bản được pháp luật quy định một cách cụ thể.Thủ tục ban
hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau như:luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,luật khiếu nại tố cáo,pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính… Trong mỗi thủ tục đó có thể có những nét riêng biệt nhưng nhìn chung bao
gồm những hoạt động mang tính chuyên môn,nghiệp vụ có vai trò trợ giúp cho người soạn thảo
đồng thời tạo cơ chế trong việc phối hợp kiểm tra giám sát của những cơ quan có thẩm quyền
đối với hoạt động ban hành văn bản pháp luật nhằm hạn chế những khiếm khuyết trong hoạt
động của nhà nước. Ví dụ theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008,việc ban
hành luật bởi quốc hội (nguồn đạo luật,bộ luật,nghị quyết…có chứa đựng các quy phạm pháp
2
2
luật phải tuân theo trình tự thủ tuch sau:lập và thông qua chương trình xây dựng luật,soạn thảo
dự thảo luật,thẩm tra dự thảo luật,lấy ý kiến nội dung về dự thảo luật,lấy ý kiến của quốc hội và
đoàn đại biểu quốc hội về dự thảo luật tại quốc hội công bố luật đã được thông qua bằng lệnh
của chủ tịch nước.
3. Nội dung của văn bản là ý chí của nhà nước
• Ý chí của nhà nước được hiểu là quyết tâm thực hiện những điều mà nhà nước mong
•
muốn có lợi cho xã hội
Ý chí của nhà nước được thể hiện qua 2 dạng tồn tại:
o Quy phạm pháp luật:quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, để cho phép, cấm
đoán, bắt buộc người dân thực hiện 1 hành vi.
o Mệnh lệnh áp dụng pháp luật: luôn mang tính bắt buộc và bảo đảm thực hiện
•
bằng nhà nước
Ý chí đó được xác lập theo cơ sở pháp luật hiện hành và nhận thức chủ quan của cán
bộ,công chức nhà nước về những yếu tố khách quan của đời sống xã hội,phù hợp với
mục tiêu của từng văn bản.
4. Văn bản pháp luật mang tính bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước
VBPL có tính chất bắt buộc thực hiện đối với mọi cá nhân tổ chức, do VBPL đó quy định
Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau:Giáo dục tuyên truyền , phổ biến pháp luật
cưỡng chế; phạt tiền, truy cứu trách nhiệm hình sự.Nếu các cá nhân tổ,chức có liên quan
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nội dung của văn bản pháp luật thì phải chịu
trách nhiệm pháp lý trước nhà nước. Qua những phân tích ở trên có thể hiểu văn bản pháp
luật thể hiện ý chí của chủ thể có thẩm quyền,thể hiện dưới dạng ngôn ngữ đọc,ban hành
theo hình thức thủ tục do pháp luật quy định nhằm đạt được mục tiêu quản lý đặt ra.
Văn bản pháp luật bao gồm 3 nhóm:văn bản quy phạm pháp luật,văn bản áp dụng pháp luật
và văn bản hành chính. Ngoài những đặc điểm chung thì các văn bản này còn có những đặc
thù riêng: Văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật được áp dụng
nhiều lần trong thực tiễn là cơ sở để ban hành ra các văn bản áp dụng pháp luật và văn bản
hành chính. Văn bản áp dụng pháp luật có chứa đựng những mệnh lệnh cá biệt,áp dụng một
lần trong các trường hợp cụ thể. Văn bản hành chính có chứa đựng các quy tắc chung mang
tính pháp lý hoặc những mệnh lệnh cá biệt được ban hành để tổ chức thực hiện các văn bản
pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật.
5. Ban hành theo hình thức pháp luật quy định
Hình thức văn bản pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là tên gọi và thể thức của văn
bản.Pháp luật hiện nay quy định rất nhiều loại văn bản pháp luật có tên gọi khác nhau như:hiến
pháp,luật,pháp lệnh,nghị quyết,nghị định,…những quy định đó có ý nghĩa quan trọng trong việc
3
3
phân biệt các văn bản pháp luật luật khác nhau trong cùng hệ thống,phân biệt văn bản pháp luật
với văn bản khác của nhà nước,xác định thứ bậc hiệu lực của từng văn bản tạo điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện ban hành,thực hiện hoặc xử lý văn bản khiếm khuyết.Bên cạnh đó pháp
luật còn quy định về thể thức văn bản pháp luật,có tác dụng tạo sự liên kết chặt chẽ giữa hình
thức và nội dung của văn bản,đảm bảo sự thống nhất.
•
•
•
•
•
•
•
•
Quốc hiệu
Tên cơ quan, nhà nước ban hành
Số, ký hiệu
Địa danh, thời gian ban hành
Tên văn bản
Chủ đề, lĩnh vực giải quyết
Chữ ký, con dấu
Nơi nhận
Như vậy văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu có tác động trưc tiếp và sâu sắc tới hiệu
lực,hiệu quả quản lý nhà nước.Việc hiểu chính xác và cụ thể về khái niệm và đặc điểm của văn
bản pháp luật có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Câu 2. Phân tích các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng văn bản pháp luật?
1. Tiêu chuẩn về chính trị
• Nội dung VBPL phải thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách của đảng
Thứ nhất, văn bản QLNN phải thể hiện trọn vẹn và ghi nhận đầy đủ ý chí, quyền lợi
của nhân dân; gần với những giá trị cao quý, những chuẩn mực xã hội mà đa số các thành
viên thừa nhận. Xác định tiêu chí này nhằm bảo đảm việc ban hành các văn bản QLNN đúng
định hướng chính trị, giữ vững bản chất dân chủ nhân dân và đánh giá đúng mức sự tác động
của tâm lý pháp luật vào quá trình xây dựng pháp luật. Đó cũng là một trong những điều
kiện đưa pháp luật phát triển đúng hướng, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh
của pháp luật, nâng cao chất lượng, uy tín của pháp luật và tăngcường hiệu lực thi hành của
pháp luật trong thực tế.
2. Tiêu chuẩn về pháp lý
• Ban hành đúng thẩm quyền ( ko gian, thời gian, phạm vi lãnh thổ, chủ thể)
• Nội dung của văn bản phải hợp pháp
Thứ ba, hệ thống văn bản QLNN phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất.
Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp của văn bản QLNN là một trong những tiêu chí quan
trọng trong đánh giá thực trạng của hệ thống văn bản QLNN này. Hiến pháp là đạo luật cơ bản,
có hiệu lực pháp lý cao nhất, do đó mọi văn bản luật cũng như văn bản dưới luật đều phải tôn
trọng tính tối cao của Hiến pháp. Cùng với tính hợp hiến, các văn bản QLNN phải bảo đảm tuân
thủ “thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật”. Yêu cầu này tồn tại song
song với yêu cầu “văn bản QLNN do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn
4
4
bản QLNN của cơ quan nhà nước cấp trên”. Việc không xác định rõ thứ bậc hiệu lực pháp lý
của văn bản đã và tiếp tục gây ra những khó khăn cho cơ quan kiểm tra, giám sát trong quá trình
thực hiện thẩm quyền.
