Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

tiểu luận: đề tài tiền công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.49 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Tiền công là động lực lớn thúc đẩy con người tích cực làm việc, tuy nhiên,
với nhiều người, nó cũng đồng thời là nguyên nhân gây trì trệ, bất mãn hoặc từ bỏ
công việc của mình. Tiền công là một trong những yếu tố quan trọng nhất để tăng
năng suất lao động vì tiền công là mục đích chính của người lao động. Bất cứ một
cá nhân hay tập thể lao động trước và trong khi làm việc cũng đều suy nghĩ: mình
được gì và có quyền lợi như thế nào khi tham gia lao động. Đó luôn là vấn đề nhức
nhối của hầu hết các doanh nghiệp, cơ quan ở Việt Nam. Đây đã từng là một đề tài
gây tranh luận lớn tại Quốc hội trong nhiều năm qua và hiện nay nó vẫn còn là vấn
đề nóng bỏng đối với nước ta. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Phải cải cách cơ
bản chế độ tiền công, nâng cao đời sống của người hưởng lương, chống đặc quyền
đặc lợi”. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu được thể hiện tập trung ở lợi ích
trực tiếp, thúc đẩy người lao động làm việc và làm việc có năng suất, chất lượng,
hiệu quả. Tuy nhiên, tiền công mà người lao động được hưởng trong nhiều doanh
nghiệp ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của
người lao động. Việc nâng cao tiền công thực tế của người lao động ở Việt Nam là
một nhiệm vụ cấp bách, cần được thực hiện triệt để. Cải cách tiền công ở nước ta
diễn ra trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên
phải đảm bảo không xa rời lý luận của cách mạng về tiền công mà điểm mấu chốt
là tiền công phải đảm bảo đầy đủ giá trị sức lao động.Vì vậy, em chọn đề tài “lý
thuyết tiền công của C.Mác và chính sách tiền công ở nước ta hiện nay” nhằm
hiểu rõ hơn về lý thuyết tiền công và đưa ra nhận xét khách quan về hệ thống chính
sách tiền công của Việt Nam trong gian đoạn hiện nay.

1


I. VẤN ĐỀ TIỀN CÔNG CỦA C.MÁC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN.
1. Khái niệm, bản chất của tiền công
Tiền công (tiền lương) là khoản tiền người lao động được hưởng sau khi đã đóng
góp lao động và chuyên môn để nỗ lực tạo ra sản phẩm cho người chủ (người sử


dụng lao động) và thường được thuê với hợp đồng làm việc (giao kèo) để thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng.
Bản chất của tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động,
là giá cả của hàng hóa sức lao động . Nhưng trong xã hội tư bản, tiền công thể hiện
ra như là giá cả của lao động. Đó là do:
- Hàng hóa sức lao động có đặc điểm là không bao giờ tách khỏi người bán, hơn
nữa người bán chỉ nhận được giá cả sau khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người
mua, tức là sau khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, hay chính là sau khi
đã lao động.
- Nhà tư bản bỏ tiền ra là để có sức lao động. Các nhà tư bản tìm cách mua được
sức lao động càng rẻ càng tốt, và giải thích rằng lợi nhuận là do mua được hành hóa
dưới giá trị và bán hàng hóa trên giá trị. Số lượng tiền công nhiều hay ít là tùy theo
ngày lao động dài hay ngắn hoặc tùy theo kết quả lao động nhiều hay ít.
- Số lượng tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm
sản xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.
Hình thức bên ngoài của tiền công đã ngụy trang rất kín đáo sự bóc lột của chủ
nghĩa tư bản. Nó đã biểu hiện quan hệ bóc lột thành một quan hệ “thuận mua vừa
bán”, “tự do”, “bình đẳng”, giữa công nhân và nhà tư bản. Nó đã xóa mờ mọi dấu
vết của sự phân chia ngày lao động thành lao động tất yếu và lao động thặng dư,
thành lao động có công và lao động không công.

2


2. Những hình thức cơ bản của tiền công
- Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó
ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay
ngắn. Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công
tháng.Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay
là thấp, vì nó còn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn.

