Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH tài chính và kiểm toán việt nam thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.88 KB, 108 trang )

Học viện Tài chính

Luậni văn tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế
của đơn vị thực tập

Tác giả luận văn
( ký và ghi rõ họ tên)
Ma Thị Màu

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luậniivăn tốt nghiệp
MỤC LỤC

1.1.2.1. Xử lý đơn đặt mua hàng hoá hay dịch vụ......................................................4

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính



Luậniiivăn tốt nghiệp

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
KTV
GLV
BCTC
TSCĐ
HTK
KSNB
BCĐKT
GTGT
KH
TK

SV: Ma Thị Màu

DIỄN GIẢI
Kiểm toán viên
Giấy làm việc
Báo cáo tài chính
Tài sản cố định
Hàng tồn kho
Kiểm soát nội bộ
Bảng cân đối kế toán
Giá trị gia tăng
Khách hàng
Tài khoản


Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luậnivvăn tốt nghiệp

SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU

Sơ đồ 1.1. quy trình hạch toán kế toán đối với chu trình mua
hàng – thanh toán
Sơ đồ 1.2. quy trình tổ chức chứng từ đối với chu trình
Mua hàng – than htoán
Sơ đồ 1.3: trình tự giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy quản lý hành chính tại Công ty
ACVIETNAM
Sơ đồ 2.2: Quy trình kiểm toán chung của công ty ACVIETNAM

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận1văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập

của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã và đang thu được những thành tựu
quan trọng được cả thế giới thừa nhận. Một trong những thành tựu ấy là lành mạnh
và minh bạch theo các quy định của Pháp luật và các chuẩn mực kế toán. Đóng góp
vào thành tựu ấy là vai trò của các doanh nghiệp kiểm toán. Đặc biệt trong thời buổi
hội nhập hiện nay, kiểm toán được coi như một công cụ kiểm tra, giám sát các hoạt
động tài chính, kế toán, thuế của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định tính
trung thực, hợp lý báo cáo tài chính của các doanh nghiệp góp phần công khai,
minh bạch môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính thì chu kỳ mua hàng và thanh toán là một
chu kỳ quan trọng, là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất và có ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Hơn nữa, chu kỳ mua hàng và thanh
toán là chu kỳ có mật độ phát sinh các nghiệp vụ nhiều với số lượng và giá trị lớn,
liên quan đến nhiều đơn vị trong và ngoài doanh nghiệp, rủi ro phát sinh các sai
phạm trong chu kỳ này cao và từ đó phản ánh sai lệch thông tin tài chính của doanh
nghiệp, theo đó ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính.
Nhận thức được tầm quan trọng của chu kỳ mua hàng và thanh toán, cùng với
lý do cấp thiết của việc nâng cao hiệu quả công việc kiểm toán, trong quá trình thực
tập tại công ty em đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu
kỳ mua hàng và thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Tài
Chính và Kiểm Toán Việt Nam thực hiện”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện quy
trình và phương pháp kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán dựa trên những
hiểu biết về lý luận được học ở trường và dựa trên việc nghiên cứu thực trạng kiểm
toán chu kỳ này do công ty TNHH Tài Chính và Kiểm Toán Việt Nam thực hiện.
Em mong kết quả nghiên cứu đề tài mình chọn sẽ giúp quy trình kiểm toán chu kỳ
mua hàng và thanh toán cũng như các chu kỳ khác hoàn thiện hơn, nâng cao hơn
nữa chất lượng kiểm toán của công ty. Đồng thời, qua việc nghiên cứu em sẽ hiểu
biết sâu sắc hơn về lý luận cũng như thực tiễn quy trình kiểm toán chu kỳ mua hàng
và thanh toán nói riêng cũng như kiểm toán báo cáo tài chính nói chung.

3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận2văn tốt nghiệp

Phạm vi của các dịch vụ kế toán, kiểm toán ngày càng mở rộng, nhưng kiểm
toán báo cáo tài chính vẫn là một loại hình dịch vụ chính và là loại hình dịch vụ có
thế mạnh của các công ty kiểm toán Việt Nam.
Đề tài chỉ nghiên cứu quy trình kiểm toán do kiểm toán viên độc lập thực hiện.
Đề tài không nghiên cứu kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước nhưng kết quả
nghiên cứu có thể vận dụng trong kiểm toán báo cáo tài chính do chủ thể kiểm toán
nội bộ và kiểm toán Nhà nước thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài em đã sử dụng các phương pháp tổng
hợp, phân tích tài liệu, suy luận biện chứng, logic, toán học, phỏng vấn kiểm toán.
5. Nội dung kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài của em bao gồm ba chương:
Chương 1. Những lý luận chung về quy trình kiểm toán chu kỳ mua hàng
và thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2. Thực trạng quy trình kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán
trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Tài Chính và kiểm toán Việt
Nam thực hiện
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán chu
kỳ mua hàng và thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH

Tài Chính và kiểm toán Việt Nam
Mục đích của luận văn là nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Cùng
với những kiến thức của bản thân và thực tế tiếp xúc để đề xuất một số nhận xét và
kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm
toán chu kỳ mua hàng và thanh toán. Tuy nhiên do những hạn chế chủ quan nên nội
dung luận văn còn những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp của các thầy cô để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo hướng dẫn TS.
Phạm Tiến Hưng , ban lãnh đạo công ty TNHH Tài Chính và kiểm toán Việt Nam
cùng các anh chị kiểm toán viên của công ty đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Ma Thị Màu

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận3văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
KIỂM TOÁN CHU KỲ MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. CHU KỲ MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN VỚI VẤN ĐỀ KIỂM TOÁN
1.1.1. khái niệm và ý nghĩa của chu kỳ:

Trong bất kỳ doanh nghiệp nào đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, để tồn tại và duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nối tiếp liên tục và lặp đi, lặp lại tạo
thành những chu kỳ kinh doanh. Quá trình kinh doanh bao gồm các chu kỳ diễn
ra liên tục trong đó chu trình mua hàng thanh toán nằm ở giai đoạn thứ hai của
quá trình, là phần quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào quan trọng
phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm (đối với doanh nghiệp sản xuất), và cho
quá trình tích trữ hàng trước khi đưa hàng hóa vào lưu thông (đối với doanh
nghiệp thương mại). Việc thực hiện tốt quá trình này sẽ đảm bảo cho doanh
nghiệp hạ thấp các chi phí đầu vào với chất lượng ổn định.
Theo chế độ kế toán Việt Nam hiện hành, quá trình này được bắt đầu bằng
việc lập một đơn đặt hàng gửi cho nhà cung cấp và kết thúc bằng việc thanh toán
hàng hoá dịch vụ nhận được.Đây là một phần quan trọng trong dây chuyền hoạt
động kinh doanh của của các công ty. Nó cung cấp yếu tố đầu vào quan trọng
đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả thu được. Việc thực hiện hiệu quả
quá trình này sẽ giúp công ty vừa tiết kiệm được chi phí đầu vào đồng thời sử
dụng được các sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao.
Dưới góc độ kiểm toán, chu kỳ mua hàng – thanh toán liên quan đến một
số chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán bên tài sản, nguồn vốn có ảnh hưởng tới khả
năng quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng như cho thấy khả năng hoạt
động của doanh nghiệp trong tương lai.
Việc kiểm toán đối với chu kỳ mua hàng-thanh toán có liên quan đến
nhiều đối tượng bên ngoài cũng như kết luận về chu kỳ này có thể ảnh hưởng tới
quyền và nghĩa vụ của công ty do đó để có được những kết luận chính xác nhất,