•
Hình thức do pháp luật quy định:
Thứ năm, văn bản QLNN phải được soạn thảo thông qua kỹ thuật lập quy và đạt yêu cầu
về hình thức. Hình thức thể hiện của văn bản QLNN chỉ được thừa nhận là tốt khi thông qua các
kỹ thuật lập quy và chuyển tải được các nội dung cần pháp luật hoá thành những cấu trúc, phạm
trù pháp lý, bảo đảm không thoát ly ra khỏi bản chất, thuộc tính của pháp luật – tính giai cấp,
tính quy phạm phổ biến, tính chuẩn mực về hình thức biểu đạt, tính bảo đảm thực hiện bằng
quyền lực nhà nước… Cho nên, khi đánh giá thực trạng ban hành văn bản QLNN qua tiêu chí
trên cần xem xét các yêu cầu cụ thể như: cách thức thể hiện nội dung của dự thảo văn bản
QLNN đã tuân thủ các quy luật của chính quá trình làm luật hay chưa? Có bảo đảm sự tương
quan giữa nội dung và hình thức của pháp luật hay không? Các nội dung ở các điều khoản của
văn bản QLNN có bảo đảm về tính thống nhất, phối hợp giữa các thành tố của quy phạm pháp
luật, giữa các quy phạm pháp luật, giữa các chế định luật trong cùng ngành luật và giữa các
ngành luật trong cấu trúc tổng thể là hệ thống pháp luật hay không?..
• Nội dung của văn bản tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
3. Tiêu chuẩn về khoa học
• Nội dung của VBPL phải phù hợp với thực trạng quy luật của xã hội:
Thứ hai, nội dung văn bản QLNN phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện
phát triển của địa phương.
Pháp luật là một phạm trù chủ quan, phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản ánh đó
xuất phát từ đòi hỏi của đời sống hiện thực, không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ. Pháp luật có phản ánh đúng hiện thực khách quan thì mới điều chỉnh
được các quan hệ xã hội, cũng như mới được xã hội chấp nhận. Nói xây dựng văn bản QLNN
phải khách quan không có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền bê nguyên, sao chụp lại các sự
kiện hoạt động mang tính tổ chức, kỹ thuật nghiệp vụ để mô tả chúng dưới dạng các quy tắc xử
sự của hành vi.
Tính khách quan trong xây dựng văn bản QLNN đòi hỏi người có thẩm quyền, cán bộ soạn thảo
văn bản QLNN phải bám sát đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; Hiến pháp, luật, các
văn bản QLNN của cấp trên;tình hình thực tiễn xã hội; nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của
QLNN; thái độ, tâm lý của cộng đồng dân cư đối với vấn đề, nội dung của văn bản QLNN sắp
ban hành... Tính khách quan trong xây dựng văn bản QLNN cũng đòi hỏi phải loại trừ tình trạng
đề cao lợi ích của địa phương mình, coi thường lợi ích chung, lợi ích của toàn xã hội và lợi ích
của các địa phươngkhác.
•
•
Nội dung văn bản phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán của xã hội
Bố cụ văn bản phải logic, khoa học, ngôn ngữ đúng quy định pháp luật
5
5
•
•
•
•
•
•
Tính chính xác
Tính dễ hiểu
Tính khách quan
Tính văn minh, lịch sự
Tính khuôn mẫu
Ngoài ra ngôn ngữ cần có tính phổ thông
Thứ tư, hệ thống văn bản pháp luật phải toàn diện, đồng bộ, khả thi, công khai, minh
bạch, bảo đảm phát huy vai trò và hiệu lực. Về tính toàn diện, Nhà nước là tổ chức công quyền
duy nhất, nhân danh quyền lực của nhân dân thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng pháp luật
trên tất cả các mặt đời sống xã hội. Thực hiện chức năng này đòi hỏi hệ thống văn bản QLNN
phải đầy đủ, toàn diện . Về tính đồng bộ, hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật
thể hiện dưới hình thức các văn bản QLNN bao gồm nhiều bộ phận liên quan chặt chẽ với nhau.
Cho nên, khi đánh giá thực trạng ban hành văn bản QLNN phải xem bộ phận đã hình thành
trong hệ thống pháp luật có mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo với nhau không. Một hệ thống
văn bản QLNN không đồng bộ khó có thể phát huy hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Tính đồng bộ của hệ thống văn bản QLNN đòi hỏi văn bản QLNN được ban hành phải đảm
bảo trọn vẹn, hạn chế và loại trừ khả năng xảy ra tình trạng chia cắt trong áp dụng pháp luật.
Muốn vậy, cần tuân thủ nguyên tắc: văn bản QLNN phải được quy định cụ thể để khi các văn
bản đó có hiệu lực thì được thi hành ngay; văn bản hướng dẫn phải được soạn thảo cùng lúc với
văn bản QLNN được hướng dẫn; bảo đảm tính chắc chắn, tính ổn định, tính trong sáng, rõ ràng
của pháp luật… Về tính khả thi, chương trình xây dựng, ban hành văn bản QLNN và dự thảo
văn bản QLNN phải dựa trên các căn cứ khách quan, khoa học, dự kiến được các nguồn lực, cân
nhắc cách thức triển khai thực hiện và kèm theo phương án đề xuất về kinh phí và tính toán các
nguồn lực khác cần thiết cho việc triển khai thực hiện. Các quy định trong các văn bản QLNN
cần cụ thể, không dừng lại ở chương, mục mang tính chung chung… Văn bản QLNN chỉ có thể
nhận được sự hưởng ứng, đồng tìnhvà bảo đảm khả thi khi tính minh bạch, công khai của nó
được coi trọng đúng mức.
.
Thứ sáu, quy trình xây dựng, ban hành văn bản QLNN phải hoàn thiện. Văn bản QLNN
chỉ có chất lượng cao khi thông qua quy trình xây dựng, ban hành hợp lý, khoa học, hiệu quả,
đảm bảo các giai đoạn được thực hiện một cách độc lập và được xác định theo một trật tự chặt
chẽ, nghiêm ngặt, ghi nhận đầy đủ ý chí của nhândân, thu hút trí tuệ của các nhà khoa học, kinh
nghiệm và đóng góp của các đối tượng liên quan .
Câu 3. Phân tích tính hợp pháp của văn bản pháp luật?
Tính hợp pháp là “đúng với pháp luật, không trái với pháp luật” thuật ngữ này được sử
dụng cùng với thuật ngữ “tính hợp hiến”. Theo nghĩa như vậy, để bảo đảm tính hợp pháp, văn
6
6
bản pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục Luật định. Bên cạnh
đó, hình thức của văn bản phải phù hợp với quy định về kỹ thuật văn bản.
Tính hợp pháp của văn bản pháp luật là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
văn bản pháp luật được ban hành, quyết định sự tồn tại và hiệu lực pháp lý của văn bản quy
phạm pháp luật. Tuy nhiên tuỳ vào từng góc độ pháp lý khác nhau mà biểu hiện của tính hợp
pháp có thể khác nhau.
