Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA TRƯỜNG PHÁI VEDANTA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI ẤN ĐỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.36 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
-----------------------

BÙI THỊ MAI HỒNG

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA TRƯỜNG PHÁI VEDANTA
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI ẤN ĐỘ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH ẤN ĐỘ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2011-X

Hà Nội - 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
-----------------------

BÙI THỊ MAI HỒNG

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA TRƯỜNG PHÁI VEDANTA
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI ẤN ĐỘ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH ẤN ĐỘ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2011-X

Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Hạnh

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi có tham khảo một số tài liệu
liên quan đến ngành triết học Ấn Độ nói chung và trường phái triết học
Vedanta nói riêng.
Tôi xin cam đoan đề tài này do chính tôi thực hiện, các dữ liệu thu thập
được và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất
kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Những thông tin tham khảo trong khóa
luận đều được trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng.
Ngày 30 tháng 4 năm 2015
Sinh viên thực hiện


Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn TS Trần Thị Hạnh, trong thời gian qua đã
nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn làm bài khóa luận với đề tài: Tư tưởng giải
thoát của trường phái Vedanta và ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát đó đến
đời sống tinh thần người dân Ấn Độ.Vì thời gian không nhiều cũng như hạn
chế về mặt kiến thức nên bài viết còn nhiều thiếu sót. Kính mong cô giáo
thông cảm và đưa ý kiến nhận xét để bài viết được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
A. Mở đầu..........................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................................................2
3. Đóng góp của đề tài...................................................................................................................2
4. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................3
6. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................................3
B. Nội dung........................................................................................................................................4
Chương 1. Khái lược tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ trung đại....................................4
1.1 Điều kiện hình thành của các trường phái triết học Ấn Độ......................................................4
Kinh tế - Chính trị - Xã hội đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển
của các trường phái triết học Ấn Độ..........................................................................................4
1.2 Nội dung cơ bản của tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ..............................................9
Chương 2. Tư tưởng giải thoát của trường phái Vedanta..............................................................16
2.1 Nguồn gốc, lịch sử hình thành của trường phái Vedanta......................................................16
2.2 Nội dung tư tưởng giải thoát trong trường phái Vedanta.....................................................20
Chương 3. Ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát của trường phái Vedanta đến đời sống tinh thần
người dân Ấn Độ.............................................................................................................................26
3.1. Ảnh hưởng đến sự củng cố chế độ phân biệt đẳng cấp và hình thành hệ thống các vị thần ở
Ấn Độ...........................................................................................................................................26
3.2. Ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát đến các phép bí tích và thói quen ăn chay của người Ấn
Độ................................................................................................................................................41
3.3. Ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát đếnnghi lễ hành hương của các tín đồ Hindu giáo.......45
3.4. Ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát đến nghi lễ tang ma của người Ấn Độ......................47
C. Kết luận.......................................................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................58



A. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên
tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là
khoa học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết
học Ấn Độ cổ đại là chiếc nôi triết học sớm nhất, lâu đời, phong phú và đã tạo
nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử triết học. Và cũng chính nơi đây đã khai
sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ
trụ của các tôn giáo và các nền triết học”. Triết học Ấn Độ cổ đại có chung
đặc điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan và thế giới quan.
Và đặc biệt, tư tưởng giải thoát của hệ thống triết học Ấn Độ đóng một vai trò
quan trọng, ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Ấn Độ. Dù tư tưởng giải
thoát được thể hiện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau ở mỗi trường
phái nhưng cuối cùng đều chung mục đích là làm cho linh hồn con người
được siêu thoát, cái bản ngã được hòa nhập với linh hồn vũ trụ. Đây được coi
như là mục đích sống của người dân Ấn Độ. Trong các trường phái triết học
Ấn Độ thì tư tưởng và phương pháp giải thoát của trường phái Vedanta có
ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với đời sống tinh thần của người dân Ấn Độ qua
Hindu giáo, nó đã góp phần hình thành nên những nghi lễ, tập tục hay định
kiến quan niệm bất di bất dịch và có phần nặng nề như về chế độ đẳng cấp đối
với xã hội, nghi lễ tang ma hay các phép bí tích của Ấn Độ. Do đó, việc
nghiên cứu đề tài “Tư tưởng giải thoát của trường phái triết học Vedanta ảnh
hưởng của nó đến đời sống tinh thần người dân Ấn Độ” giúp cho những
người nghiên cứu và những ai quan tâm tới triết học Ấn Độ có được hiểu sự
hiểu biết đúng đắn và sâu sắc, và hiểu được lối tư duy của người Ấn Độ thông
qua tư tưởng giải thoát. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí
luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực công tác.
1



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều nhà nghiên cứu triết học, những người quan tâm đến triết
học cổ đại đều chắc chắn có tìm hiểu về các trường phái triết học cổ đại và
các tư tưởng giải thoát của những trường phái ấy của Ấn Độ bao gồm cả
trường phái chính thống và không chính thống. Có thể kể đến các nhà triết
học nổi tiếng như Triết Học Bà La Môn (Brahmanism) - Giảng Viên Thích Lệ
Thọ, hay Quyển Triết học Ấn Độ của tác giải Nguyễn Ước, NXB Giáo Dục,
200, hay quyển “Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa Ấn Độ” của giáo sư
Nguyễn Đức Đoàn, hay có những bài luận của các sinh viên cao học triết học
có viết đến những đề tài về nghiên cứu tư tưởng giải thoát trong triết học
Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam, hoặc là tiểu luận khái
quát về tư tưởng giải thoát của Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, vẫn chưa có 1 học
giả hoặc nhà nghiên cứu nào tiến hành nghiên cứu sâu về tư tưởng giải thoát
của 1 trường phái triết học và nêu bật ảnh hưởng của nó đến đời sồng tinh
thần người dân Ấn Độ. Chính vì vậy,với giới hạn về thời gian, tài liệu, người
viết với đề tài này, mong muốn đóng góp chút công sức nghiên cứu của mình
để làm hiểu rõ hơn những đặc điểm trong tư tưởng giải thoát của trường phái
Vedanta và những tác động của nó đến xã hội Ấn Độ.
3. Đóng góp của đề tài
Đóng góp lớn nhất của đề tài là làm sáng tỏ và chỉ rõ được tư tưởng giải
thoát của trường phái Vedanta có ảnh hưởng sâu sắc như thế nào trong lối
sống, đời sống tinh thần, lễ nghi của người dân Ấn Độ, đặc biệt là sự ảnh
hưởng sâu sắc và trực tiếp nhất đối với những tín đồ theo Hindu giáo – một
tôn giáo lấy hệ thống tư tưởng triết học của Vedanta làm nền tảng. Công trình
nghiên cứu này còn góp phần tìm hiểu thêm về lịch sử Ấn Độ cổ trung đại.