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02



Học viện Tài chính

Luận4văn tốt nghiệp

không thể không xem xét những đặc điểm cơ bản của chu kỳ và các ảnh hưởng
của nó tới phương pháp kiểm toán.
1.1.2. chức năng của chu kỳ trong hệ thống thông tin
1.1.2.1. Xử lý đơn đặt mua hàng hoá hay dịch vụ
Khi công ty có nhu cầu về bất cứ loại hàng hoá, nguyên vật liệu hoặc loại
hình dịch vụ nào, công ty lập các đơn đặt mua hàng hoặc các yêu cầu về cung
cấp dịch vụ. Giai đoạn này đòi hỏi một sự phê chuẩn đúng đắn đối với các
nghiệp vụ mua hàng vì nó đảm bảo hàng hoá và dịch vụ được mua đúng chủng
loại và chất lượng theo các mục đích đã được phê chuẩn của công ty tránh gây
thừa đọng, lãng phí, không hiệu quả hoặc thiếu hụt ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh. Hiện nay, hầu hết các công ty thường cho duy trì một sự phê chuẩn chung
cho việc mua sản phẩm đầu vào phục vụ cho nhu cầu cung ứng nguyên vật liệu
sử dụng cho sản xuất hay nhằm đảm bảo định mức hàng tồn kho. Sau khi việc
mua đã được phê chuẩn thì phải có đơn để đặt mua hàng hoá hoặc dịch vụ. Một
đơn đặt hàng được gửi cho người bán ghi rõ mặt hàng cụ thể ở một mức giá nhất
định, được giao vào một ngày qui định với các đặc tính sản phẩm cụ thể. Đơn đặt
hàng được coi như một chứng từ hợp pháp và được xem như một đề nghị chính
thức của bên mua hàng đối với bên bán hàng. Trong một số trường hợp khác,
nếu người mua và người bán mới giao dịch lần đầu hoặc thực hiện các giao dịch
phức tạp, giá trị hợp đồng lớn thì đòi hỏi cả hai bên phải ký hợp đồng cung ứng
hàng hoá hay dịch vụ nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng.
1.1.2.2. Nhận hàng hoá hay dịch vụ
Đây là một thời điểm quan trọng trong chu kỳ vì nó đánh dấu việc chuyển
giao quyền sở hữu hàng hoá gắn liền với các rủi ro đi kèm cũng như đó là thời
điểm mà tại đó bên mua thừa nhận khoản nợ liên quan đối với bên bán trên sổ

sách của họ. Khi hàng hoá nhận được, quá trình kiểm soát thích hợp được thực
hiện là kiểm tra mẫu mã, số lượng, thời gian đến và các điều kiện khác có liên
quan. Để phục vụ cho quá trình này, hầu hết các công ty đều có phòng (bộ phận)
tiếp nhận để đưa ra một báo cáo nhận hàng như một bằng chứng của sự nhận
hàng và sự kiểm tra hàng hoá.Sau đó, một bản sao về báo cáo nhận hàng sẽ được
gửi tới thủ kho và một bản tới phòng kế toán để hạch toán nghiệp vụ. Một rủi ro

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận5văn tốt nghiệp

gắn liền vơi hàng hoá, vật liệu nhập vào là tình trạng mất mát, thất thoát có thể
diễn ra. Để ngăn ngừa các rủi ro này thì điều quan trọng là hàng hoá phải được
kiểm soát một cách chặt chẽ từ lúc nhận vào, bảo quản và cho đến khi hàng hoá
được đưa vào sử dụng hoặc chuyển đi. Nhân viên phòng tiếp nhận phải độc lập
với thủ kho và nhân viên phòng kế toán. Cuối cùng, sổ sách kế toán (kế toán vật
tư và kế toán chi phí) sẽ phản ánh việc chuyển giao trách nhiệm đối với hàng hoá
khi hàng hoá được chuyển từ phòng tiếp nhận qua kho và từ kho vào quá trình
sản xuất hay đưa đi tiêu thụ.
1.1.2.3. Ghi nhận khoản nợ người bán
Sự ghi nhận đúng đắn khoản nợ về hàng hoá hay dịch vụ nhận được đòi
hỏi việc ghi sổ chính xác và nhanh chóng. Việc ghi sổ các khoản thanh toán này
có ảnh hưởng quan trọng tới các BCTC và đến khoản thanh toán thực tế, do đó
kế toán chỉ được phép ghi nhận dựa trên các lần mua có cơ sở hợp lý về thời
gian, số tiền, nhà cung cấp. Để đảm bảo việc ghi nhận đúng đắn các khoản

thanh toán, kế toán các khoản phải trả thường có trách nhiệm kiểm tra tính
đúng đắn của các lần mua vào và ghi chúng vào sổ nhật ký và sổ hạch toán chi
tiết các khoản phải trả. Khi kế toán các khoản phải trả nhận được hoá đơn của
người bán thì phải so sánh mẫu mã, giá cả, số lượng, phương thức và chi phí vận
chuyển, phương thức và chi phí vận chuyển ghi trên hoá đơn với thông tin trên
đơn đặt hàng (hoặc hợp đồng) và báo cáo nhận hàng (nếu hàng đã về). Trong quá
trình kiểm tra, đối chiếu kế toán thường sẽ kiểm tra lại các phép nhân và phép
cộng tổng để đảm bảo độ chính xác của số liệu và thực hiện việc chuyển số liệu
vào sổ hạch toán chi tiết các khoản phải trả.
1.2.2.4. Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán
Để giúp cho việc ghi sổ các khoản thanh toán dễ kiểm tra, đối chiếu dễ dàng,
các hoá đơn liên quan đến việc mua hàng sẽ được lưu giữ bởi kế toán cho đến khi
thanh toán. Việc thanh toán thường được thực hiện bằng uỷ nhiệm chi, sec hoặc
phiếu chi làm thành nhiều bản mà một bản được gửi cho người được thanh toán,
một bản sao lưu lại trong hồ sơ theo người thanh toán. Các quá trình kiểm soát quan
trọng đối với quá trình này là việc ký duyệt các chứng từ thanh toán phải do đúng cá
nhân có trách nhiệm. Trước khi ký các chứng từ thanh toán phải xem xét kỹ lưỡng
các chứng từ chứng minh chi cho nghiệp vụ mua hàng đã phát sinh.