=> Để đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công
ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả
của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
- Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó
phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà
công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành. Mỗi sản phẩm
được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng
thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng
sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày.
=> Về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết
sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức
chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian. Chính vì vậy, hiện tiền công tính theo
sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao
động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân lao động tích
cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
-Tiền công danh nghĩa
Là số tiền mà người công nhân nhận được khi bán sức lao động cho nhà tư bản.
Mọi khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho ngưới lao động (gồm tiền
lương, phụ cấp, phúc lợi,…) đều là tiền công danh nghĩa. Tuy nhiên, bản thân tiền
công danh nghĩa chưa phản ánh đầy đủ mức trả công thực tế cho người lao động.
3


- Tiền công thực tế
Là toàn bộ những tư liệu sinh hoạt, số hàng hóa, dịch vụ mà người công nhân
mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình sau khi đã đóng góp và trừ đi các
khoản theo quy định. Rõ ràng tiền công thực tế phản ánh đúng mức sống của người
lao động và giá trị tiền công mà họ nhận được.
- Mối quan hệ giữa tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế

Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên tiền công danh nghĩa
phải được chuyển hoá thành tiền công thực tế. Tiền công thực tế phụ thuộc tỉ lệ
thuận với tiền công danh nghĩa và tỉ lệ nghịch với giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Tiền công thực tế =
Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao động, nó có thể tăng lên hay
giảm xuống tùy theo sự biến động trong quan hệ cung-cầu về hàng hóa sức lao
động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ
nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dung và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền
công thực tế giảm xuống hay tăng lên. C.Mác đã chỉ rõ tính quy luật của sự vận
động tiền công trong chủ nghĩa tư bản như sau: trong quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, bởi các nhân tố làm tăng
giá trị sức lao động như: sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự
phát triển của khoa học công nghệ làm tăng năng suất lao động. Nhưng, mức tăng
của nó thực tế không theo kịp với mức giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, cùng
hiện tượng thất nghiệp diễn ra thường xuyên và các đợt khủng hoảng kinh tế, lạm
phát. Khi đó tiền công thực tế của giai cấp công nhân đang có xu hướng hạ thấp,
đồng thời cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là yếu tố cản trở xu hướng đó.

4


II. VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ TIỀN CÔNG VÀO THỰC TIỄN
ĐỂ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Tìm hiểu chung
Trong nhiều năm gần đây, vấn đề tiền công rất được quan tâm và chú trọng ở
nước ta. Tiền công (hay tiền lương) luôn thay đổi, biến động qua từng năm, từng
thời kỳ kinh tế. Sau đây là một số khảo sát về tiền lương trong những năm gần đây:
- Mức lương bình quân của một số ngành:
+ Ngành đạt mức lương cao nhất là hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm với
mức lương tháng trung bình là 7,23 triệu đồng.

+ Các ngành dẫn đầu khác bao gồm hoạt động chuyên môn, KHCN 6,53 triệu.
+ Hoạt động kinh doanh bất động sản 6,4 triệu đồng.
+ Lương một nhân viên maketing tầm tầm ở các công ty nhỏ cũng từ 3 triệu
đồng/tháng trở lên.
+Mức lương trung bình cho vị trí quản trị văn phòng ở công ty trong nước là 2–3
triệu đồng/tháng. Vị trí giám đốc nhân sự lương thậm chí từ 1000–2000 USD/tháng
+ Trong khi đó, hoạt động làm thuê những công việc trong hộ gia đình có mức
lương tháng thấp nhất - 2,35 triệu đồng.
+ Cuối cùng là nhóm ngành nông, lâm, thủy sản đạt 2,63 triệu đồng.
- Mức tăng lương bình quân năm 2014:
+ Mức tăng trung bình của tất cả các ngành được khảo sát là 9,6%
+ Mức tăng lương trung bình năm 2014 của ngành dược là cao nhất, đạt 11,2%.