Thứ nhất: Văn bản quy phạm pháp luật ban hành đúng thẩm quyền pháp luật quy định
Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật được hiểu là giới hạn quyền lực do pháp luật
quy định cho chủ thể ban hành văn bản pháp luật để giải quyết những vấn đề thuộc chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật bao gồm thẩm quyền hình thức
và thẩm quyền nội dung.
Ban hành văn bản pháp luật đúng thẩm quyền hình thức: Thẩm quyền hình được hiểu là
các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng tên gọi do pháp luật quy
định. Theo quy định này, mỗi cá nhân, cơ quan trong thẩm quyền của mình chỉ được ban hành
một hoặc một số hình thức văn bản quy phạm pháp luật do luật quy định. Đây chính là quy định
nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo
duy trì tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật về mặt hình thức.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng thẩm quyền về nội dung: Thẩm quyền nội
dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy
định. Về thực chất, đó là “giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định
đã đặt ra đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất định”.
Thứ hai: Văn bản pháp luật ban hành phải đảm bảo hợp pháp về nội dung
Hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Để đảm bảo tính thống nhất thì văn bản pháp luật phải được ban hành theo trật tự pháp
lý từ trên xuống dưới, văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới phải đáp ứng nhu cầu thực tế và
phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên.
Hơn nữa, văn bản được xác định là cơ sở pháp lý phải là văn bản đang có hiệu lực pháp
lý tại thời điểm ban hành văn bản. Hiện nay, thẩm quyền của các chủ thể trong hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Muốn xác lập
một cách chính xác cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, trước hết cần xác định nội
dung công việc đó thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Để làm được điều
này, chủ thể ban hành văn bản phải hiểu được các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp
luật nói riêng.
7
7
Mặt khác để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung của văn bản quy phạm pháp luật ngoài
yêu cầu phải đúng về căn cứ pháp lý văn bản quy phạm pháp luật còn phải có nội dung phù hợp
với quy định của pháp luật.
Về phương diện khác, tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật còn được đánh giá
theo nguyên tắc “văn bản của địa phương ban hành phải phù hợp và thống nhất với văn bản do
trung ương ban hành”. Nguyên tắc này phản ánh sự phân chia quyền lực trong hệ thống cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương, đồng thời tạo ra sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Ngoài những biểu hiện nêu trên về sự phù hợp với các quy định của pháp luật, tính hợp
pháp còn được phản ánh ở việc các chủ thể ban hành văn bản pháp luật đảm bảo sự hài hoà
thống nhất về nội dung giữa các văn bản có cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý. Đây cũng là một đòi
hỏi đảm bảo cho văn bản ban hành hợp pháp khi hình thức văn bản do cùng một chủ thể ban
hành nhưng nội dung chứa đựng các vấn đề điều chỉnh khác nhau. Đảm bảo được yêu cầu này
cũng có nghĩa tránh được những trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong nội dung của các
văn bản quy phạm pháp luật cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý.
Một điểm quan trọng nữa để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung cho văn bản quy phạm
pháp luật là phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Theo đó,
các chủ thể khi ban hành văn bản pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật nói riêng
phải tìm hiểu, nghiên cứu các điều ước quốc tế cho phù hợp. Như vậy, các quy định về “hiệu lực
pháp lí” đòi hỏi mỗi văn bản quy phạm pháp luật, khi được ban hành phải căn cứ vào các văn
bản khác của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền và có thể coi đây là cơ sở xác định giá
trị pháp lý của văn bản.
Thứ ba: VBQPPL phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật là nhóm văn bản có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Do vậy, yêu cầu đảm bảo sự chặt chẽ, thống nhất trong hoạt động xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết. Theo quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật gồm: Lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; soạn thảo; thẩm định; lấy ý
kiến đóng góp; thẩm tra; xem xét, thông qua; công bố văn bản quy phạm pháp luật.
Việc tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục trong hoạt động xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền theo luật định vừa là điều kiện để
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, một nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền, vừa góp phần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được
soạn thảo.
8
8
Thứ tư: văn bản quy phạm pháp luật ban hành tuân theo những quy định của pháp
luật về thể thức, kỹ thuật trình bày.
Trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những quy định về thể thức và
kỹ thuật trình bày đóng vai trò khá quan trọng. Thể thức là tập hợp các thành phần cấu thành văn
bản, bao gồm những thành phần chung áp dụng đối với mỗi loại văn bản và các thành phần bổ
sung trong các trường hợp cụ thể. Hiện nay, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm
pháp luật được quy định trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP, ngày
06/05/2005 của Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thể thức và kĩ thuật trình bày văn
bản; Quyết định số 20/2002/QĐ-KHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và Công nghệ ban
hành Tiêu chuẩn Việt Nam số 5700 năm 2002 quy định kết cấu hình thức của văn bản trong đó
có văn bản quy phạm pháp luật; Nghị quyết số 1139/2007/UBTVQH 11, ngày 03/07/2007 của
Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành quy chế về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội và UBTVQH. Theo đó, những quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày
văn bản là tất cả những quy định liên quan đến: quốc hiệu, tên cơ quan ban hành văn bản, số, ký
hiệu văn bản, tên loại văn bản, trích yếu nội dung…
Để văn bản quy phạm pháp luật ban hành đảm bảo tính hợp pháp, chủ thể có thẩm quyền khi
ban hành văn bản cần chú ý cách thức trình bày theo quy định của pháp luật. Đồng thời, văn bản
còn phải được trình bày theo bố cục, kết cấu phù hợp với hình thức và nội dung văn bản cần ban
hành.
Câu 4. Phân tích nguyên tắc để xây dựng văn bản pháp luật?
Nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát
những sự việc khách quan liên quan tới quá trình "nâng" ý chí nhà nước lên thành pháp luật.
Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ
thể tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ các qui phạm pháp luật phải nghiêm
chỉnh tuân theo. Theo Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam năm
2008 thì nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ gồm có:
“1. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong
hệ thống pháp luật.
2. Tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật.
3. Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ
trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh
bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
9
9
4. Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.
5. Không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên”.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, các nguyên tắc xây dựng pháp luật không chỉ có như Luật đã
quy định mà để hoạt động xây dựng pháp luật bảo đảm được thể chế hóa đúng chủ trương,
đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp pháp, hợp với thực tiễn… thì hoạt động xây dựng
pháp luật phải tuân theo các nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nguyên tắc này xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và
xã hội. Đường lối chính sách của Đảng luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng
xây dựng pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết, là bảo đảm cao nhất cho sự ra đời tồn tại và phát
triển của Nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều có sự lãnh đạo của Đảng trong đó có hoạt
động xây dựng pháp luật đó là yêu cầu có tính khách quan và trở thành nhân tố quyết định hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc tối cao đối với hoạt động của hệ thống chính trị, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động chính trị, kinh tế và quốc phòng. Đảng phải xác định những
phương hướng chủ yếu, kế hoạch và nội dung chính của hoạt động xây dựng pháp luật bảo đảm
tính đảng và tính khoa học đối với hoạt động này. Những nghị quyết, văn kiện của Đảng là cơ sở
vững chắc cho hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước..