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận6văn tốt nghiệp

Bốn chức năng trên là toàn bộ công việc mà doanh nghiệp cần tiến hành
đối với chu kỳ mua hàng thanh toán. Mỗi chức năng trong chu kỳ sẽ phải tuân

theo những quy tắc nhất định và có những biện pháp kiểm soát riêng. Việc nắm
vững các chức năng của chu kỳ mua hàng thanh toán đã nêu ở trên là cơ sở để
KTV tiến hành cuộc kiểm toán có hiệu quả.
1.1.3. Chứng từ tài khoản kế toán
1.1.3.1. Các chứng từ, tài khoản và sổ sách sử dụng
Trong chu kỳ mua hàng - thanh toán, các loại chứng từ và sổ sách sau
thường được sử dụng:
- Yêu cầu mua: tài liệu được lập bởi bộ phận sử dụng (như bộ phận sản
xuất) để đề nghị mua hàng hoá và dịch vụ. Trong một số trường hợp, các bộ
phận trong doanh nghiệp có thể trực tiếp lập đơn đặt hàng, trình phê duyệt và gửi
cho nhà cung cấp.
- Đơn đặt hàng: Lặp lại các chi tiết có trong đề nghị mua, được gửi cho
nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ.
- Phiếu giao hàng (biên bản giao nhận hàng hoá hoặc nghiệm thu dịch vụ):
tài liệu được chuẩn bị bởi nhà cung cấp. Phiếu giao nhận phải được ký nhận bởi
khách hàng để chứng minh sự chuyển giao hàng hoá (hay dịch vụ) thực tế.
- Báo cáo nhận hàng: được bộ phận nhận hàng lập như một bằng chứng của
việc nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá (dấu hiệu của một thủ tục kiểm soát).
- Hoá đơn người bán: chứng từ nhận được từ người cung cấp hàng, đề
nghị thanh toán cho các hàng hoá dịch vụ đã được chuyển giao.
- Nhật ký mua hàng: đây là những ghi chép đầu tiên về hàng hoá mua vào
trong hệ thống kế toán. Nhật ký phải liệt kê danh sách các hoá đơn, cùng với
việc chỉ ra tên nhà cung cấp, ngày ghi trên hoá đơn và khoản tiền của các hoá
đơn đó.
- Sổ hạch toán chi tiết công nợ phải trả: Sổ này dùng để ghi nhận, theo dõi
chi tiết cho từng nhà cung cấp với số tiền phải trả cho mỗi nhà cung cấp, với cũng
như số lần mua hàng trong kỳ. Tổng số dư tài khoản thanh toán với các nhà cung
cấp trên sổ chi tiết phải bằng khoản tiền ghi trên khoản mục phải trả người bán.

SV: Ma Thị Màu


Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận7văn tốt nghiệp

- Bảng đối chiếu của nhà cung cấp: báo cáo nhận được của nhà cung cấp
hàng (thường là hàng tháng) chỉ ra các hóa đơn chưa thanh toán vào một ngày
đối chiếu nhất định.
Thông tin, vận động thu được từ các chứng từ vào sổ sách kế toán thông
qua hệ thống tài khoản. Đối với chu kỳ mua vào và thanh toán, các tài khoản
chịu ảnh hưởng của chu kỳ gồm có các tài khoản trong các khoản trong các
khoản mục vốn bằng tiền, hàng tồn kho, nợ phải trả. Nhìn chung đa số các tài
khoản chịu ảnh hưởng trong chu kỳ mua hàng thanh toán có liên quan đến chu
kỳ nghiệp vụ khác.
Các tài khoản liên quan đến mua hàng và công nợ phải trả:
- TK 111: Tiền mặt tại quỹ
- TK 112: Tiền gửi ngân hàng
- TK 133: Thuế GTGT đầu vào
- TK 152, 153, 156, 611: nguyên vật liệu; Công cụ, dụng cụ; hàng hoá;
mua hàng
- TK 331, 338: Phải trả người bán, phải trả khác
- TK 336: Phải trả nội bộ
- TK 515, 635: Chênh lệch tỉ giá hối đoái
1.1.3.2. Qui trình hạch toán chu kỳ mua hàng - thanh toán
Căn cứ vào các chứng từ, sổ sách liên quan, kế toán tiến hành hạch toán
các nghiệp vụ thu mua, ghi nhận khoản nợ và các nghiệp vụ thanh toán. Việc
hạch toán kế toán đối với chu kỳ MH-TT được thực hiện theo quy trình như sau:

(Xem SƠ ĐỒ 1.1. QUY TRÌNH HẠCH TOÁN KẾ TOÁN ĐỐI VỚI CHU
KỲ MUA HÀNG - THANH TOÁN ở phụ lục 1)
Quá trình tổ chức hạch toán kế toán đối với chu kỳ MH-TT thực hiện
trong các doanh nghiệp thông thường trải qua các bước sau
(xem phụ luc 2 : SƠ ĐỒ 1.2. QUY TRÌNH TỔ CHỨC CHỨNG TỪ ĐỐI
VỚI CHU KỲ MUA HÀNG - THANH TOÁN)
1.1.4. Các rủi ro và hệ thống mục tiêu kiểm toán đối với chu kỳ mua hàng –
thanh toán
1.1.4.1. Các rủi ro kiểm toán đối với chu kỳ mua hàng- thanh toán
Đối tượng của kiểm toán nói chung và đối tượng của kiểm toán tài chính
nói riêng luôn chứa đựng nhiều mối quan hệ về kinh tế và về pháp lý phong phú,