5


+ Ngành bảo hiểm có mức tăng lương trung bình thấp nhất, ở mức 7,2%.
2. Chính sách tiền công ở Việt Nam
Chính sách tiền công ở Việt Nam hiện hành thực chất dựa trên nền tảng cải cách
chính sách tiền công được quy định tạm thời thực hiện từ năm 1993. Sau 20 năm
thực hiện cải cách chính sách tiền công và các chính sách có liên quan. Trong đó,
tiền lương của công chức hành chính và của công nhân viên chức chưa được xem
như một kênh đầu tư hiệu quả cho sự phát triển của xã hội.
Tiền lương công chức hành chính không đủ sống nhưng thực tế thu nhập của
công chức hành chính lại khá cao, đặc biệt là đội ngũ công chức hành chính có
chức vụ. Điều đó chứng tỏ có nhiều khoản thu nhập ngoài lương. Trong đó, nhiều
khoản thu nhập công khai có nguồn gốc từ ngân sách. Chứng tỏ rằng, nếu đưa
những khoản thu nhập này vào tiền lương sẽ làm cho tiền lương công chức hành
chính cao hơn và minh bạch hơn.
Tiền công lệ thuộc vào thâm niên chưa đánh giá đúng trình độ và sự đóng góp

thực tế của công chức hành chính. Tiền công không được trả dựa trên công việc
được giao và mức độ hoàn thành công việc, do đó không tạo được động lực và áp
lực làm việc cho công chức hành chính.
Đội ngũ người hưởng lương từ ngân sách quá lớn nên gây khó khăn cho cải cách
chính sách tiền công. Trong khi đó, tiền lương của công chức hành chính bị đánh
đồng với các đối tượng khác do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò tiên phong của
đội ngũ này trong phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Chính sách tiền công hiện nay còn ngang bằng giữa các địa phương, giữa các
vùng miền nên chưa khuyến khích được các địa phương tích cực cải cách hành
chính nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước cũng như nỗ lực của đội ngũ
công chức hành chính địa phương.
6


Cơ chế tạo nguồn để thực hiện Đề án cải cách tiền lương và quản lý tiền lương
đã đề ra cách đây 20 năm cơ bản không thay đổi và không tạo chuyển biến lớn. Cơ
chế đặt ra chung chung, thiếu căn cứ và dữ liệu cần thiết, không có phương thức
thực hiện cụ thể, không giải quyết được vấn đề từ gốc.
Luật tiền lương tối thiểu được đưa ra mang lại nhiều lợi ích cho người lao động
nhưng đồng thời cũng đem đến nhiều khó khăn cho doanh nghiệp cũng như các cơ
quan nhà nước.
3. Mặt tích cực
- Các thang lương bảng lương có cơ sở khoa học phù hợp với điều kiện kinh tế
thị trường. Trong quá trình vận động mức tiền lương luôn luôn đổi nhưng giữa các
bậc lương, thang lương vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đây là điểm cơ bản
của chính sách tiền lương mới.
- Bộ số tiền lương được mở rộng vừa phải phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
và đảm bảo khuyến khích lao động có trình độ cao.
- Chế độ tiền lương mới được thực hiện tiền tệ hóa hoàn toàn, đảm bảo sự cân
bằng trong sự phân phối, xóa bỏ bao cấp trong tiền lương tạo điều kiện hạch toán

đầy đủ tiền lương có giá thành sản phẩm.
- Cơ chế quản lý tiền lương có nhiều thay đổi phù hợp với cơ chế thị trường cơ
chế quản lý tiền lương lần này đã có tách riêng hai khu vực sản xuất kinh doanh và
khu vực quản lý hành chính nhà nước.
- Tách dần tiền công khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính Nhà
nước và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền công với chính
sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế tiền công, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, tự chịu trách
nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả công gắn với chất
lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa.
7