2. Nguyên tắc khách quan
Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội,
phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực
tế cuộc sống. Nhà làm luật không tự làm ra luật, họ chỉ ghi nhận những quy luật phát triển của
xã hội bằng những ký tự được gọi là quy phạm pháp luật. Bất luận trong khía cạnh nào, pháp
luật cũng là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận
thức tồn tại xã hội rồi đưa ra các quy tắc xử sự chung (pháp luật). Do vậy, quá trình xây dựng
pháp luật phải phản ánh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng
pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của các quy định pháp luật phải phù
hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời
sống xã hội.
Bảo đảm tính khách quan là đặc trưng cơ bản trong mọi hoạt động của Nhà nước, nhằm đảm
bảo sự cân đối hợp lý không mâu thuẫn của sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Vì
10
10
vậy, hoạt động xây dựng pháp luật phải dựa trên nguyên tắc khách quan mới bảo đảm sự kịp
thời và phù hợp với yêu cầu vận động và phát triển của xã hội.
3. Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc này xuất phát từ nhu cầu tham gia rộng lớn của nhân dân và đảm bảo cho đông đảo
các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể
hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Mặt khác nó cho phép
phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng
pháp luật, đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của nhân dân.
Nếu quần chúng, nhân dân càng tham gia rộng rãi và tích cực vào công việc xây dựng pháp luật
thì các quy định pháp luật càng đảm bảo đầy đủ và toàn diện hơn lợi ích, ý nguyện của họ. Sự
tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật sẽ là điều kiện để đảm bảo sự thực hiện
pháp luật nghiêm minh và có hiệu quả sau này
4. Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật được thể hiện ở hai nội dung cơ bản:
Một là, tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành pháp luật. Để
đảm bảo các quy định pháp luật khi đã được ban hành có giá trị pháp lý, thì chúng phải được
ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục về nội dung cũng như hình thức. Điều này có
nghĩa là các cơ quan nhà nước chỉ được ban hành những văn bản pháp luật phù hợp với thẩm
quyền của mình, theo một trình tự thủ tục luật định, với những hình thức qui định trong Hiến
pháp và luật.
Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật
trong hệ thống pháp luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các quy định pháp luật phải thống nhất
với nhau không mâu thuẫn chồng chéo, bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý và phải tôn trọng tính tối
cao của hiến pháp và luật (các văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp).
Đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật sẽ tránh được tình trạng ban hành văn
bản vượt quá thẩm quyền, tránh được tình trạng “Pháp luật từng địa phương”, “Pháp luật riêng
của từng vùng, ngành” tránh được sự chồng chéo, sai phạm ở nội dung và hình thức các loại văn
bản pháp luật.
5. Nguyên tắc khoa học
Nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi đối với nội dung của các quy định pháp luật mà còn đòi
hỏi đối với cả hình thức thể hiện của chúng. Về nội dung các quy định pháp luật phải được xây
dựng trên cơ sở những thành tựu khoa học mới nhất, về hình thức bố cục, cấu trúc, cách thức
11
11
trình bày các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật... phải mang tính khoa học. Xây dựng pháp
luật trên cơ sở khoa học chính là điều kiện để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thực tế của các văn
bản, quy phạm pháp luật.
6. Nguyên tắc bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội
Pháp luật phụ thuộc ý chí của nhà nước, xuất phát từ lợi ích nhà nước, giai cấp, dân tộc, nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền ban hành pháp luật. Tuy nhiên, để giữ cho xã hội ổn
định, pháp luật được mọi người tôn trọng và thực hiện thì Nhà nước phải luôn chú ý bảo đảm sự
hài hoà về mặt lợi ích của các lực lượng khác nhau trong quá trình ban hành pháp luật.
Việc bảo đảm hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với việc
thực hiện pháp luật, bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích cơ bản giữa các lực lượng xã hội,
làm cho xã hội ổn định, đoàn kết và phát triển bền vững.
7. Nguyên tắc bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng pháp luật
Việc công khai quá trình xây dựng pháp luật là cần thiết trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp
luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước. Cần quán triệt tinh thần là xây dựng pháp luật không
chỉ là công việc của nhà nước mà còn là công việc của toàn xã hội, nên cần phải để dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Không chỉ bảo đảm sự công khai còn phải bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng
pháp luật. Tất cả các công đoạn, quy trình của quá trình xây dựng pháp luật, các nguyên tắc xây
dựng pháp luật đều cần phải được quy định rõ ràng, rành mạch.
8. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật
Khi xây dựng pháp luật luôn phải chú ý để làm sao các quy định pháp luật phải có khả năng
thực hiện được trên thực tế. Sự phù hợp với các điều kiện thực tế (về vật chất, kỹ thuật, tổ
chức...) bảo đảm cho quy định pháp luật có thể thi hành được trên thực tế. Nếu quy định pháp
luật không phù hợp với thực tế thì nó sẽ khó được thi hành trong thực tế hoặc được thi hành
nhưng kém hiệu quả.
Câu 5. Trình bày đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. (Phân tích). Cho
ví dụ?
Khái niệm: VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, theo thủ tục
trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung , được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần
trong thực tế đời sống.
Đặc điểm:
12
12
Thứ nhất, VBQPPL do cơ quan NN có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành
Một văn bản để được coi là VBQPPL trước hết văn bản đó phải được ban hành bởi những cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền .Tại Điều 2 Luật BHVBQPPL năm 2008 đã quy định cụ thể
những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành VBQPPL, bao gồm: Quốc hội, UBTVQH,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân các
cấp, Uỷ ban nhân dân các cấp, Tổng kiểm toán Nhà nước; có sự phối hợp giữa Uỷ ban thường
vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội để ban
hành VBQPPL liên tịch. Bên cạnh đó, một số cá nhân cũng có thẩm quyền ban hành VBQPPL
là: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, không phải mọi cơ quan Nhà
nước đều có thẩm quyền ban hành VBQPPL mà chỉ những chủ thể do pháp luật quy định mới có
thẩm quyền. Những văn bản được ban hành bởi chủ thể không có thẩm quyền theo quy định trên
thì đương nhiên không phải là VBQPPL.
Thứ hai, VBQPPL được ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức luật định.
VBQPPL là một trong những hình thức pháp luật được cơ quan Nhà nước sử dụng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý Nhà nước nên yêu cầu đảm bảo sự chặt
chẽ, thống nhất trong hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL là rất cần thiết. Luật Ban hành
VBQPPL năm 2008 và Luật ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
năm 2004 đã quy định rất cụ thể, chặt chẽ trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL.Theo đó,
VBQPPL do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành đều phải thực hiện các bước sau: Từ
lập chương trình, soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản, thẩm tra, thẩm định văn
bản, cho đến thông qua, ký, công bố văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, quy trình này có
thể được thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần bổ sung
ngay cho phù hợp với VBQPPL mới được ban hành.