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận8văn tốt nghiệp

đa dạng. Cụ thể hơn, đối với chu kỳ MH-TT thì đối tượng nghiên cứu có thể
được phân thành hai phần là quá trình mua hàng và quá trình thanh toán với các
đặc điểm riêng cũng như các rủi ro tiềm ẩn.
Quá trình mua hàng diễn ra đối với một công ty lớn thường rất đa dạng.
Trong một thời kỳ nhất định để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình, các
công ty phải thực hiện rất nhiều các giao dịch mua hàng hóa và dịch vụ khác
nhau vì vậy các rủi ro dễ dàng có thể xảy ra. Hàng hoá, dịch vụ có thể bị ghi
trùng lắp vào chi phí hoặc ghi giá không đúng do gian lận hay sai sót. Sự phối
hợp không hiệu quả hay thiếu độc lập giữa các bộ phận có liên quan trong khi hệ

thống kiểm soát của công ty yếu kém cũng có thể dẫn đến mất mát, thất thoát đối
với hàng hoá, vật liệu nhập mua. Mặt khác, đối với các công ty sản xuất khi chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm trên 70% giá vốn hàng bán và ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh, do đó một số công ty tìm cách
khai khống hoặc thiếu giá trị hàng nhập mua nhằm phục vụ cho một số mục đích
công khai tài chính riêng nhằm che đậy những thông tin tài chính yếu kém.
Quá trình thanh toán trực tiếp hay việc ghi nhận và theo dõi các khoản
phải trả đối với nhà cung cấp có thể xuất hiện các rủi ro như: việc ghi nhận các
khoản nợ không đầy đủ, ghi nhận không chính xác, thanh toán hai lần cho một
hoá đơn hoặc không ghi nhận các khoản đã thanh toán cũng như không đúng kỳ
phát sinh. Đối với các công ty có nhiều giao dịch liên quan đến một số lượng lớn
các nhà cung cấp trong khi hệ thống kiểm soát không hữu hiệu sẽ khiến các sai
phạm đối với nghiệp vụ thanh toán dễ xảy ra. Đôi khi để phục vụ mục đích công
khai tài chính nào đó của doanh nghiệp, các khoản phải trả thương mại hay các
khoản thanh toán đối với các bên có liên quan (như công ty mẹ, công ty thành
viên) có thể bị nghi nhận và công bố sai lệch, không phù hợp.
Các rủi ro cơ bản liên quan đến khoản phải trả: Các khoản nợ phải trả nói
chung và các khoản nợ phải trả người bán nói riêng đều là những khoản mục
quan trọng trên BCTC thể hiện nghĩa vụ của công ty và là nguồn tài trợ chính
cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sai phạm xảy ra với các
khoản mục này sẽ làm sai lệch các tỉ suất quan trọng cũng như các chỉ tiêu trên
BCTC. Do yếu tố quan trọng của mình, đôi khi vì các mục tiêu của doanh nghiệp
hay vì các sơ suất các khoản phải trả này bị phản ánh một cách sai lệch thường là

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính


Luận9văn tốt nghiệp

bị ghi giảm xuống và làm tăng một cách giả tạo khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Ngoài ra, nợ phải trả cũng có khả năng bị khai khống là dấu hiệu của
hành vi gian lận, rút tiền công quỹ hoặc ghi nhận không đúng kỳ kế toán (khoản
nợ kỳ này lại ghi nhận sang kỳ khác) cũng là những rủi ro có thể xuất hiện khi
kiểm toán các quá trình thanh toán và số dư khoản phải trả.
Với các rủi ro tiềm ẩn như trên thì việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm
toán khoa học trên cơ sở các mối quan hệ vốn có của đối tượng và của khách thể
kiểm toán sẽ giúp KTV thực hiện đúng hướng và có hiệu quả đối với toàn cuộc
kiểm toán nói chung và đối với từng chu kỳ nói riêng.
Mục đích của kiểm toán BCTC là xác minh và bày tỏ ý kiến về độ tin cậy
của các thông tin và tính tuân thủ các nguyên tắc trong việc lập và trình bày
BCTC. Do vậy mục đích chung của chu kỳ MH-TT là đánh giá xem liệu các số
dư tài khoản có liên quan có được trình bày và trung thực và phù hợp với các
nguyên tắc kế toán hiện hành hoặc được thừa nhận rộng rãi hay không.
1.1.4.2. mục tiêu kiểm toán chu kỳ mua hàng- thanh toán
Một là: Tính có thực của hàng hoá hay dịch vụ mua vào cũng như các
khoản nợ người bán. Mục tiêu này hướng tới việc đảm bảo rằng các nghiệp vụ
mua hàng hoá dịch vụ và các khoản phải trả nhà cung cấp được kế toán ghi nhận
trên sổ sách thực sự tồn tại và phát sinh trên thực tế
Hai là: Tính đầy đủ của việc ghi nhận các nghiệp vụ của chu trình: hướng
tới việc đảm bảo rằng mọi hoạt động mua nhận hàng hoá và khoản phải trả nhà
cung cấp đã phát sinh trên thực tế đều được ghi sổ đầy đủ, không bỏ sót.
Ba là: Tính đúng đắn của việc tính giá: với hàng hoá, dịch vụ mua vào việc
tính toán giá cả, phân bổ chi phí phải phù hợp với các khoản phí thực sự phát
sinh đồng thời việc tính toán các khoản phải trả nhà cung cấp phù hợp với các
hợp đồng giao dịch, hoá đơn, biên bản giao nhận hàng hoá và dịch vụ.
Bốn là: Mục tiêu phân loại và trình bày: đối với các khoản phải trả người

bán và đặc biệt là đối với hàng hoá và dịch vụ mua vào, KTV cần quan tâm tới
việc phân loại đúng đắn các nghiệp vụ phát sinh công nợ và tài sản cùng việc thể
hiện chúng qua hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết.

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận10
văn tốt nghiệp

Năm là: Bên cạnh các mục tiêu trên, chu kỳ MH-TT còn gắn liền với mục
tiêu quyền và nghĩa vụ cùng việc thể hiện và trình bày đúng đắn tài sản thuộc
quyền sở hữu cũng như các công nợ mà công ty có trách nhiệm phải thanh toán
trên các BCTC.
Sáu là: Mục tiêu chính xác về mặt số học được thể hiện trong việc tính
toán, cộng dồn, chuyển sổ, đối với các nghiệp vụ MH-TT.
Các mục tiêu kiểm toán trên là cái đích hướng tới và là cơ sở cho KTV
trong quá trình thu thập bằng chứng hỗ trợ cho việc đưa ra ý kiến của mình về
toàn bộ chu kỳ. Căn cứ vào các mục tiêu đó, KTV phải thiết kế các thử nghiệm
tuân thủ để nhận diện được các cơ cấu, các quá trình kiểm soát chủ yếu theo từng
mục tiêu và phục vụ cho việc xây dựng thủ tục kiểm tra chi tiết tương ứng.
1.2. Quy trình kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán trong kiểm toán
báo cáo tài chính
1.2.1. Lập kế hoạch kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán
Để đảm bảo cuộc kiểm toán có hiệu quả, kế hoạch kiểm toán phải được lập
cho mọi cuộc kiểm toán. Có 3 lý do chính cho việc lập kế hoạch kiểm toán một

cách đúng đắn: giúp kiểm toán viên (KTV) thu thập bằng chứng kiểm toán đầy
đủ và thích hợp; giúp giữ chi phí kiểm toán ở mức hợp lý; và để tránh những bất
đồng với khách hàng. Lập kế hoạch kiểm toán là một công việc phức tạp, do đó
công việc này thường được thực hiện bởi Giám đốc kiểm toán, chủ nhiệm kiểm
toán hay những kiểm toán viên có kinh nghiệm. Lập kế hoạch kiểm toán chu kỳ
mua hàng và thanh toán thường được thực hiện qua các bước sau: (xem phụ lục
3: Sơ đồ 1.3: Trình tự giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán)
1.2.1.1. Lập kế hoạch chiến lược
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300, đoạn 04: “Kế hoạch chiến
lược là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp cận chung
của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu biết về tình hình hoạt
động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán”.
Kế hoạch chiến lược được lập cho những cuộc kiểm toán lớn về quy mô,
tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính nhiều năm. Kế
hoạch chiến lược do người phụ trách cuộc kiểm toán lập và được giám đốc (hoặc
người đứng đầu) đơn vị phê duyệt.