2



4. Mục tiêu nghiên cứu
Trình bày tư tưởng giải thoát của trường phái triết học Vedanta và nêu lên
được ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của người dân Ấn Độ đặc
biệt là tín đồ theo đạo Hindu – một tôn giáo lấy hệ thống tư tưởng triết học
của trường phái Vedanta làm nền tảng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng thao tác tổng hợp và phân tích tài liệu, xử lý dữ liệu và nghiên
cứu lịch sử.
6. Phạm vi nghiên cứu
Có thể nói, giải thoát là mục đích duy nhất và là cuối cùng của mỗi
người dân Ấn Độ. Việc đem linh hồn cá nhân trở về với linh hồn vũ trụ tối
cao luôn là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người dân Ấn, chính vì thế
mà nó có ảnh hưởng mạnh mẽ và góp phần quy định nên lối sống, tập tục, lễ
nghi của người dân Ấn Độ. Và mỗi trường phái triết học thì đều có những con
đường tu luyện và phương pháp giải thoát khác nhau. Chính vì vậy, với khả
năng của một sinh viên nghiên cứu, đề tài này chỉ đề cập riêng đến tư tưởng
giải thoát của một trong sáu trường phái triết học chính thống của Ấn Độ đó
là trường phái Vedanta và nêu bật ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát của
trường phái này đến đời sống tinh thần của người dân Ấn Độ. Trong đó nhấn
mạnh đến quan niệm của trường phái này về tư tưởng giải thoát, con đường
giải thoát và phương pháp tu tập để đạt tới trạng thái giải thoát. Và sau cùng
là đem ứng chiếu vào đời sống tinh thần, tập tục, lễ nghi của người dân Ấn
Độ đặc biệt là đối với các tín đồ Hindu giáo để thấy được sức ảnh hưởng to
lớn của tư tưởng giải thoát của trường phái này trong đời sống tinh thần của
người dân nơi đây.

3



B. Nội dung
Chương 1. Khái lược tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ
trung đại
1.1 Điều kiện hình thành của các trường phái triết học Ấn Độ
Kinh tế - Chính trị - Xã hội đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự
hình thành và phát triển của các trường phái triết học Ấn Độ.
Ấn Độ là một bán đảo lớn - một "tiểu lục địa" nằm ở miền Nam châu Á,
phía Tây Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya
hùng vĩ án ngữ theo một vòng cung dài 2.600km.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa
có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với 2 con sông lớn gắn
với người dân Ấn Độ tự bao đời đó là con sông Ấn với sông Hằng đã tạo nên
những vùng đồng bằng trù phú, có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng
lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng
nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế
lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí
người Ấn Độ cổ.
Ấn Độ còn là nơi giao thoa nhiều nền văn hóa do vị trí nằm 3 mặt giáp
biển, và là nơi trung chuyển đi từ Âu sang Á nên rất thuận lợi trong việc trao
đổi kinh tế, giao lưu văn hóa. Người Ấn Độ cổ ngày xưa cũng đã có trao đổi
thương mại với người Hy Lạp…
Có thể nói, vị trí địa lí của Ấn Độ khiến Ấn Độ nằm ở thế nửa kín
nửa hở, rất nhanh nhạy để giao lưu văn hóa nhưng cũng rất bảo thủ, trì
trệ, lạc hậu.
Sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ đại có thể được chia thành ba
thời kỳ sau.
Thứ nhất là thời kỳ văn minh sông Ấn (Hay nền văn minh Harappa )
Xuất hiện vào khoảng giữa thiên niên kỷ III đầu thiên niên kỷ II tr. CN. Qua
4



các di chỉ khảo cổ cho thấy đây là một nền văn minh đồ đồng mang tính chất
đô thị của một xã hội đã vượt qua trình độ nguyên thủy, đang tiến vào giai
đoạn đầu của xã hội chiếm hữu nô lệ. Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình độ nhất định. Thành phố đều
được xây dựng bằng gạch nung, theo một quy hoạch thống nhất, có đường
phố rộng rãi, thẳng tắp, có chợ búa, cửa hiệu, có giếng nước và hệ thống thoát
nước, có những bể tắm lớn...Thành phố được chia thành hai khu, khu "dưới
thấp" và "khu trên cao", cách biệt nhau về quy mô nhà cửa và số lượng của
cải chứng tỏ xã hội thời kỳ này đã xuất hiện sự phân chia kẻ giàu và người
nghèo rõ rệt.
Về công nghệ, có nghề dệt bông len, nghề đúc đồng, điêu khắc, nghề
làm nữ trang, nghề làm gốm sứ tráng men đạt tới trình độ tinh xảo.
Thời kỳ này cũng đã có chữ viết, được thấy trên các quả ấn bằng đồng
hay đất nung. Tôn giáo cũng đã xuất hiện biểu hiện qua các hình nổi điêu
khắc trên các quả ấn.
Thứ 2 là Thời kỳ Vêđa (khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ VII tr.CN).
Vào khoảng thế kỷ XV, các bộ lạc du mục của người Arya từ Trung á xâm
nhập vào Ấn Độ, đem theo những phong tục, tập quán, tín ngưỡng...và bắt
người bản xứ làm nô lệ. Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô
lệ đầu tiên của người Arya trên lưu vực sông Hằng và sông ấn.
Sau một thời gian dài chung sống, người Arya và người Dravida bản xứ
đã đồng hóa. Do tiếp thu được kỹ thuật và văn minh của người Dravida, do
chiếm được những vùng đất đai màu mỡ và thuận lợi, người Arya bắt đầu
chuyển từ chăn nuôi, du mục sang đời sống nông nghiệp định canh định cư,
phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đặc trưng của nền kinh tế nông
nghiệp thời kỳ này là kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẽ với thủ công nghiệp
gia đình nên tính chất tự cấp tự túc là nổi bật và quan hệ trao đổi giữa các
5