Như vậy, có thể thấy một văn bản được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền, có nội dung
hợp pháp nhưng trong quá trình xây dựng nếu không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về
trình tự, thủ tục thì văn bản đó cũng không được coi là VBQPPL và trước sau cũng sẽ bị huỷ bỏ
hoặc bãi bỏ.
Ví dụ: HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết mà bỏ qua thủ tục thẩm tra dự thảo nghị
quyết do các Ban của HĐND thực hiện trước khi trình HĐND thì sẽ bị coi là vi phạm về thủ tục
ban hành. Bên cạnh việc phải tuân thủ trình tự, thủ tục, VBQPPL còn phải được ban hành đúng
hình thức do pháp luật qui định. Tại Điều 2 Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 đã quy định rất
rõ ràng các chủ thể có thẩm quyền ban hành VBQPPL với những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn:
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền ban hành VPQPPL với tên gọi là thông tư;
Tổng kiểm toán Nhà nước có quyền ban hành quyết định… Nếu các chủ thể này ban hành công
13
13
văn, công điện… có chứa đựng QPPL thì văn bản đó cũng không phải là VBQPPL vì không
đúng hình thức do pháp luật quy định.
Thứ ba, VBQPPL có nội dung là các quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc
chung, được áp dụng nhiều lần, đối với nhiều đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn
quốc hoặc từng địa phương.
Qui phạm pháp luật là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiên, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, nhằm tác động điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện, còn các quy tắc xử sự chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực mà các cơ quan, tổ chức, cá
nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được các quy tắc đó điều chỉnh. Trong quan
hệ đó các QPPL là nội dung còn VBQPPL là hình thức. Từ đó có thể khẳng định VBQPPL luôn
chức đựng các QPPL. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của VBQPPL. Là quy tắc xử sự do
Nhà nước ban hành ra, thể hiện ý chí của Nhà nước nên các QPPL luôn mang tính bắt buộc
chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế bằng nhiều biện pháp khác nhau như:
Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và đặc biệt là biện pháp cưỡng chế. Tuỳ từng đặc điểm của
VBQPPL và mức độ tác động của văn bản đó đến các đối tượng khác nhau trong xã hội mà Nhà
nước sẽ có những biện pháp phù hợp để triển khai đưa VBQPPL vào đời sống; Tính bắt buộc
chung của các QPPL được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm trong điều kiện hoàn cảnh
mà QPPL quy định. QPPL đặt ra không phải cho những chủ thể cụ thể mà cho các chủ thể
không xác định. Đây là một điểm giúp chúng ta phân biệt với văn bản áp dụng pháp luật. Văn
bản áp dụng pháp luật bao giờ cũng chứa đựng những mệnh lệnh cụ thể đối với cá nhân, tổ chức
được xác định. Chính vì vậy mà văn bản áp dụng pháp luật chỉ có hiệu lực duy nhất một lần, còn
VBQPPL được áp dụng nhiều lần trên thực tế. Tuỳ thuộc vào thẩm quyền của chủ thể ban hành
cũng như nội dung của mỗi văn bản mà VBQPPL có hiệu lực trong phạm vi cả nước hoặc từng
địa phương. Thông thường VBQPPL do cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có hiệu lực
pháp lý trên phạm vi cả nước, còn VBQPPL do cơ quan Nhà nước ở địa phương ban hành thì chỉ
có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ địa phương đó.Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có trường hợp
VBQPPL do cơ quan, Nhà nước ở trung ương ban hành nhưng có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ
địa phương xuất phát từ tính đặc thù của địa phương đã quyết định nội dung văn bản.
Thứ tư, được Nhà nước bảo đảm thực hiện
Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong hoạt động quản lý điều hành, được tuân thủ và bảo đảm thực hiện bởi sự cưỡng chế
nhà nước. Nhà nước có thể dùng lực lượng công quyền để bảo đảm cho việc áp dụng quy phạm
pháp luật bằng việc áp dụng các chế tài. Các chế tài có thể rất đa dạng: chế tài hình sự như hình
phạt tù hoặc phạt tiền, chế tài dân sự như huỷ bỏ hợp đồng dân sự, bồi thường thiệt hại dân sự
ngoài hợp đồng… Như vậy, bất luận là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nào có thẩm
14
14
quyền ban hành hay bất luận là hình thức văn bản nào (luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định,
quyết định… do cơ quan nhà nước trung ương hay các cấp chính quyền địa phương ban hành)
thì chúng đều phải được tuân thủ và thực hiện.
Như vậy: không phải tất cả các văn bản pháp luật đều là văn bản quy phạm pháp luật, mà
chỉ những văn bản pháp luật nào có đặc điểm nêu trên thì mới là VBQPPL
Những VBPL sau đây luôn là VBQPPL : hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư.
Các VBPL khác có thể là VBQPPL hoặc không là VBQPPL
Câu 6. Trình bày và phân tích vai trò của văn bản quy phạm pháp luật?
1. Hiến pháp
-
Quy định một số nội dung cơ bản
• Chế độ chính trị: quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân
• Chế độ kinh tế: văn hoá, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ
• Hệ thống tổ chức: nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
- Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, khẳng định những thành tựu quan trọng của quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, khẳng định định hướng quan trọng trong thời
-
gian tới.
Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, là cơ sở hình thành một hệ thống luật hoàn chỉnh
đồng bộ.
- Mọi văn bản phải phù hợp với quy định của hiến pháp
2. Luật
Luật dùng để thể chế hoá hiến pháp, đặt ra những quy định, đièu chỉnh những quan hệ quan
trọng và ổn định phát sinh trong quản lý nhà nước.
3. Pháp lệnh
Được ban hành để cụ thể hoá hiến pháp/ luật:
•
Nếu pháp luật cụ thể hoá hiến pháp thì pháp lệnh có vai trò như luật, sau 1 thời gian thực
hiện hoàn thiện để nâng lên thành luật.
• Nếu pháp lệnh cụ thể hoá luật thì có vai trò như nghị định
4. Nghị quyết
Dùng để đặt ra các quy định về đường lối chính sách pháp luật, các biện pháp quản lý trong mọi
lĩnh vực đời sống, các quy định thực hiện trong hoạt động nội bộ cơ quan nhà nước , để giải
quyết hướng dẫn VBQPPL khác
5. Nghị định
Ban hành để cụ thể hoá quy định của hiến pháp, luật, nghị quyết và pháp lệnh.
6. Lệnh
Được chủ tịch nước ban hành để tuyên bố tình trạng khẩn cấp , tổng động viên cục bộ, giải
quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Chủ Tịch Nước
7. Quyết định
15
15
Được dùng để đặt ra các quy định về quản lý nhà nước, trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền
quản lý của chủ thể ban hành các quy định thực hiện trong nội bộ cơ quan nhà nước.
8. Chỉ thị
Được UBND các cấp ban hành để quy định biện pháp chỉ đạo phối hợp hoạt động đôn đốc kiểm
tra hoạt động của cơ quan , đơn vị trực thuộc và của HĐND , UBND cấp dưới trong việc thực
hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của HĐND cùng cấp và quyết định của mình.