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận11
văn tốt nghiệp

Nội dung và các bước công việc của kế hoạch chiến lược:
- Tóm tắt những thông tin cơ bản về tình hình kinh doanh của đơn vị khách
hàng;

- Phân tích những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính;
- Đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát;
- Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ;
- Xác định các mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phương pháp tiếp cận kiểm
toán;
- Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia;
- Dự kiến nhóm trưởng và thời gian thực hiện;
- Giám đốc duyệt và thông báo kế hoạch chiến lược cho nhóm kiểm toán.
Căn cứ vào kế hoạch chiến lược đã phê duyệt , trưởng nhóm kiểm toán lập kế
hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán.
1.2.1.2. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
a. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán là giai đoạn mà công ty kiểm toán và các
kiểm toán viên thực hiện các bước công việc: liên hệ với khách hàng thường
xuyên cũng như khách hàng tiềm năng, đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán,
nhận diện các lý do kiểm toán của khách hàng, lựa chọn các nhân viên thực hiện
kiểm toán và ký kết các hợp đồng kiểm toán.
b. Thu thập thông tin cơ sở về khách hàng
Bước công việc này giúp kiểm toán viên có được cái nhìn tổng quát về khách
hàng và thông thường được tiến hành qua các bước:
- Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng: đối với
chu kỳ mua hàng và thanh toán KTV cần đi sâu tìm hiểu về ngành nghề và hoạt
động kinh doanh của khách hàng như: lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức, chính
sách chủ yếu của công ty, hệ thống kế toán, các bên liên quan, dây chuyền các
dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của KSNB. Từ đó, KTV nhận
biết được những chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp mua vào có phù hợp
không; có đúng như trong giấy phép đầu tư không? Và đánh giá được rủi ro kiểm
soát, phân tích rủi ro kinh doanh, xác định được mức độ trọng yếu, xác định

SV: Ma Thị Màu


Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận12
văn tốt nghiệp

được sự đầy đủ và tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán, từ đó xây dựng
được kế hoạch và chương trình kiểm toán cụ thể.
- Xem xét lại hồ sơ và kết quả của cuộc kiểm toán năm trước: hồ sơ kiểm toán
năm trước sẽ cung cấp thông tin về khách hàng cụ thể hơn, KTV sẽ thấy được
những vấn đề cần lưu ý về khách hàng như: những yếu kém trong việc ghi sổ các
nghiệp vụ mua hàng và thanh toán hay sự lỏng lẻo của hệ thống KSNB. Khi thấy
được vấn đề này KTV sẽ dễ dàng hơn trong việc lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế
phương pháp kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán cho năm hiện hành.
- Thăm quan nhà xưởng: việc làm này giúp KTV tiếp cận với hệ thống
KSNB thực tế của khách hàng, thấy rõ hơn về quá trình sản xuất sản phẩm. Từ
đó những đánh gia của kiểm toán viên mang tính khách quan hơn, hợp lý hơn.
Ví dụ như khi thăm quan nhà xưởng KTV được trực tiếp quan sát thấy các sản
phẩm được sản xuất ra như thế nào, đặc điểm của các sản phẩm như thế nào từ
đó có thể đánh gía được nguyên vật liệu mua vào có phù hợp với sản xuất
không? Công suất làm việc của phân xưởng như thế nào?
- Việc tìm hiểu ban đầu về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của khách
hàng giúp kiểm toán viên hiểu biết một cách khái quát về ngành nghề kinh
doanh, đặc thù của ngành nghề kinh doanh, và dự kiến được nhu cầu của việc sử
dụng các chuyên gia bên ngoài đối với những ngành nghề kinh doanh đặc biệt
c. Thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng và thực hiện các
thủ tục phân tích

* thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Việc thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng là một công
việc rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm toán. Thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng chủ yếu được thu thập thông qua tiếp xúc với ban giám
đốc công ty khách hàng gồm giấy phép thành lập và điều lệ công ty, các báo cáo
tài chính, báo cáo kiểm toán, thanh tra năm hiện hành hay trong vài năm trước,
biên bản các cuộc họp cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám đốc, các hợp đồng
và cam kết quan trọng. Đây là các tài liệu quan trọng cần thu thập để giúp KTV
nắm được các quy trình mang tính pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh
doanh của khách hàng. Với chu kỳ mua hàng và thanh toán, KTV cần nắm được
các thông tin về nhà cung cấp chính và mặt hàng mua về, đồng thời cũng cần

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận13
văn tốt nghiệp

xem xét ảnh hưởng của các thông tin về ngành nghề kinh doanh ảnh hưởng đến
chu kỳ mua hàng và thanh toán.
* Thực hiện các thủ tục phân tích
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích, đoạn 09, đã
nêu rõ: “ Kiểm toán viên phải áp dụng quy trình phân tích trong quá trình lập kế
hoạch kiểm toán để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị và xác định những
vùng có thể rủi ro’’. Thủ tục phân tích sử dụng bao gồm hai loại là phân tích
ngang (phân tích xu hướng) –là phương pháp so sánh về lượng trên cùng một chỉ

tiêu và phân tích dọc – phân tích tỷ suất –phương pháp này dựa vào các mối
quan hệ, những tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau để
phân tích, đánh giá.
Việc phân tích đánh giá tổng quát giúp KTV nhìn nhận doanh nghiệp một
cách toàn diện, nhanh chóng xác định được tính chất bất bình thường, xác định
được nội dung cần đi sâu kiểm toán, xác định được những vấn đề có khả năng
xảy ra sai sót trọng yếu; Đông thời, giúp KTV xác định được nội dung, thời gian,
phạm vi sử dụng phương pháp kiểm toán khác, qua đó lập được kế hoạch chi tiết
với những nội dung, phạm vi cần thiết, thời gian biên chế và chi phí hợp lý.
Các kỹ thuật phân tích tổng quát thường sử dụng trong chu kỳ mua hàng và
thanh toán là:
- So sánh tổng chi phí mua hàng, các khoản phải trả, các khoản tiền thanh
toán mua hàng thực tế kỳ này với kỳ trước.
- So sánh gía trị hàng mua về thực tế với kế hoạch, định mức, dự toán…
- So sánh số liệu thực tế về khối lượng hàng mua vào của doanh nghiệp
khách hàng và doanh nghiệp khác cùng qui mô, lãnh thổ, cùng ngành nghề kinh
doanh, cùng loại hình sản xuất kinh doanh.
- Tính toán so sánh tỷ lệ giữa chi phí mua hàng và giá trị hàng mua vào
tương ứng giữa kỳ này với kỳ trước.
- tính toán, so sánh tỷ lệ Nợ phải trả người bán với tổng giá trị hàng mua
vào giữa kỳ này với kỳ trước.
d. Đánh giá trọng yếu và rủi ro