công xã rất yếu ớt. Đó cũng là nguyên nhân làm xã hội ấn độ phát triển rất
chậm chạp và trì trệ.
Về mặt xã hội, thời kỳ này đã xuất hiện chế độ đẳng cấp (varna - màu
sắc, chủng tính) góp phần quy định cơ cấu xã hội và ảnh hưởng đến hình thái
tư tưởng ấn độ cổ đại. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc,
màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn
nhân...được hình thành trong thời kỳ người Arya chinh phục, thống trị người
Dravida, cũng như trong cả quá trình phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc giữa
quý tộc và thường dân Arya. Theo thánh điển Bàlamôn và bộ luật Manu, xã
hội ấn độ cổ đại chia thành bốn đẳng cấp lớn: Đứng đầu là đẳng cấp tăng lữ,
lễ sư Bàlamôn (Brahmana); thứ hai là đẳng cấp vương công, vua chúa, tướng
lĩnh, võ sĩ (Kshatriya); thứ ba là đẳng cấp thương nhân, điền chủ và thường
dân Arya (Vaishya); thứ tư là đẳng cấp tiện dân và nô lệ (Shudra). Ngoài bốn
đẳng cấp trên còn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp xã hội. Đó là
tầng lớp người cùng đinh, hạ đẳng (Paria) như người Chandala.
Thời kỳ Vêđa cũng là thời kỳ hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng
và tín ngưỡng của nó ảnh hưởng đậm nét tới đời sống tinh thần xã hội ấn độ
cổ đại, như đạo Rig - Vêđa, đạo Bàlamôn, sau đó là đạo Phật, đao Jaina...
Thời kì thứ 3 là từ thế kỷ VI đến thế kỷ I tr. CN. Các quốc gia chiếm
hữu nô lệ đã thực sự phát triển, thường xuyên thôn tính lẫn nhau dẫn đến sự
hình thành các quốc gia lớn, các vương triều thống nhất ở ấn độ như
Magadha, Maurya. Trong thời kỳ này nền kinh tế, xã hội và văn hóa ấn độ có
những bước phát triển tiến bộ vượt bậc. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn
chiếm ưu thế, nhưng thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển hình thành một
tầng lớp mới trong cơ cấu giai cấp xã hội ấn độ - tầng lớp thương nhân và thợ
thủ công. Tiền kim loại xuất hiện, nhiều thành phố trở thành trung tâm công
thương nghiệp quan trọng. Nhiều con đường thương mại thủy và bộ nối liền
6



các thành thị với nhau và thông từ ấn độ qua Trung Hoa, Ai Cập và miền
Trung á... dần dần xuất hiện.
Tóm lại: Xã hội ấn độ cổ đại có những đặc điểm nổi bật như sau:
Công xã nông thôn hình thành và tồn tại dai dẳng thậm chí đã hằn
sâu vào tâm trí người Ấn cho đến tận ngày nay. Bên cạnh đó, chế độ phân
biệt đẳng cấp rất khắc nghiệt đã cộng hưởng và làm cho xã hội Ấn Độ trở
nên trí trệ và phát triển chậm chạp. Ngoài ra, việc hình thành các tôn giáo
và các tư tưởng triết học đã bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống xã hội
của người dân Ấn Độ.
Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội cùng với sự
phát triển rực rỡ của văn hóa, khoa học ấn độ cổ đại là những tiền đề lý luận
và thực tiễn phong phú làm nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học
của Ấn Độ cổ đại.
Qúa trình phát triển tư tưởng triết học Ấn Độ được ghi dấu bằng những
nguồn sử liệu như là 4 bộ kinh Veda, kinh Upanishad và 2 bộ sử thi.
Nếu như trong giai đoạn tiền Veda, các bộ kinh chủ yếu nói về các nghi
thức cúng tế, ma thuật, các nghi lễ cầu cúng thì đến giai đoạn hậu Veda đã
dần có tư duy suy tư, trừu tượng hơn, sự tiếp cận mang tính triết học hơn.
Như trong kinh Veda chẳng hạn, việc tế lễ đúng nghi thức được xem là hành
động giữ cho vũ trụ liền lạc với nhau và cho nó một hình thức cấu trúc chặt
chẽ, hướng tới ý tưởng vũ trụ. Đây là nền tảng cho sự hình thành các trường
phái triết học Ấn Độ. Các bộ kinh Veda, Upanishad, các sử thi… chính là cốt
lõi, là hệ thống tư tưởng đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triển của các
trường phái triết học sau này bao gồm 6 trường phái chính thống và 3 trường
phái phi chính thống.
Về bộ kinh Veda, khi người Aryan đặt chân lên đất Ấn Độ, phần
kinh Veda được họ mang theo chỉ là những câu thơ theo truyền thống thi ca
7