9. Thông tư
Dùng để hướng dẫn thực hiện VBQPPL của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, các quy định của
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án TANDTC , Viện trưởng VKSNDTC.
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật có thể điều tiết những vấn đề thực tiễn. Xã hội
ngày càng phát triển đa dạng, đa chiều với những mối quan hệ phức tạp, nhiều vấn đề liên quan
trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra cho Nhà nước những vấn đề
thực tiễn cần phải giải quyết trong quá trình quản lý, điều hành.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chính
sách. Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các chính sách. Pháp luật được ban hành có thể đưa
ra các biện pháp gián tiếp, thông qua việc tạo ra hành lang pháp lý mà trong phạm vi đó, từng cá
nhân đóng vai trò là động lực. Luật pháp có thể đem lại công bằng xã hội, giảm đói nghèo, tạo
ra động lực cho xã hội phát triển. Tuy nhiên, cần lưu ý là phát triển thôi chưa đủ mà còn cần
phải phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho các cơ quan ban hành văn bản
của địa phương phải có các biện pháp quản lý bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Điều đó có
nghĩa là sẽ không chỉ khai thác cạn kiệt các nguồn lực mà không tính các hệ quả tiếp theo và
môi trường sau này. Phát triển bền vững đòi hỏi khi đưa ra các biện pháp quản lý, nhà quản lý
phải tính đến việc bảo vệ môi trường. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, địa phương
đưa ra các biện pháp để quản lý tốt các trường học, bệnh viện, xây dựng và quản lý tốt hệ thống
nước sạch, đường giao thông… Bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chính quyền địa phương
đưa ra các biện pháp thu hút đầu tư, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, các cơ
chế thực thi hiệu quả.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật có thể tạo ra/phân bổ/phát huy các nguồn lực
nhằm phát triển kinh tế. Pháp luật có thể tạo điều kiện để tăng việc làm và tăng thu nhập. Pháp
luật tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tiếp cận với các công nghệ thông tin và thị trường, với các
kỹ năng về tín dụng và quản lý, qua đó giúp họ tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Trong
trường hợp pháp luật thiếu hiệu quả dẫn đến việc đất nước hay từng vùng địa phương nghèo đói
và kém phát triển, người ta gọi đó là “thể chế có vấn đề”. Đặc điểm ở các vùng nông thôn là
người dân có mức vốn thấp, hoạt động dựa vào các công nghệ có chi phí thấp và có sẵn ở địa
phương (sản xuất có thể gọi là manh mún, tiểu thủ công, phần nhiều là lao động tay chân), sử
16
16
dụng các công cụ làm bằng tay nhiều hơn là sử dụng máy móc hay thiết bị hiện đại (do thiếu
vốn hoặc điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế); hơn nữa, nông thôn còn có nhiều người thất
nghiệp. Các nhà soạn thảo cần phải chú ý đưa ra các biện pháp pháp lý để mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hóa, thị trường lao động… đồng thời phát huy được các nguồn lực.
Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật góp phần làm ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội
quản lý tốt và phát triển. Cần phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Trong khi các quy phạm mang tính xã hội, dù được xã hội thừa nhận, nhưng vẫn không được
bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thì trái lại, quy phạm pháp luật luôn luôn
được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Thứ năm, văn bản quy phạm pháp luật làm thay đổi các hành vi xử sự không mong
muốn và thiết lập các hành vi xử sự phù hợp. Muốn tạo điều kiện cho phát triển, chúng ta cần
phải sử dụng pháp luật để làm thay đổi hành vi xử sự của phần lớn nhân dân, đặc biệt là của các
cán bộ nhà nước. Các cán bộ nhà nước là những người đầu tiên có trách nhiệm bảo đảm một xã
hội công bằng, văn minh, dân chủ và thay mặt cho những người mà họ đại diện, đó là nhân dân.
Các cán bộ địa phương một mặt thực hiện các nhiệm vụ mà pháp luật quy định nhưng mặt khác,
đây cũng là sự phó thác của nhân dân đối với đại diện trực tiếp (Hội đồng nhân dân) hay gián
tiếp (Uỷ ban nhân dân) của mình trong bộ máy chính quyền. Nếu như những người đại diện cho
dân chúng không bảo đảm cho những người mà họ đại diện có cuộc sống ấm no, an bình nghĩa
là họ thực hiện trách nhiệm chưa đầy đủ. Để tránh việc văn bản pháp luật trao cho các cán bộ
thực thi pháp luật quyền tự định đoạt quá lớn, bên cạnh các cơ quan dân cử, vẫn cần phải có sự
tham gia trực tiếp của người dân vào quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước. Để tránh
sự lộng quyền của cán bộ thực thi pháp luật, chỉ có sự quy định chặt chẽ của văn bản pháp luật
mới bảo đảm trách nhiệm của những cơ quan thực thi pháp luật, cán bộ thực thi pháp luật, từ đó
bảo đảm lợi ích của người dân. ''Thiếu sự quản lý bằng pháp luật, cơ chế trách nhiệm, tính minh
bạch và sự tham gia của người dân, các quyết định sẽ trở nên tùy tiện, cán bộ chính quyền sẽ sử
dụng quyền lực nhà nước không phải vì lợi ích của đa số nhân dân mà là cho riêng họ''.
Quy định của pháp luật sẽ định hướng cho hành vi xử sự của các cá nhân có liên quan,
dù đó là người dân cũng như cơ quan thực thi pháp luật. Ví dụ: Để bảo đảm an toàn giao thông
trên đường bộ, Điều 42 Luật giao thông đường bộ năm 2001 quy định về trách nhiệm của đơn vị
thi công công trình trên đường bộ đang khai thác: “Trong quá trình thi công, đơn vị thi công
phải bố trí báo hiệu, rào chắn tạm thời và thực hiện các biện pháp bảo đảm giao thông an toàn,
thông suốt”.
Tóm lại, văn bản quy phạm pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng: không chỉ quy định
các giá trị mà người quản lý coi đó là giá trị cơ bản của xã hội, không chỉ đưa ra các biện pháp
17
17
khuyến khích thực thi pháp luật, đem lại ổn định trật tự xã hội mà còn bảo đảm cho xã hội phát
triển. Chính trong ý nghĩa này mà người soạn thảo và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của các cấp chính quyền địa phương cần chú ý đến vai trò quan trọng của văn bản quy phạm
pháp luật trong quản lý và phát triển. Ngày nay, người ta không nhấn mạnh đến yếu tố “cai trị”
của nhà nước mà nhấn mạnh đến trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, trách nhiệm duy
trì và bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho từng người dân, bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho họ
trong một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Từ trách nhiệm chung của nhà nước, của quốc
gia, mỗi cấp chính quyền địa phương có thể thấy được trọng trách của mình. Công cụ để các cấp
chính quyền địa phương thực hiện quản lý và bảo đảm phát triển chính là pháp luật.