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính


Luận14
văn tốt nghiệp

Ở các bước trên kiểm toán viên mới thu thập được các thông tin mang tính
khách quan về khách hàng thì ở bước này, căn cứ vào những thông tin thu thập
được, KTV sẽ thực hiện đánh giá tính trọng yếu và rủi ro.
Thứ nhất: Đánh giá tính trọng yếu
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm
toán, đoạn 04 : “ Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của
một thông tin ( một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng
yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc nếu thiếu độ chính xác của thông tin
đó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCTC…’’. Theo đó trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước
tính mức độ sai sót của BCTC từ đó “ xác định bản chất, lịch trình, phạm vi thực
hiện các thủ tục kiểm toán”.
Để đánh giá mức độ trọng yếu, trước hết KTV cần ước luợng mức độ trọng
yếu cho toàn bộ BCTC sau đó phân bổ cho từng khoản mục trên BCTC.
Cơ sở để tiến hành phân bổ là: Bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục, kinh
nghiệm của KTV và chi phí kiểm toán với từng khoản mục. Đối với chu kỳ mua
hàng và thanh toán, bản chất của các khoản mục trong chu kỳ là:
-Các nghiệp vụ mua vào thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Bản thân các nghiệp vụ mua vào quan đến nhiều tài sản như: tài sản cố
định, hàng tồn kho, tiền…mà hầu hết chúng đều trọng yếu.
Trên thực tế, việc ước lượng và phân bổ mức trọng yếu cho các tài khoản là
vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi sự xét đoán nghề nghiệp cua KTV. Do đó để
đảm bảo tính thận trọng nghề nghiệp, các công ty kiểm toán thường xây dựng
sẵn những căn cứ để xác định mức độ trọng yếu cho từng khoản mục trên BCTC.
Có thể khái quát các bước đánh giá tính trọng yếu theo trình tư sau:

bước 1: ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu
bước 2: Phân bổ ước luợng ban đầu về tính trọng yếu cho các bộ phận
bước 3: Ước tính tong số sai phạm trong bộ phận
bước 4: Ứơc tính sai số kết hợp
bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lưọng ban đầu

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận15
văn tốt nghiệp

Thứ hai: đánh giá rủi ro
Theo VAS số 400 – đánh gía rủi ro và kiểm soát nội bộ, đoạn 07: “ Rủi ro
kiểm toán là rủi ro KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích
hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”. Theo đó
trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải xác định rủi ro kiểm toán
mong muốn (AR) cho toàn bộ BCTC được kiểm toán thông qua việc đánh giá ba
bộ phận: Rủi ro tiềm tang (IR), rủi ro kiểm soát (CR), rủi ro phát hiện (DR)
Ta có biểu thức biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro:
AR = IR X CR X DR
Trong đó rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ được KTV đánh giá đối với từng
khoản mục
Trong một cuộc kiểm toán trọng yếu và rủi ro luôn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đó là mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau nghĩa là nếu mức trọng yếu có thể
chấp nhận được càng tăng lên thì rủi ro kiểm toán càng giảm đi và ngược lại.

Bởi vì, khi mức sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được càng cao thì khả năng
xảy ra rủi ro kiểm toán càng giảm xuống. Mối quan hệ này có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với KTV khi lập kế hoạch kiểm toán để nhằm xác định về nội
dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán cần áp dụng. Chẳng hạn như
khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được
là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trường hợp này, để giảm mức độ rủi ro
kiểm toán, KTV có thể:
Nếu KTV dự kiến có thể giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá,
KTV sẽ thực hiện bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát
để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi
của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Do đó trong giai đoạn lập kế hoạch chu kỳ mua hàng và thanh toán, khi xác định
nội dung, lịch trình và phạm kiểm toán, KTV phải đặc biệt chú ý đến mối quan
hệ này. Tuy nhiên đây là thủ tục phức tạp đòi hỏi trình độ và khả năng phán đoán
của KTV. Trên thực tế chỉ có một số công ty kiểm toán tại VN xây dựng được
quy trình ước lượng trọng yếu và rủi ro, còn nhiều công ty vẫn chưa xây dựng
được quy trình cụ thể.

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận16
văn tốt nghiệp

e. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát.

Đây là phần việc hết sức quan trọng mà KTV phải thực hiện trong một cuộc
kiểm toán.Theo VAS số 400 – đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, đoạn 02:
“ KTV phải có một sự hiểu biết đầy đủ về hệ thông kế toán và hệ thống kiểm
soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình
kiểm toán thích hợp, có hiệu quả”.
Với mọi cuộc kiểm toán nói chung và chu kỳ mua hàng và thanh toán nói
riêng KTV phải có hiểu biết về cơ cấu kiểm soát nội bộ đủ để lập kế hoạch kiểm
toán và chương trình kiểm toán. Hiểu biết về cơ cấu kiểm soát nội bộ cần hiểu đầy
đủ ở cả ba yếu tố của cơ cấu kiểm soát là: Môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán
và các thủ tục kiểm soát và trên cả hai phương diện là việc thiết kế các quá trình
kiểm soát trong từng yếu tố và việc duy trì, vận hành chúng trong thực tế ở đơn vị.
Hiểu biết về môi trường kiểm soát: Những thông tin thu thập được về môi
trường kiểm soát theo những yếu tố cụ thể đã đề cập ở phần trên sẽ giúp KTV
đánh giá nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của hội đồng quản trị,
ban giám đốc của đơn vị đối với tầm quan trọng của kiểm soát nội bộ.
Những nội dung cần hiểu biết:
- Tư duy quản lý, phong cách điều hành của các thành viên hội đồng quản
trị và ban giám đốc.
- Cơ cấu tổ chức của đơn vị, sự phê chuẩn của ban quản trị và trách nhiệm
đối với các hoạt động trong chu kỳ.
- Ảnh hưởng từ bên ngoài đơn vị như chính sách của Nhà nước, chỉ đạo của
cấp trên…
Hiểu biết về hệ thống kế toán: Những hiểu biết về hệ thống kế toán bao
gồm: Hiểu biết về phương pháp xử lý dữ liệu; hệ thống chứng từ tài khoản kế
toán để ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ kinh tế. Điều này là rất quan trọng để
hiểu được sự luân chuyển nghiệp vụ của hệ thống kế toán từ nghiệp vụ ban đầu
tới những ghi chép đối với nghiệp vụ ấy trên sổ cái, và tổng hợp trên báo cáo tài
chính. Những thông tin chủ yếu mà kiểm toán viên nên tìm hiểu là:
- Hoạt động mua, thanh toán và trả lại được bắt đầu như thế nào?
- Các hoạt động mua xảy ra sẽ ghi chép đối với hàng hoá và dịch vụ nhận

được hoặc hàng hoá bị trả lại như thế nào?