ở Ba Tư. Tới khoảng 1200TCN, một số nhóm tư tế Aryan mới phối hợp với
các nghi thức và kinh lễ bản địa san định để ghi nhớ và sử dụng trong các
cuộc tế lễ.
Tới năm 800 TCN, những tụng thi được gom thành 4 cuốn kinh mà
ngày nay được biết tới là các kinh Veda. Veda gồm 4 bộ kinh: Rig Veda,
Sama Veda, Yajur Vedaa và Arthava Veda
Nhìn chung, trong các tập Veda thời kỳ tiền Veda tập trung phản ánh
ước vọng của nhân dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức
ăn, gia súc… đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo,
chưa có những khái quát mang tính triết học. Tuy nhiên qua các tập Veda đã
thể hiện sự phát triển của tư duy trửu tượng trong đó người ta đã thừa nhận
một nguyên lí vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra thiên nhiên, trong tinh
thần và các nghi lễ. Nguồn gốc của thế giới được xem như 1 quả trứng, nổi
bồng bềnh trên biển cả hỗn độn, làm thành hình ảnh nổi tiếng nhất trong lễ tế
thần ngã vũ trụ. Từ cuối thời kỳ Veda, những giải thích, quan niệm mang tính
huyển thoại đã trở nên không còn phù hợp nữa. Theo nội dung cuốn Arthava
Veda đã hình thành các tư tưởng nói tới asat (phi hữu thể hoặc phi thực) và
sat (hữu thể hoặc có thực), trong đó con người tâm linh chuyển dịch mục đích
từ asat tới sat.
Thuật ngữ asat chỉ toàn bộ lãnh vực “không thể biết được” những cái
nằm bên ngoài hữu thể đều thể không hiểu được bằng ngôn từ và tư tưởng,
chũng vượt ra ngoài mọi định nghĩa. Về sau, đó là cái “ hư không tuyệt đối”
mang tính phi nhị nguyên Vedanta. Ngược lại, sat là thực thể tuyệt đối vĩnh
hằng và đồng nhất với Brahman. Chúng ta thấy có sự chuyển dịch trong cách
Brahmana, từ cũng tế như một phương tiện bảo đảm cho thần linh hành động
sang tới tập trung vào chi tiết của tự thân lễ tế. Nghi lễ bắt đầu được xem là
hiện thân của vũ trụ và duy trì vũ trụ, biểu hiện cho chính thực tại và thực tại
tuyệt đối chính là Brahman. Như thế, có thể thừa nhận rằng có thể lấy nghi
8



thức tinh thần qua trầm tư quán tưởng thay cho các lễ thật sự.Do đó có sự
triển khai tới các Upanishad, nghĩa là chuyển dịch từ việc cử hành lễ tế tới
lãnh vực suy tưởng siêu hình.
Upanishad thường được dịch là Áo Nghĩa Thư, cuốn sách tràn đầy ý
nghĩa uyên thâm, là cuốn sách dành cho đối tượng là những người đã được
khai tâm điểm đạo hơn là cho đại chúng.
Các Upanishad chính gồm 13 bộ nhưng người ta thường chỉ nói tới
mười bộ bao gồm những vấn đề triết học như:
Advaita: phi nhị nguyên, linh hồn cá nhân hay tiểu ngã, Atma đồng
nhất với linh hồn vũ trụ, hay đại ngã Brahman.
Samsara tức là luân hồi. Linh hồn bị giam hãm trong chu kỳ sinh tử đầy
khổ não và bất tận.
Moksa: giải thoát. Linh hồn được thoát ra khỏi cái hữu hạn bằng ý thức
đồng nhất thể của nó với đại vũ trụ, trong trạng thái hợp nhất ấy, con người sẽ
không còn khổ lão.
Sau thời Gita, lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ chuyển tới thời kỳ Ấn
giáo cổ điển, được tiêu biểu bằng các trường phái triết học vĩ đại, bao gồm hai
trường phái chính thống và phi chính thống.
1.2 Nội dung cơ bản của tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ
Tư tưởng giải thoát manh nha từ rất sớm và rõ nét khi các tư trào Ấn
Độ tiến đến chỗ giác ngộ tự ngã. Vào thời Rig-Veda (1500-1000 BC), người
Ấn bản địa tính tình còn thuần phác, chưa cảm thấy những mâu thuẫn khổ đau
của cuộc sống. Đến khi bộ tộc Aryan khai thác nền văn minh tại đây, đồng
thời tiến đến bản chất sinh hoạt trầm mặc và tư tưởng giải thoát nảy nở. Các
nhà tư tưởng đi tìm bản chất của “tự ngã” và cho đó là linh thể bất sinh bất
diệt. Từ đó, phát sinh tư tưởng luân hồi. Đến thời đại Upanishads mới có quan
niệm giải thoát chính là cái bản tính của tự ngã cùng với thực tại vũ trụ tức
9



Brahman là đồng nhất. Nhưng vì mê mờ không thấy được cái chân tướng ấy
nên con người đã bị tách khỏi cái tính đồng nhất kia, để rồi phải lăn lộn trôi
dạt trong bể khổ sinh tử. Do ý hướng muốn xa lìa giả tướng để trở về với chân
tướng đã phát sinh ra tư tưởng giải thoát.
Nếu như tư tưởng triết học phương Tây chú ý đến lý luận, nhận thức
thế giới xung quanh, tìm chân lý bằng suy luận logic và thực nghiệm, thì triết
học phương Đông, nhất là triết học Ấn Độ, là triết học của đời sống, là đạo lí.
Nó chú ý đến sự tương ứng tương đồng giữa nội tâm và ngoại giới, bằng nhận
thức trực giác, thực nghiệm tâm linh.
Giải là lìa khỏi sự trói buộc, được tự tại, mở dây trói buộc của những
hoặc nghiệp. Thoát là ra ngoài quả khổ tam giới. Vậy giải thoát là lìa khỏi
mọi trói buộc và được tự tại, là thể của Niết bàn.
Trạng thái giải thoát được mô tả bằng nhiều đặc tính khác. Trước hết,
giải thoát là vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian, vì sống và chết là những
hiện tượng trong thời gian. Giải thoát là trạng thái chân như, vượt lên trên mọi
giới hạn của thời gian, không gian và hiện tượng. Giải thoát là vượt ra ngoài
sự chi phối của định luật nghiệp báo, vì giải thoát là tuyệt đối tự do, tất cả mọi
hành động của bậc giải thoát, dù xấu dù tốt cũng đều là những hành động vô
tư, không tạo nghiệp. Nói cách khác, giải thoát là trạng thái tâm hồn tuyệt đối
hạnh phúc vì không biết lo sợ buồn phiền, tuyệt đối sáng suốt vì là nền tảng
của mọi sự hiểu biết. 1 Giải thoát có nhiều hình thái khác nhau. Upanishad nói
tới 4 hình thái giải thoát: Hoàn toàn đồng hóa với Brahman vô ngã thanh
tịnh; Cộng thông với Thượng đế hữu ngã; Hòa hợp với tinh thần vũ trụ; Và
tham dự vào hoạt động điều hành vạn vật ở thế gian. Nhưng dù ở cấp độ nào:
Giải thoát tức thời hay giải thoát lần lần; dù ở hình thức nào: Giải thoát tại thế
hay giải thoát sau khi chết, thì cứu cánh lý tưởng của giải thoát vẫn là thực tại
tuyệt đối đồng nhất Atman-Brahman, một trạng thái ý thức không đối tượng,
1


Lê Xuân Khoa, (1972), Nhập môn triết học Ấn độ, NXB Khoa học Xã Hội, Tr.99.

