Chiến lược khai thác than bền vững ở Quảng Ninh
MỞ ĐẦU
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm: đất, nước, biển, rừng, sinh
vật… Trong đó tài nguyên khoáng sản đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tài nguyên
1
khoáng sản Việt Nam được đánh giá là rất phong phú và đa dạng do đặc điểm địa hình và
khí hậu như: đá vôi, sắt, dầu khí, đồng… Đặc biệt, than đá là khoáng sản có trữ lượng lớn
và chất lượng cao nhất Đông Nam Á. Trong đó, Quảng Ninh là tỉnh tập trung trữ lượng
lớn than ở Việt Nam.
Hoạt động khai thác than có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước, xong việc khai thác thiếu quy hoạch tổng thể, không quan tâm đến môi
trường đã và đang làm biến động nguồn tài nguyên thiên nhiên như ô nhiễm không khí, ô
nhiễm nguồn nước bao gồm nước mặt và nước ngầm cũng như ảnh hưởng tới sức khỏe
cộng đồng. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải làm sao để quản lý, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên một cách có hiệu quả vừa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy, nhóm 11 xin nghiên cứu và trình bày tiểu luận “Chiến lược khai thác than
bền vững ở Quảng Ninh”.
Tiểu luận “Chiến lược khai thác than bền vững ở Quảng Ninh” mong muốn cung
cấp những thông tin cơ bản nhất, thực tế nhất về thực trạng khai thác than ở Quảng Ninh,
những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động này đến tình hình kinh tế - xã hội và đề
xuất một số giải pháp để hướng tới sự phát triển bền vững của ngành khai thác than ở
Quảng Ninh.
2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
I.
1. Khái niệm phát triển bền vững
1.1.
Khái niệm phát triển bền vững
Đầu thập niên 80, thuật ngữ “Phát triển bền vững” lần đầu tiên được sử dụng trong
chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình môi trường Liên hiệp quốc đề
xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO với nội dung rất đơn giản: "Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Tuy nhiên, khái niệm này chính thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo
Brundrland (1987). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "Sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...” Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm
có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ.
Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức
xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh
tế - xã hội - môi trường. Định nghĩa này mặc dù còn chung chung nhưng đã nhấn mạnh
được hai yếu tố quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đó là vấn nạn môi trường mối
tương quan của nó với sự phát triển kinh tế; và nhu cầu của sự phát triển đó đối với mục
tiêu xóa đói giảm nghèo.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi
trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một
thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy
mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
3
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội
nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại Johannesburg, Cộng
hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã
hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển
bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng
lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái.
Theo Tổ chức ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): "Phát triển bền vững là một
loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao
chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế
hệ trong tương lai".
1.2.
Một số mô hình phát triển bền vững
Có nhiều lý thuyết, mô hình mô tả nội dung của phát triển bền vững. Theo Jacobs
và Sedler hình 1.2.a, thì phát triển bển vững là kết quả của các tương tác qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau của ba hệ thống chủ yếu của thế giới: Hệ thống kinh tế (hệ sản xuất và
phân phối sản phẩm); hệ thống xã hội (quan hệ của con người trong xã hội); hệ thống tự
nhiên (bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi
trường của Trái Đất). Trong mô hình hình 1.2.a., sự phát triển bền vững không cho phép
vì sự ưu tiên của hệ này dễ gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay phát triển
bển vững là sự dung hoà các tương tác và thoả hiệp giữa ba hệ thống chủ yếu trên.
4
Hình 1.2a Mô hình PTBV theo Jacobs và Sadler, 1990
Theo mô hình của ngân hàng thế giới như hình 1.2.b. phát triển bền vững được
hiểu là sự phát triển kinh tế xã hội để đạt được đồng thời các mục tiêu kinh tế (tăng
trưởng kinh tế, công bằng trong phân phối thu nhập, hiệu quả kinh tế của sản xuất cao),
mục tiêu xã hội (công bằng dân chủ trong quyền lợi và nghĩa vụ xã hội), mục tiêu sinh
thái (báo đảm cân bằng sinh thái và bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên nuôi dưỡng con
người).
5
Hình 1.2b. Mô hình PTBV theo Ngân hàng thế giới
Để minh họa rõ hơn cho khái niệm này, chúng ta hãy cùng tham khảo 2 mô hình
sau:
Hình 2.2a: Ba trụ cột của phát triển bền vững: kinh tế, xã hội, môi trường
6
Hình 2.2b: Ba vòng tròn đồng tâm (từ trong ra ngoài: kinh tế, xã hội, môi trường)
7
Như vậy, về cơ bản, nói đến phát triển bền vững không đơn thuần chỉ là nói về
riêng việc bảo vệ môi trường mà còn bao hàm cả phương diện xã hội và kinh tế.
Các mô hình trên đã minh họa rõ nét điều này. Đó là 3 mặt của một vấn đề, là ba
trụ của một ngôi nhà, là ba hình oval lồng ghép chặt chẽ với nhau và là ba vấn đề có sự
đan xen lẫn nhau.