Câu 7. Nêu khái niệm và đặc điểm của văn bản áp dụng pháp luật. Cho ví
dụ? (chỉ cần kể tên văn bản ADPL)
Khái niệm: VBAPPL là hình thức thể hiện các quy định pháp luật do các cơ quan nhà nước có
thầm quyền ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức quy định, căn cứ vào các VBQPPL để
giải quyết những vụ việc cụ thể.
Đặc điểm:
•
Thứ nhất, văn bản áp dụng pháp luật do những cơ quan nhà nước, cá nhân hoặc tổ chức xã
hội được nhà nước ủy quyền áp dụng pháp luật ban hành và bảo đảm thực hiện trong trường
hợp cần thiết bằng cưỡng chế nhà nước. Chỉ những chủ thể do pháp luật quy định mới có
thẩm quyền ban hành văn bản ADPL. Nếu văn bản ADPL được ban hành bởi cá nhân hay tổ
chức mà pháp luật không quy định về thẩm quyền ban hành thì văn bản ADPL đó không có
hiệu lực pháp luật.
•
Thứ hai, văn bản áp dụng pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định. Thủ tục xây dựng văn bản ADPL bao gồm một số hoạt động chuyên môn như: soạn
thảo văn bản ADPL, trình,thông qua văn bản ADPL, ban hành văn bản ADPL. Điều này
xuất phát từ mục đích ban hành văn bản ADPL là giải quyết công việc cụ thể do vậy mỗi
hoạt động chuyên môn trên không đòi hỏi nhiều chủ thể tham gia, được tiến hành trong
khoảng thời gian ngắn.
•
Thứ ba, văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những hình thức pháp lí nhất định
như : bản án, quyết định, lệnh,…Hình thức của văn bản pháp luật bao gồm tên gọi và thể
thức của văn bản pháp luật. Đối với văn bản ADPL thì tên gọi do pháp luật quy định, tùy
thuộc vào tính chất công việc mà văn bản ADPL có tên gọi khác nhau, đồng thời thông qua
tên gọi của văn bản ADPL ta có thể nhận biết được cơ quan nào có thẩm quyền ban hành
văn bản ADPL đó.
18
18
•
Thứ tư, văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt, được áp dụng một lần đối với tổ
chức, cá nhân. Khác với văn bản quy phạm pháp luật có nội dung chứa đựng các quy phạm
pháp luật (các quy tắc xử sự chung) và được áp dụng nhiều lần trên thực tiễn thì nội dung
của văn bản ADPL lại chứa đựng các mệnh lệnh cụ thể, được áp dụng một lần đối với tổ
chức, cá nhân. Nội dung của văn bản áp dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá nhân nào, tổ chức
nào phải thực hiện hành vi gì.
•
Thứ năm, văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tế, phải phù hợp
với luật và dựa trên những quy định của pháp luật cụ thể. Bất cứ văn bản pháp luật nào
được ban hành cũng đều phải đảm bảo tính hợp pháp và phù hợp với thực tế. Nội dung của
văn bản ADPL được thể hiện ở việc các mệnh lệnh đưa ra phải phù hợp với các quy phạm
pháp luật về nội dung và mục đích điều chỉnh, nếu không có sự phù hợp trên thì văn bản
ADPL có thể bị đình chỉ hoặc hủy bỏ. Văn bản ADPL được ban hành không những phải
hợp pháp mà còn phải phù hợp với thực tế, nếu không phù hợp với thực tế thì nó khó có thể
được thi hành hoặc thi hành mà không mang lại kết quả cao.
•
VBAPPL là 1 yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp, thiếu nó nhiều quy định không thể thực
hiện.
Câu 8. Phân tích vai trò của văn bản áp dụng pháp luật?
Nghị quyết được quốc hội, UBTVQH,HĐND ban hành để bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
các chức vụ nhà nước, phê chuẩn đề nghị của cấp dưới về việc thành lập cơ quan trực thuộc
hoặc về bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức các chức vụ nhà nước.
Nghị định được chính phủ ban hành để thành lập, giải thể, phân chia, sáp nhập cơ quan
đợn vị thuộc thẩm quyền của chính phủ, thành lập, nhập chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính cấp huyện xã.
Quyết định được dùng để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ nàh nước,
Chỉ thị được Thủ thướng chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp, bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ…ban hành để giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan
đơn vị trực thuộc.
Lệnh được các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sử dụng để tạm giữ, tạm giam, bắt, truy
nã, khám người, khám nhà trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Bản án được toà án nhân dân các cấp sơ thẩm và phúc thẩm ban hành để đưa ra phán
quyết về các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế…
Yêu cầu đượ thanh tra, cơ quan điều tra, VKS, TA, cơ quan thi hành án dân sự ban hành
trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan đó.
19
19
Kiến nghị là văn bản áp dụng do thanh tra, cơ quan điều tra, VKS, TA, cơ quan thi hành
án dân sự ban hành để đề xuất với cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật…
Kháng nghị là loại văn bản áp dụng pháp luật được sử dụng trong các hoạt động tố tụng,
để chủ thể ban hành yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án quyết định của toà án
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Câu 9. Trình bày và phân tích nội dung của phân tích chính sách? ( Khái
niệm, đặc điểm, kỹ năng, quy trình, phương pháp giải quyết các vấn đề, kể
thêm một số lưu ý)
Khái niệm: Phân tích chính sách là công đoạn bắt buộc đầu tiên khi đề suất chính sách, là nền
tảng dự thảo các đề án luật.
Kỹ năng phân tích chính sách
•
•
•
Nhận biết vấn đề kinh tế xã hội
Xác đinh chủ thể có hành vi liên quan tới vấn đề
Phân tích hành vi của chủ thể có hành vi liên quan tới vấn đề ( xác định nguyên nhân tạo
•
•
•
nên vấn đề)
Xác định giải pháp chính sách xử lý vấn đề
Lựa chọn thứ tự ưu tiên về các giải pháp chính sách xử lý vấn đề.
Chuyển hoá giải pháp chính sách thành quy định pháp luật ( luật hoá chính sách)
Phương pháp giải quyết vấn đề trong hoạt động lập pháp. tiêu chí ROCCIPI
o
o
o
o
o
o
o
R: rule ( quy tắc)
O: opportunities ( cơ hội)
C : capacities (năng lực)
C : commucation ( truyền thông )
I: Interests ( lợi ích)
P: processes ( quy trình)
I: ileology ( quan niệm )
Quy trình phân tích chính sách
•
•
Vấn đề của cuộc sống
Phân tích vấn đề ( biểu hiện của vấn đề, chủ thể có hành vi liên quan, nguyên nhân của
•
vấn đề)
Giải quyết vấn đề( pháp lý, thể chế, truyền thông, huy động nguồn lực xã hội, truyền
thống)
Những lưu ý
•
•
Phân biệt vấn đề với hiện tượng
Hiện tượng kinh tế xã hội chỉ trở thành vấn đề của chính sách khi tạo lo ngại về lợi ích,
•
tuyệt vọng của cổ đông, đòi hỏi giải pháp.