10


một nguồn vui thuần túy vượt ra ngoài mọi tầm nhận thức của con người.
Trong cảnh giới an lạc đó, con người giải thoát đồng nhất hóa tự ngã với hết
thảy chúng sinh. Và lúc này tự ngã không bị màn vô minh che lấp mà đồng
nhất với cái ngã thâm sâu ở trong lòng muôn vật, tuy vẫn tham dự vào các
hoạt động ở thế gian nhưng không bị ràng buộc bởi các hoạt động ấy.
Các trường phái triết học tôn giáo Ấn độ nói chung tuy muôn màu
muôn vẻ với những khuynh hướng khác nhau, nhưng hầu như đều tập trung
vào lý giải một vấn đề then chốt nhất, đó là vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời
sống, nguồn gốc nỗi khổ đau của con người và con đường, cách thức giải
thoát cho con người khỏi bể trầm luân của cuộc đời. Trong logic triết lý của
mình, nhắm đến việc giải thoát luôn là mục đích, nhiệm vụ tối cao của các
trường phái triết học tôn giáo Ấn độ. Mỗi một môn phái có những nẻo đường
riêng nhưng mục đích vẫn chỉ là một, hay nói cách khác sự giải thoát là mục
đích tối hậu.
Các trường phái triết học chính thống đều thừa nhận linh hồn vũ trụ, và
con người thì không thể hiểu hết linh hồn vũ trụ. Nguồn gốc của vũ trụ là linh
hồn vĩ đại, bao gồm hai yếu tố vật chất và tinh thần. Họ cho rằng, trong mỗi
con người đều tồn tại một linh hồn vũ trụ mà linh hồn thì bất diệt, nhưng linh
hồn lại bị trói buộc vào thể xác con người, bị nhục dục chi phối, không có
đường quay về vũ trụ nên lầm lạc vì thế cần phải giải thoát. Giải thoát con
người khỏi giá trị ảo, phủ nhận các giá trị thực tại và đạt đến chân lí đó là
nhận thức được Brahman. Vì thế họ tìm đến con đường tu tập giải thoát. Nghi
lễ, giới luật chỉ là biểu hiện về mặt hình thức của triết lí. Không gian, thời
gian và chủ thể nhận thức phải có một cái đồng nhất thì nó mới đạt được đến

độ siêu nghiệm.
Các phái chính thống đề cao giải thoát bằng tự thân mình. Việc thờ
thần, tế lễ chỉ là nấc thang để đạt đến giác ngộ giải thoát.
11


Các trường phái triết học phi chính thống đều cho rằng cuộc đời này là
giả tạm và chúng sinh cứ phải sống trong đau khổ vì lòng tham dục vô bờ
bến. Dục có nghĩa là thèm khát, ham muốn và đam mê, bắt nguồn từ vô minh,
khiến con người tự mình trói buộc với những xung đột và khổ đau do không
bao giờ thoả mãn, nên phải luân hồi triền miên trong vòng sinh tử. Nếu muốn,
con người có thể tu tập để đi đến chỗ giải thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp
báo, mà vào một nơi nào đó không sinh không diệt, đời đời không có đau khổ
mà chỉ có an lạc. Nơi đó, Bà La Môn giáo gọi là Brahman tức là Đại Ngã.
Phật giáo tạm gọi là Niết Bàn, là Chân Như.
Vì Atman là đồng nhất với Brahman nên về bản chất, linh hồn cũng tồn
tại vĩnh viễn và tuyệt đối, bất diệt như tinh thần vũ trụ tối cao. Nhưng do linh
hồn bất tử được thể hiện trong thể xác con người nên con người ta cứ lầm
tưởng rằng linh hồn các biệt là cái khác với linh hồn vũ trụ tối cao. Những
tình cảm, ý chí, dục vọng và những hành động của thể xác nhằm thỏa mãn
mọi ham muốn của con người trong đời sống trần tục đã che lấp đi bản tính
chân thực của mình, gây nên những hậu quả giam hãm, ràng buộc linh hồn bất
tử đầu tahi vào hết thân xác này đến thân xác khác, với các hình thức khác
nhau từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là luân hồi (Samsara).
Theo tư tưởng nghiệp báo (Karma) và luân hồi, Upanishad cho rằng: “
Người ta sẽ trở nên tốt vì hành động tốt và trở nên xấu vì hành động xấu” 2. Và
“ Những người có hành vi tốt đẹp sẽ đầu thai vào kiếp tốt đẹp; hoặc thành Bà
la môn, hoặc thành người quý tộc hoặc thành thương nhân. Những kẻ có hành
vi xấu xa sẽ phải đầu thai vào những kiếp xấu xa như kiếp chó, lợn hay những
kẻ tôi tớ, nô lệ”3.

2

The Upanishads, vol 3, Brihadaranyaka Upanishad III,2,13 Bonanza Boos, New York, (1956),
Doãn Chính, 1999, sách Lịch sử triết học cổ đại Ấn Độ, NXB Thanh niên, Tr.124.
3
The Upanishads, vol 4, Chandogya Upanishad V,10,7 Bonanza Boos, New York, 1956, Doãn
Chính, (1999), Lịch sử triết học cổ đại Ấn Độ, NXB Thanh niên, Tr.125.