- Giúp cho người lao động thoả mãn nhu cầu lợi ích của mình, giúp họ đảm bảo
duy trì cuộc sống và tái sản xuất sức lao động, nâng cao trách nhiệm làm việc, hoạt
động lâu dài với công ty.
4. Mặt hạn chế
Tuy có nhiều điểm tích cực nhưng chính sách tiền lương ở nước ta cũng chứa
không ít mặt hạn chế.
- Duy trì quá lâu một chính sách tiền công tương đối thấp với cán bộ nhà nước.
- Quan hệ tiền lương tối thiểu chưa hợp lý, nhất là hệ số trung bình quá thấp.
- Trong khi tiền công không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao và
không có giới hạn, không minh bạch, cũng không kiểm soát được.
- Tiền công Nhà nước quy định trả cho cán bộ mặc dù còn rất thấp, nhưng tổng
quỹ lương và trợ cấp do ngân sách Nhà nước bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá cao trong
tổng chi ngân sách.
- Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công còn chậm
và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải
cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho cán bộ nhà nước.
- Phạm vi áp dụng: do chính sách và chế độ tiền lương của nước ta vẫn còn nhiều

vấn đề bất hợp lý giữa tiền công và thu nhập của người lao động ở các thành phần
kinh tế khác nhau. Mức tiền công nhìn chung vẫn còn thấp. Chế độ tiền công hiện
đang áp dụng cho người lao động không phản ánh đúng giá trị sức lao động và
không phù hợp với những biến đổi của giá cả trên thị trường, còn mang tính bình
quân cao, chưa thực hiện đồng bộ với các chính sách kinh tế xã hội như bảo hiểm
xã hội, giáo dục và đào tạo...
Nguyên nhân
- Năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh còn thấp.
- Mục tiêu của doang nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận mà người lao động lại ít ám
hiểu pháp luật lao động.
8


- Các doanh nghiệp chưa sử dụng hệ thống thang bảng lương của nhà nước.
- Các doanh nghiệp tư nhân ở gian đoạn đầu phát triển còn gặp nhiều khó khăn.
- Hệ thống luật pháp về tiền công, lao động chưa hoàn thiện, còn nhiều hạn chế,
chính sách giữa các ngành, các cấp quản lý chưa đồng bộ.
- Nhà nước chưa có biện pháp chặt chẽ thi hành các quy định trong vấn đề trả
công cho lao động làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân.
- Đa số các doanh nghiệp chưa ký thỏa ước lao động, trả lương theo hợp đồng.
- Công đoàn chưa được thành lập và hoạt động ở nhiều doanh nghiệp tư nhân.

KẾT LUẬN
Thông qua những vấn đề mà em vừa đưa ra, chúng ta đã hiểu rõ hơn về lý
thuyết tiền công của C.Mác và chính sách tiền công của nước ta trong gian đoạn
hiện nay. Lý thuyết về tiền công của C.Mác là sự tiếp tục phát triển lý thuyết về
tiền công của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Nhưng nó đã vạch rõ bản chất của
tiền công dưới đã bị che đậy bởi chủ nghĩa tư bản. Những luận điểm của Mác về
tiền công vẫn còn giá trị đến ngày nay. Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên
lý về tiền lương của Mác trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

có ý nghĩa rất lớn.Chính sách tiền lương có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của người lao
động, nó liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp cũng như cả
một quốc gia. Một hệ thống chính sách tiền công hợp lý sẽ là nền móng tốt cho sản
xuất, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức nhân sự, khuyến
khích tinh thần làm việc của người lao động, đảm bảo được thu nhập của người lao
động gắn với năng lực và kết quả thực hiện công việc cầu họ. Thực tế rằng, tiền
công của người lao động Việt Nam còn ở mức thấp, chưa phản ánh đúng giá trị lao
động cũng như không phù hợp với những biến đổi của giá cả trên thị trường. Mặc
dù chính phủ đã đưa nhiều chính sách nhằm thay đổi thực trạng này, nhưng hầu hết
các giải pháp đều tỏ ra thiếu hiệu quả, chưa có tác động rõ ràng tới mặt bằng chung
9


tiền công của người lao động, dẫn đến không thể nâng cao được năng suất lao
động, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Muốn đưa
nền kinh tế Việt Nam phát triển thì trước hết phải nâng cao khả năng cạnh tranh
cũng như năng suất lao động của các doanh nghiệp, điều đó chỉ có được khi tiền
công của người lao động được cải thiện, đáp ứng được mức sống tối thiểu. Một khi
mức sống người lao động được cải thiện, thu nhập lâu dài của họ được nâng cao thì
nền kinh tế mới phát triến, đất nước trở nên giàu mạnh, bắt kịp với xu hướng của
thế giới.

10



×