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận17
văn tốt nghiệp

- Những ghi chép, tài liệu kế toán, các tài khoản kế toán và các file dữ liệu
máy tính nào có liên quan trong hoạt động kế toán liên quan đến những nghiệp
vụ của chu kỳ này?
- Ở giai đoạn nào thì đơn vị thực hiện việc thanh toán đối với những hàng
hoá và dịch vụ mua?
Hiểu biết về các thủ tục kiểm soát:
Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ tục do ban lãnh đạo đơn vị thiết lập
và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. VAS số 400 – đánh giả rủi ro
và kiểm soát nội bộ, đoạn 26 quy định : “ KTV phải hiểu biết thủ tục kiểm soát của
đơn vị để xây dựng kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán”. Các
thủ tục kiểm soát được thiết kế dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc phân công phân
nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm và nguyên tắc phê chuẩn uỷ quyền.
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm:
- Lập, kiểm tra, phê duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn vị;
- Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán;
- Kiểm tra chương trình ứng dụng và môi trường tin học;
- Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài khoản và số liệu kế toán;
…..

Khi xem xét các thủ tục kiểm soát, phải xem các thủ tục này có được xây
dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản được nêu ở trên hay không?
Bộ phận kiểm toán nội bộ:
Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ, bộ
phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về hoạt
động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành
các chính sách và các thủ tục kiểm soát nội bộ.
Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp doanh nghiệp có được những
thông tin kịp thời và xác thực về hoạt động trong doanh nghiệp, chất lượng của
hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát
thích hợp và hiệu quả.
Trên đây là toàn bộ các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn
vị khách hàng. Việc tìm hiểu hệ thống sơ bộ về chúng là bước công việc quan
trọng trong quá trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ giúp KTV có thể đưa ra

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận18
văn tốt nghiệp

được ước lượng ban đầu về rủi ro kiểm soát. VAS số 400 – đánh gía rủi ro và
kiểm soát nội bộ, đoạn 28, nêu rõ: “ Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và
KSNB, KTV phải thực hiện đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với các cơ
sở dẫn liệu cho từng số dư của tài khoản hoặc các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu”.
Việc đánh giá rủi ro kiểm soát cho các tài khoản trong chu kỳ mua hàng và

thanh toán bao gồm các bước công việc:
- Nhận diện các mục tiêu kiểm soát cho từng nghiệp vụ trong chu kỳ mua hàng
và thanh toán, và xác định các loại sai phạm có thể xảy ra. Trên cơ sở đó, KTV tiến
hành đánh giá rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục trong chu kỳ này.
- Đánh giá khả năng ngăn chặn sai phạm của hệ thống KSNB đối với chu
kỳ này. Nhận diện những hạn chế của hệ thống như sự vắng mặt của các quá
trình kiểm soát chủ yếu mà điều này sẽ làm tăng khả năng rủi ro của việc tồn tại
các sai phạm trong chu kỳ.
- Đánh giá rủi ro kiểm soát: Căn cứ vào các ước đoán ở trên, KTV tiến hành
đánh giá rủi ro kiểm soát ban đầu đối với từng mục tiêu kiểm soát của từng loại
nghiệp vụ trong chu kỳ này. KTV có thể đánh giá rủi ro theo yếu tố định tính là
thấp, trung bình, cao hoặc theo tỷ lệ phần trăm. Rủi ro kiểm soát được đánh giá
là cao khi kiểm toán viên cho rằng hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
không đầy đủ và không hiệu quả. Ngược lại, rủi ro kiểm soát được đánh giá là
thấp khi KTV có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chu kỳ
được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu cũng
như khi KTV có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho đánh
giá mức rủi ro kiểm soát.
f. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và soạn thảo chương trình kiểm toán.
Đây là bước cuối cùng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán sau khi đã có
được những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng, đã
xác định được mức trọng yếu và rủi ro…KTV sẽ đánh giá tổng thể hoạt động của
đơn vị, phân tích, triển khai kế hoạch và soạn thảo chương trình kiểm toán cho
chu kỳ. Chương trình kiểm toán thực chất là một tập hợp các thủ tục kiểm toán
chỉ dẫn cho việc thu thập bằng chứng kiểm toán theo các sơ sở dẫn liệu cụ thể,
trong đó xác định cả quy mô mẫu, phần tử lựa chọn và thời gian thực hiện cho
mỗi thủ tục kiểm toán. Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán

SV: Ma Thị Màu


Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận19
văn tốt nghiệp

được thiết kế thành ba phần: các khảo sát nghiệp vụ, các thủ tục phân tích và
khảo sát chi tiết số dư. Mỗi phần được tiếp tục chia nhỏ thành các nghiệp vụ
kinh tế và các khoản mục hay chỉ tiêu trên BCTC.
1.2.2. Thực hiện kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán
Giai đoạn thực hiện kiểm toán bao gồm hai bước: Bước thực hiện các khảo
sát kiểm soát nếu kiểm toán viên tin rằng kết quả khảo sát cho phép đánh giá một
mức thấp hơn về rủi ro kiểm soát so với mức đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát và thực hiện các khảo sát cơ bản đối với các nghiệp vụ. Kết quả của hai loại
khảo sát này là những yếu tố cơ bản xác định phạm vi kiểm tra chi tiết các số dư.
Bước tiếp theo là thực hiện các thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết các số dư
cũng như thực hiện các kiểm tra chi tiết bổ sung. Thủ tục phân tích dùng để kiểm
tra tính hợp lý chungcủa các nghiệp vụ và số dư. Kiểm tra chi tiết các số dư là
những thủ tục cụ thể cầc thực hiện để kiểm tra những sai sót bằng tiền trong các
khoản mục, chỉ tiêu trong báo cáo tài chính.
1.2.2.1. Thực hiện các khảo sát kiểm soát
Việc thực hiện kiểm toán không phải là việc triển khai một cách máy móc
kế hoạch kiểm toán đã được thiết lập.Thực tế các kiểm toán viên luôn muốn
giảm thiểu các thủ tục kiểm tra chi tiết nhưng vẫn đảm bảo mức rủi ro kiểm toán
thấp nhất có thể chấp nhận được.
Trước khi thiết kế phạm vi của các thủ tục kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên
tiến hành đánh giá lại mức độ rủi ro kiểm soát đã được xác định trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán thông qua “kỹ thuật điều tra hệ thống”. Kỹ thuật điều tra hệ