12


Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng luân hồi, đưa linh hồn cá biệt
vốn là cái thể hiện của linh hồn tối cao trở về đồng nhất với linh hồn tối cao,
tức là đưa cái tiểu ngã đồng nhất với cái đại ngã, con người ta phải toàn tâm
toàn ý, dốc lòng tu luyện đạo đức (karma – yoga) và tu luyện trí tuệ (jana –
yoga), nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vũ trụ vạn vật, đạt
tới giác ngộ và giải thoát. Tu luyện đạo đức là hành động theo đúng bổn phận
tự nhiên, không tính toán vụ lợi, diệt mọi dục vọng, vượt ra mọi sự ràng buộc
của thế giới vật dục biến ảo vô thường này. Còn tu luyện trí tuệ là quá trình
dày công thiền định, dốc lòng suy tư, chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm
linh mới đạt được chân lí tối thượng, hòa nhập vào bản thể vũ trụ tuyệt đối. Vì
thế kinh Katha Upanishad đã viết: “ Atman chẳng thể nào nhận biết được bởi
học vấn, bởi sức mạnh của trí óc. Atman chẳng thể nào nhận thức được bằng
giác quan. Tự ngã mở cửa giác quan ra ngoài, bởi thế người ta chỉ trông ra thế
giới bên ngoài mà không nhìn về cái bản ngã”.4
Tiểu kết chương 1:
Chính những thay đổi về kinh tế xã hội cộng với vị trí địa lý của Ấn Độ
đã đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển tư duy triết học, từ tư duy đa
thần, mê tín, tập trung vào các bùa chú dần dẫn đến những nhận thức, tư duy
mang tính khái quát, trừu tượng và siêu hình.

Có thể khái quát đặc điểm triết học Ấn Độ thành những điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng nghĩa là các nhà triết học thường kế tục mà không gạt
bỏ hệ thống triết học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra
4

The Upanishads, vol 1, Katha Upanishad I,2,23, Bonanza Boos, New York, 1949, Doãn

Chính, (1999), Lịch sử triết học cổ đại Ấn Độ, NXB Thanh niên, Tr.125.

13


một hệ thống triết học mới. Các luận thuyết triết học đầu tiên là kinh thánh
Veda, một trong những bộ kinh cổ của Ấn Độ. Các luận thuyết triết học sau
thường dựa vào các luận thuyết triết học trước. Các nhà triết học sau thường
là kế thừa và phát triển các quan điểm của các nhà triết học trước mà không
nhằm mục đích tạo ra thứu triết học mới. Đa số các hệ thống triết học dựa vào
tri thức đã có trong Veda, nhưng mức độ nội dung của nó đã được thay đổi.
Đây là một điểm hết sức đặc biệt của hệ thổng triết học Ấn Độ, nó phản ánh
sự trì trệ của xã hội Ấn Độ cổ đại.
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở
tín ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm
tới vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo dù cách tiếp
cận của mỗi trường phái là khác nhau. Mục đích của triết học Ấn Độ là để đạt
đến sự giải thoát, trừ bỏ chủ nghĩa duy vật. Với mục đích giải thoát nên mỗi
hệ thống triết học Ấn Độ là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát.
Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng vấn đề chủ yếu là vấn đề

con người, bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Đặc điểm đặc biệt trong triết học
Ấn Độ là nó phân con người thành những yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm
có ý nghĩa quyết định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi sâu nghiên cứu, phân
tích cái tâm của con người. Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu được thế
giới thế giới trước hết phải hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì hiểu tất cả vì
bản thể vũ trụ có trong mỗi con người.
Như vậy, giải thoát là vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian vì thời
gian biểu hiện sự tồn tại của sự vật. Giải thoát là trạng thái chân như, vượt
qua tất cả mọi giả tướng, ảo ảnh để nhận thức được bản thể vũ trụ tuyệt đối và
chân bản tính của con người.
Tuy hai phái chọn 2 con đường tu tập giải thoát khác nhau nhưng cuối
cùng đều gặp nhau ở mục đích của việc giải thoát. Đó là việc giải thoát con
14


người khỏi những giá trị ảo, phủ nhận các giá trị thực tại và đạt đến chân lí đó
là nhận thức được Brahman. Các trường phái triết học chính thống nói chung
đều đề cao giải thoát bằng tự thân mình. Việc thờ thần, tế lễ chỉ là nấc thang để
đạt đến giác ngộ giải thoát. Tất cả các trường phái triết học và tôn giáo Ấn Độ
không chỉ lấy tư tưởng giải thoát làm mục đích tối cao cho tư tưởng triết học
của mình mà còn tận tâm tận lực bằng mọi con đường cách thức và phương
pháp khác nhau để cố gắng đưa con người ta đạt tới sự giải thoát. Và mục đích
giải thoát cuối cùng đó là đưa linh hồn tiểu ngã hòa nhập lại với cái bản ngã –
linh hồn vũ trụ tối cao.

15


Chương 2. Tư tưởng giải thoát của trường phái Vedanta
2.1 Nguồn gốc, lịch sử hình thành của trường phái Vedanta