Lưu ý
o Đòi hỏi của cộng động chưa hẳn của toàn dân
20
20
o
o
Đòi hỏi của số đông chưa chắc đã đúng
Nhu cầu phải có chính sách, không thể hiện trực tiếp mà ẩn dấu sau hiện tượng.
Phần 2. Thực hành
1. Điều chuyển công tác
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------***--------QUYẾT ĐỊNH
Về việc thuyên chuyên công tác
[Thủ trưởng cơ quan (đơn vị)......................................]
Căn cứ luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2003; Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của HDNH,UBND năm 2004;
Căn cứ luật cán bộ công chức năm 2008, Luật viên chức năm 2010; và các văn bản hướng dẫn
thi hành;
Căn cứ các văn bản pháp luật của nhà nước về quản lý công tác tổ chức bộ máy và trên cơ sở
tình hình thưucj tiễn của địa phương.
Xét đề nghị của ………(giám đốc sở nội vụ)
- Căn cứ vào quyết định số.................................. /KH, ngày..........tháng........ năm........... về việc
thành lập cơ quan đơn vị....................................................................................;
- Xét đơn xin chuyển công tác của Ông (Bà).............................................................................;
-
Căn
cứ
vào
công
văn
tiếp
nhận
số
..................................../KH,
ngày............tháng..........năm..............của cơ quan (đơn vị);
- Theo đề nghị của ông Trưởng phòng tổ chức cán bộ.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Nay chấp thuận cho Ông (Bà) .....................................................................đang công tác
tại cơ quan (đơn vị) được chuyển công tác đến cơ quan (đơn vị)................................................ kể
từ ngày........tháng.........năm..........
Điều 2. Lương và các khoản phụ cấp của Ông (Bà) ...................................................................do
cơ quan (đơn vị) mới đài thọ theo giấy thôi trả lương của cơ quan (đơn vị) cũ.
Điều 3. Ông chánh văn phòng (Trưởng phòng hành chánh,quản trị). Trưởng phòng tổ chức cán
bộ, Trưởng phòng kế toán – tài vụ và Ông (Bà) ..............................................................có trách
nhiệm thi hành quyết định này.
THỦ TRƯỞNG
(TM UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH)
21
21
CHỦ TỊCH
Nơi nhận:
- Như Điều 3
- Hồ sơ đương sự
- Lưu VP
22
22
2. Tuyển dụng cán bộ
UBND THÀNH PHỐ HÀ NỘI
SỞ Y TẾ
Số:
/QĐ- SYT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2014
QUYẾT ĐỊNH
Về việc tuyển dụng thí sinh trúng tuyển vào làm việc
GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ HÀ NỘI
Căn cứ Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về việc tuyển dụng,
sử dụng và quản lý viên chức và Thông tư số 15/2012/TT- BNV ngày 25 tháng 12 năm 2012 của Bộ Nội vụ
Hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên
chức;
Căn cứ Quyết định số 103/2009/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2009 của UBND thành phố Hà Nội
ban hành quy định về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, tiền lương, tiền công, cán bộ, công chức, viên chức và lao
động hợp đồng trong các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố Hà Nội và Quyết định số 11/2012/QĐ-UBND ngày 22
tháng 5 năm 2012 của UBND thành phố Hà Nội sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh một số điều của Quyết định số
103/2009/QĐ-UBND;
Căn cứ Quyết định số ......../QĐ-SYT ngày ...... tháng ..... năm 2013 của Sở Y tế Hà Nội về việc
công nhận kết quả tuyển dụng viên chức năm ………;
Xét đề nghị của Trưởng phòng Tổ chức cán bộ Sở Y tế và Giám đốc Bệnh viện/Trung tâm
………. tại Công văn số …./……. ngày …. tháng …. năm …… về việc tuyển dụng viên chức,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Tuyển dụng ông/bà ……………, sinh ngày: …./…/…….
- Trình độ chuyên môn: ………….Tiến sĩ/Thạc sĩ/Đại học/Cao đẳng/Trung cấp - Ngành: ……. ,
Trường/Viện/Học Viện …………..;
- Vào viên chức, làm việc tại Bệnh viện/Trung tâm ………….., kể từ ngày …../…../……..;
Điều 2. Ông/bà ….......... phải thực hiện chế độ tập sự 12 (hoặc 09, 06) tháng của chức danh nghề
nghiệp….., mã số chức danh … . …, được hưởng 85% của bậc 1/9 (hoặc 1/10, 1/12), hệ số lương (85% x
2,34), (85% x 2,10), (85% x 1,86) từ ngày ./...../…... - Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán
bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Điều 3. Giao Giám đốc Bệnh viện/Trung tâm …………………. ký Hợp đồng làm việc với
ông/bà ………. theo quy định của pháp luật.
23
23
Điều 4. Các ông (bà): Chánh văn phòng, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ Sở Y tế, Giám đốc Bệnh
viện/Trung tâm ……….. và bà ……………….. chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Lưu; VT, TCCB.
GIÁM ĐỐC
Nguyễn Khắc Hiền
UBND THÀNH PHỐ HÀ NỘI
SỞ NỘI VỤ
Số:
/QĐ- SNV
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2012
QUYẾT ĐỊNH
Về việc tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch viên chức
GIÁM ĐỐC SỞ NỘI VỤ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Căn cứ Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà Nước; Thông tư 04/2007/TT-BNV ngày
21/6/2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003
và Nghị định 121/2006/NĐ-CP ngày 23/10/2006 của Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số 103/2009/QĐ-UBND ngày 24/9/2009 của UBND thành phố Hà Nội về
việc ban hành Quy định về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, tiền lương, tiền công, cán bộ, công chức,
viên chức và lao động hợp đồng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố Hà Nội;
Theo đề nghị tại Công văn 792/SYT-TCCB ngày 08/4/2011 của Sở Y tế về việc tuyển dụng và
bổ nhiệm viên chức,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Tuyển dụng bà: Phạm Thị Kim Oanh, sinh ngày 28/8/1976
- Trình độ chuyên môn: Điều dưỡng trung học;
- Hiện đang làm hợp đồng tại Bệnh viện 09 và có thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội liên
tục từ 01/01/2006;
- Vào viên chức Nhà nước làm việc tại Bệnh viện 09 thuộc Sở Y tế, kể từ ngày ký quyết định.
Điều 2. Bổ nhiệm bà Phạm Thị Kim Oanh vào ngạch viên chức: Điều dưỡng trung cấp; mã
ngạch: 16b.121; bậc: 3; hệ số lương: 2,26 (Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); Thời gian tính nâng bậc lương lần sau được tính kể từ ngày
01/04/2012.
Điều 3. Giao giám đốc Bệnh viện 09 căn cứ vào Quyết định này có trách nhiệm ký hợp đồng làm
việc với bà Phạm Thị Kim Oanh theo quy định hiện hành của Nhà nước và Thành phố.
Điều 4. Giám đốc Sở Y tế Hà Nội, Giám đốc Bệnh viện 09 và bà Phạm Thị Kim Oanh
chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
24
24
Nơi nhận:
- Như điều 4;
- Lưu VT.
KT. GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Nguyễn Ngọc Việt
25
25