thống là việc kiểm tra chi tiết một loạt các nghiệp vụ cùng loại được theo dõi, ghi
chép từ đầu tới cuối để xem xét, đánh giá các bước kiểm soát áp dụng cho hệ thống
đó của đơn vị được kiểm tóan. Cụ thể đối với chu kỳ mua hàng và thanh toán là
việc điều tra các nghiệp vụ mua hàng và thanh toán từ việc xử lý đơn đặt hàng và
ký hợp đồng mua bán; nhận vật tư dịch vụ, hàng hoá và kiểm nghiệm…cho tới xử
lý thanh toán tiền hàng và ghi sổ để đánh gía các bước kiểm soát để đánh giá các
bước kiểm soát được thiết lập trong chu kỳ mua hàng và thanh toán.
Nếu kiểm toán viên xét thấy có thể giảm được rủi ro kiểm soát so với mức
đã được đánh giá sơ bộ khi lập kế hoạch kiểm toán xuống mức thấp hơn, thì
kiểm toán viên sẽ tiến hành các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát cần thiết

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận20
văn tốt nghiệp

Nếu không thể giảm được rủi ro kiểm soát so với kế hoạch thì kiểm toán
viên không phải tiến hành các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát mà phải tiến hành
ngay các thử nghiệm cơ bản sao cho phù hợp.
* Các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát
Thử nghiệm kiểm soát được tiến hành dựa trên các kỹ thuật cụ thể gồm:
quan sát, phỏng vấn, kiểm tra tài liệu và làm lại.
Việc tiến hành các thử nghiệm kiểm soát nhằm thu thập bằng chứng để
đánh giá mức độ tự tuân thủ các chính sách và các thủ tục kiểm soát nội bộ đã
được vạch ra trong chu kỳ.

Thông thường KTV thực hiện các thử nghiệm kiểm soát theo các mục tiêu
kiểm toán:
Mục tiêu kiểm soát
nội bộ
Nghiệp vụ mua hàng hoá,
tài sản và thanh toán ghi
sổ là có thật (thực tế xảy ra
và được phê chuẩn đúng
đắn)

Nghiệp vụ mua hàng hoá,
tài sản và thanh toán được
tính toán và đánh giá một
cách đúng đắn

SV: Ma Thị Màu

Thủ tục khảo sát nghiệp vụ
-Kiểm tra, xem xét sổ nhật ký mua hàng, báo cáo
mua hàng, báo cáo thống kê, nhật ký chi tiền, sổ kế
toán chi tiết nợ phải trả cho người bán đối với
những nghiệp vụ đã được lựa chọn trong mối quan
hệ với các chứng từ như hoá đơn mua hàng, chứng
từ vận chuyển, biên bản thanh lý hợp đồng, cùng
các biên bản đối chiếu số liệu định kỳ giữa doanh
nghiệp và người bán…
- Kiểm tra việc phê chuẩn có đúng thẩm quyền hay
không đồng kiểm tra tính đầy đủ, lô gíc dấu hiệu
kiểm tra nội bộ của các chứng từ liên quan như
biên bản kiểm nghiệm, nhật ký mua hàng, phiếu

nhập kho, giấy báo nhận hàng, giấy đề nghi mua
hàng, kế hoạch mua hàng…
- Kiểm tra, tính lại số tiền trên chứng từ, hoá đơn
bán hàng, phiếu vận chuyển.
- Đối chiếu số tiền trên hoá đơn với sổ chi tiết và
tổng hợp.
- Đối chiếu số liệu trên chứng từ hoá đơn phải phù
hợp với
chứng từ vận chuyển, đơn đặt hàng, nhật ký bán

Lớp: CQ47/22.02


Học viện Tài chính

Luận21
văn tốt nghiệp

hàng…
Các nghiệp vụ mua hàng - Kiểm tra điển hình các nghiệp vụ phát sinh đã
hoá, tài sản và thanh toán
được ghi chép vào các sổ nhật ký mua hàng, báo
được ghi sổ là đầy đủ.
cáo mua hàng, thẻ kho, sổ kế toán tổng hợp, chi
tiết hay không? Đặc biệt chú ý đến các nghiệp vụ
phát sinh đầu và cuối kỳ hoặc niên độ.
- Đối chiếu các chứng từ, hoá đơn mua hàng với
nhật ký mua hàng, báo cáo mua hàng.
Các nghiệp vụ mua hàng
- So sánh ngày tháng trên chứng từ hoá đơn, phiếu

và thanh toán được ghi sổ nhập kho, biên bản kiểm nghiệm với ngày tháng
kịp thời.
ghi trên các sổ thương vụ có liên quan.
Các nghiệp vụ mua hàng
- Kiểm tra, so sánh ngày tháng trên chứng từ hoá
hoá, tài sản và thanh toán
đơn mua hàng, biên bản kiểm nghiệm, phiếu nhập
được ghi sổ là đúng kỳ.
kho với ngày tháng trên chứng từ vận chuyển.
- Kiểm tra các nghiệp vụ mua hàng có số tiền lớn
phát sinh vào cuối kỳ và vào đầu kỳ kế toán sau.
Các nghiệp vụ mua hàng
- Kiểm tra đối chiếu việc ghi sổ chi tiết vật tư, tài
hóa, tài sản và thanh toán
sản, hàng hoá với thẻ kho, báo cáo mua hàng, nhật
được ghi sổ đúng sự phân ký mua hàng. Đặc biệt chú ý đến các loại hàng
loại và đúng phương pháp. mua vào có thuế suất khác nhau.
- Hàng mua vào có liên quan đến hàng xuất dùng.
Do vậy, dùng công thức tính toán đảm bảo tính cân
đối về mặt số lượng, số tiền cho từng loại sản
phẩm, hàng hoá mua vào theo công thức:
Tồn đầu kỳ + Nhập trong kỳ = Tồn cuối kỳ + Xuất
trong kỳ
Các nghiệp vụ mua hàng
- Cộng lại số liệu trên sổ chi tiết, tổng hợp tài
hoá, tài sản và thanh toán
khoản hàng mua vào và tài khoản phải trả người
được cộng dồn và trình bán.
bày một cách đúng đắn.
- Chú ý đối chiếu số liệu trên sổ tổng hợp với số

liệu trên sổ chi tiết và báo cáo của doanh nghiệp.

SV: Ma Thị Màu

Lớp: CQ47/22.02


×