Cho tới ngày nay, triết hệ Vedanta vẫn ảnh hưởng rất bao quát và sâu
sắc. Có thể hiểu từ ngữ Vedanta theo hai nghĩa. Nghĩa gốc của nó là “cuối
thời kinh Veda” tức là chuyển qua thời kỳ các Upanishad. Tự thân từ ngữ
Vedanta có nghĩa là cứu cánh và mục đích của kinh Veda. Như thế, triết hệ
Vedanta quan tâm ưu tiên tới Brahman, thực tại tối hậu được mô tả trong các
Upanishad. Vedanta là kết hợp của chữ “Veda” và “anta”. Chữ “anta” có
nghĩa là “kết cuộc”. Vedanta nghĩa đen là hoàn thiện kinh Veda. Do đó triết
hệ Vedanta cũng tự xem mình có nghĩa vụ cung cấp liên tục các thông giải
triết lí cho những tư liệu rộng lớn và muôn hình muôn vẻ trong kinh Veda.
Triết học Veđanta thừa nhận sự tồn tại của linh hồn vũ trụ Brahman vĩnh hằng
và Atman – linh hồn cá nhân. Mục đích tu đạo là giải thoát atman khỏi sự vây
hãm ràng buộc của ham muốn nhục dục thể xác, để Atman nhận ra bản tính
thần thánh và quay về với Brahman bằng con đường tu luyện, suy tư, chiêm
nghiệm tâm linh. Cái siêu hình của Veđanta nằm ở cái vĩnh hằng của
Brahman, và duy tâm của Veđanta thể hiện ở việc coi vật chất chỉ là ảo ảnh
do vô minh mang lại, linh hồn mới tồn tại và chi phối. Triết học Veđanta
mang đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm khách quan siêu hình.
Triết lý căn bản nhất của Veda và Upanishad mà Vedanta lấy làm cơ sở cho
học thuyết triết học của mình đó là tư tưởng cho rằng bản chất sâu xa của mọi
cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ trụ nảy sinh và hòa nhập về với nó khi tiêu
tan, đó là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Brahman là thực thể duy nhất,
tuyệt đối và vĩnh viễn, bất diệt và vô hình. “Brahman là nguồn sáng của mọi
nguồn sáng”5, là nguồn sống, linh hồn của vũ trụ. Linh hồn cá biệt chỉ là sự
hiện thân của Brahman trong mỗi chúng sinh, chỉ có thể tri giác Brahman
5

Shri Aurobindo, (1973), Áo Nghĩa Thư Upanishad, An Tiêm, Sài Gòn, Tr.297 dẫn theo, PTS. Doãn Chính,
(1998) sách Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, NXB Chính trị Quốc gia, Tr.295.

16



bằng tận hiến và trầm tư mặc tưởng. Vedanta giải thích rành mạch lý do của
tình thế ấy như sau:
Thứ nhất, Brahman không có thuộc tính. Không có gì có thể tượng trưng cho
Brahman. Brahman không là ‘cái này’ hoặc ‘cái kia’, không là thành phần của
thế giới hiện tượng;
Thứ hai, Lý trí chỉ có thể ứng xử bằng các khái niệm, các thuộc tính hoặc các
cái tượng trưng; và cuối cùng, thế nên lý trí không thể lãnh hội Brahman.
Cũng như các triết hệ Ấn Độ khác, Vedanta bao gồm ý tưởng về karma
(nghiệp báo), rằng mọi sự là kết quả của các hành động thiện hoặc ác được
thể hiện trong quá khứ.
Vedanta lấy ngay tên kinh Vedan, thể hiện tính chất hữu thần và duy
tâm. Các nhà triết học Vedanta cho rằng Brahman là tinh thần vũ trụ, bản chất
của vũ trụ. Thế giới quan mà Vedanta cho rằng là một thế giới thông thường
như chúng ta nhận thức trong thực tế chỉ là hư ảo, ảo tưởng, ảo hóa. Thực tai
căn bản và duy nhất là Brahman. Đây là lối tiếp cận được đặt tên là phi nhị
nguyên nghĩa là không có 2 thực tại. Thế giới này là một hệ thống đang tiến
hóa và biến đổi, được sản sinh bởi hữu thể thiêng liêng, thế giới này không có
thật. Thế giới như chúng ta biết tới, có thể như một giấc mộng mà chúng ta
đang trải qua giấc mộng ấy. Thực tại tuyệt đối và duy nhất là Brahman, đồng
hóa với bản ngã Atman. Họ trung thành với khái niệm Brahman và Atman, là
cơ sở triết học của phái Hindu. Vedanta có 2 trường phái:
Trường phái thứ nhất là Shankara: Người sáng lập triết hệ Vedanta là Sankara
(k.788-820 SCN), còn gọi là Sankaracarya. Khởi nguyên của triết hệ này là
cuốn kinh Brahmasutra, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của triết
học Ấn Độ. Kinh ấy gồm có 555 câu châm ngôn và những câu thơ về triết học
Vedanta, theo truyền thuyết được qui cho người sưu tập là Badarayana, một

17



nhà thông thái Ấn Độ sống khoảng thế kỷ thứ nhất TCN hoặc thế kỷ 2 hay 3
SCN. Sách lưu truyền và được tiếp tục chú giải qua nhiều đời hiền triết.
Bộ chú giải sau cùng và nổi tiếng nhất có tên là Vedanta, của Sankara.
Tuy nhà hiền triết và thánh nhân ấy chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi 32 năm,
nhưng ông được đánh giá là triết gia vĩ đại nhất của Ấn Độ. Trong bộ
Vedanta, nghĩa là hoàn thiện kinh Veda, Sankara nêu ý kiến của mình về các
Upanishad, kinh Bhagavad-Gita và kinh Brahmasutra. Ông cho rằng thế giới
thông thường như chúng ta tri giác, trong thực tế, chỉ là maya, hư ảo. Thực tại
căn bản và duy nhất là Brahman. Đây là lối tiếp cận được đặt tên là advaita:
phi nhị nguyên, nghĩa là không có hai thực tại, chỉ một thôi. Trường phái này
cho rằng thực thể tinh thần của vũ trụ là tuyệt đối.Họ cũng đưa ra quy luật vô
thường, tức là không có gì là vĩnh viễn cả. Nhận thức về sự vật là giả, là ảo vì
không có gì là vĩnh hằng.
Con người cần phải hiểu được vũ trụ tối cao và hòa nhập tinh thần của
vũ trụ gọi là giải thoát. Con đường giải thoát đó là đừng tin vào cảm giác, vào
vĩnh hằng, thỏa mãn được nhận thức mà mình đang sống.
Con người cũng như là các vật đều là vô thường, ảo tướng bởi vì thực
tướng đều do vũ trụ, con người không thể nhận thức được. Tất cả đều nằm
trong vô thường. Cho nên con người chỉ có một cách duy nhất là vượt qua cảm
giác, suy luận để đến với trực giác trí tuệ.
Phái này hình dung ra 2 thế giới: đó là thế giới của vũ trụ thì tinh khiết
và thế giới khách quan, linh hồn con người bị giam hãm trong thể xác, nó bị
nhào lặn trong cái không của thời gian.
Vì thế con người phải rèn luyện cái nhận thức trực giác trí tuệ, thực
nghiệm tâm linh. Khi con người hòa nhập được với tinh thần vũ trụ thì con
người có thể bỏ được mọi mê hoặc, từ bỏ được mọi dục vọng, không còn so
sánh, tư lợi , không còn băn khoăn. Khi chút bỏ hết sự so sánh phân biệt thì lúc
đó sẽ thanh thản, tự tại.


18


Phái Shankara giải thích vũ trụ là từ nhất nguyên, đưa đến tri thức 2 thế
giới, dẫn đến giải thoát. Các sự vật, hiện tượng muôn hình muôn vẻ, luôn ở
trong quá trình biến hóa vô thường của vũ trụ, nhưng thực chất chỉ là ảo, do vô
minh của ta mà thôi. Do cái maya và cái vô minh của ta mà ta cảm thấy mọi
vật với vô số hình dạng, màu sắc luôn biến đổi. Sankara quan niệm có hai thế
giới, đó là thế giới hiện tượng và thế giới bản chất. Thế giới hiện tượng là thế
giới hữu hình, hữu hạn và luôn luôn biến hóa, sinh diệt trong không gian và
thời gian theo luật Karma, dưới sự sáng tạo và điều khiển của Ishvara. Ishvara
là thượng đế của thế giới hiện tượng. Hiểu biết thượng đế cũng như hiểu biết
thế giới, hiện tượng chỉ là bậc nhận thức hạ trí. Và con đường giải thoát của họ
là tập trung vào trực giác trí tuệ.
Phái thứ hai là phái Visista Advaita. Tuy cùng quan điểm với môn phái
Advaita, thừa nhận Brahman là nguyên lý tinh thần tuyết đối tối cao sáng tạo
thế giới, là bản thể tối cao duy nhất, từ đó nảy sinh ra mọi cái tồn tại, là cái mà
trong đó, mọi cái sống sau khi sinh ra, là cái mà mọi cái tồn tại nhập vào sau
khi tiêu tan, nhưng khi giải thích về thế giới, môn phái thứ hai của Vedanta lại
phân biệt toàn thể vũ trụ ra ba thực tại liên hệ với nhau, nhưng lại có sự phân
biệt nhau về vai trò, tính chất và uy thế.
Phái này cho rằng vũ trụ có 3 thứ tồn tại: vật chất, linh hồn cá biệt và
Thượng đế. Mỗi thực thể có vai trò, uy thế riêng, nhưng chúng tồn tại trong sự
liên hệ phụ thuộc và quy định lẫn nhau. Trong đó thực tại thấp nhất, thụ động,
phụ thuộc nhất là vật chất, là thể xác. Thực thể cao nhất có vai trò sáng tạo, chi
phối và truyển sinh lực cho vũ trụ vạn vật đó là linh hồn vũ trụ tuyệt đối, tối
cao bất diệt Brahman, là thượng đế. Linh hồn cá biệt chỉ là sự biểu hiện của
linh hồn tối cao Brahman thì cả linh hồn Atman lẫn thể xác con người (hay vật
chất) chỉ tồn tại một cách không có sinh khí, không có sức sống. Như vậy, về

bản chất, linh hồn Atman là đồng nhất với hồn vũ trụ tối cao. Nhưng vì linh
hồn hiện thân trong mỗi nhục thể của chúng sinh nên người ta lầm tưởng rằng
linh hồn cá biệt là cái khác với linh hồn tối cao, nó cũng có sinh có diệt như
19


thể xác con người. Trong thể xác có vật chất và linh hồn. Linh hồn của cá nhân
lại chịu sự chi phối của linh hồn vũ trụ. Linh hồn vũ trụ mang bản chất cao cả,
linh hồn cá nhân lại chi phối thể xác.
Chi phái này vẫn chủ trương rằng con người giải thoát bằng cách từ
bỏ ham muốn, dục vọng để đưa linh hồn cá nhân của mình đến với linh hồn
vũ trụ.
Xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của mình, Veđanta thừa nhận về sự
đồng nhất giữa linh hồn cá biệt với linh hồn tối cao Brahman và sự siêu thoát
linh hồn của người khỏi nghiệp báo, luân hồi.
2.2 Nội dung tư tưởng giải thoát trong trường phái Vedanta
Giải thoát theo môn phái Advaita là phải nhận thức được bản thể tối
cao, và hòa nhập với bản thể tối cao đó. Nhưng muốn linh hồn con người
đồng nhất với linh hồn vũ trụ tối cao, con người ta không thể dùng nhận thức
cảm giác và suy luận logic, tức lí trí, mà phải bằng nhận thức trực giác, chiêm
nghiệm, vén mở nội tâm, thực nghiệm tâm linh lâu dài. Vì ngũ quan và tri
năng của ta bị lôi kéo bởi thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường biến
như ảo ảnh phù du, nên ta không thấy rõ cái linh hồn vũ trụ tối cao, tuyệt đối
duy nhất, bất biến sau mọi linh hồn cá thể. Thực chất thì linh hồn không phải
là một thực thể riêng rẽ của ta, do ta, mặc dù nó hiện thân trong thân xác của
ta. Chúng chỉ là sự biểu hiện khác nhau của linh hồn vũ trụ tối cao trong mỗi
chúng sinh mà thôi. Phải vượt qua thế giới hiện tượng đó bằng nhận thức trực
giác, “thực nghiệm tâm linh”, con người ta mới đạt tới một thế giới bản chất
chân thực, tuyệt đối bất biến – đó chính là linh hồn sáng tạo vũ trụ tối cao
Brahman. Theo Shankara, khi đã nhận thức được bản chất của linh hồn và bản

thể tinh thần tuyệt đối tối cao, duy nhất, hội nhập vào bản thể ấy, nguồn sống
vĩnh viễn ấy của vũ trụ; con người ta sẽ trút bỏ được mọi sự ràng buộc mê
hoặc của thế giới vật dục, diệt được mọi dục vọng, tư lợi nhỏ nhen, không còn
ý thức về sự sa ngã từ đó tâm tịnh, vô dục, an lạc, tự tại. Đó chính là sự đồng
20


×