2. Các lý thuyết về sự giới hạn của tài nguyên
2.1 Lý thuyết Vent-for-surplus Hla Myint (1965, 1971)
Các nước Đông Nam Á vào cuối thế kỉ XIX có mật độ dân cư thấp, đất bỏ hoang
chưa sử dụng, giàu tài nguyên thiên nhiên (TNTN). Khi quá trình đô hộ bắt đầu cũng là
lúc những nguồn TNTN của các nước thuộc địa được khai thác triệt để hơn. Quá trình
khai thác, xuất khẩu dựa chủ yếu vào vốn nước đô hộ, do đó phần lớn lợi nhuận từ xuất
khẩu TNTN (chủ yếu dưới dạng thô) thuộc về các nước tư bản. Phần còn lại thuộc về đại
đa số dân chúng ở các nước thuộc địa mà tập trung vào một số người dành một phần chi
trả cho những hàng hóa xa xỉ nhập khẩu. Vì vậy, nguồn thu từ xuất khẩu đủ lớn nhưng
không giúp nâng cao mức sống của đại bộ phận dân chúng. Đây chính là hạn chế trong
phát triển kinh tế của các nước thuộc địa. Độc quyền cũng là một rào cản quan trọng
khiến nền CN trong nước không thể phát triển mạnh được.
2.2. Lý thuyết Staple theory của Harold Innis (1933)
Lý thuyết này góp phần lý giải quá trình phát triển ở những vùng đất chưa hoặc
mới được khai thác dưới tác động của thương mại quốc tế (xuất khẩu TNTN). Ở Canada
vào thế kỷ XIX, các mặt hàng chủ lực như cá, lông thú, gỗ, nông sản và khoáng sản chủ
yếu được xuất khẩu đi châu Âu. Việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực sẽ tạo ra nguồn thu
nhập cao hơn, kích thích tiêu dùng rộng lớn, thúc đẩy thương mại, CN trong nước (trước
hết để hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực). Nguồn thu từ các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực sẽ được duy trì liên tục dựa trên cơ sở lấy TNTN làm bước đệm sau đó
8
giảm dần sự phụ thuộc vào TNTN. Mức độ phụ thuộc vào TNTN giảm dần cùng với yếu
tố con người phát triển sẽ giúp duy trì động lực tăng trưởng. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ từ các
hàng hóa công cộng như giao thông, cơ sở hạ tầng, thể chế cũng góp phần quan trọng
trong việc duy trì liện tục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Khi nguồn TNTN phục vụ cho
xuất khẩu mặt hàng chủ lực nào đó cạn kiệt, sẽ phải có mặt hàng xuất khẩu thay thế. Tuy
nhiên, sẽ cần có thời gian trước khi nền kinh tế trong nước thực sự phát triển đạt mức tích
lũy cần thiết, phục vụ cho tái đầu tư vào sản xuất, thúc đẩy CN và thương mại tăng
trưởng. Sự phát triển thành công hay không còn phụ thuộc vào vai trò của chính phủ trong
việc cung cấp hàng hóa công cộng vốn là tiền đề cho sản xuất và xuất khẩu.
2.3. Căn bệnh Hà Lan
Từ thực tế của Hà Lan trong những năm 50 của thế kỷ XX, chúng ta rút ra được
những nguy cơ tiềm ẩn của nền kinh tế dựa quá nhiều vào xuất khẩu TNTN. Khi phát
hiện ra nguồn khí gas tự nhiên vào cuối những năm 50, Hà Lan bắt đầu xuất khẩu mạnh
mặt hàng này, lợi nhuận thu được đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
lượng ngoại tệ thu về tăng cao trong một thời gian ngắn đã khiến đồng nội tệ lên giá, các
mặt hàng xuất khẩu khác của Hà Lan trên thị trường thế giới gặp bất lợi, ngành CN trong
nước giảm sút và tỷ lệ thất nghiệp tăng. Với các quốc gia khác nói chung, các ngành khai
thác TNTN (khí tự nhiên, dầu mỏ…) có đặc trưng là thâm dụng vốn. Vì vậy, dù có khả
năng tạo việc làm mới cũng khó có thể bù đắp được lượng việc làm mất đi trong lĩnh vực
nông nghiệp và các ngành CN khác. Thu nhập từ xuất khẩu TNTN có khả năng góp phần
thúc đẩy cầu đối với những hàng hóa phi ngoại thương và dịch vụ, từ đó mở ra cơ hội việc
làm mới. Tuy nhiên, việc chuyển giao lao động giữa các ngành có độ trễ nhất định.
Căn bệnh Hà Lan đã từng lặp lại ở một số quốc gia châu Phi và Mỹ La Tinh vốn
dựa nhiều vào xuất khẩu dầu mỏ, khí tự nhiên… Tuy nhiên, cũng có những quốc gia dựa
vào xuất khẩu TNTN để tăng trưởng nhưng không mắc phải căn bệnh Hà Lan nhờ phân
phối lợi nhuận một cách phù hợp và các chính sách tài chính hợp lý. Lợi nhuận xuất khẩu
cao trong ngắn hạn nhưng tác động của nó sẽ là dài hạn nếu quốc gia biết điều tiết và sử
9
dụng hợp lý. Tóm lại, việc phát triển dựa trên khai thác TNTN thiếu sự điều tiết vĩ mô có
thể ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế của quốc gia.
Từ những khái niệm, mô hình và lý thuyết nói trên, chúng ta có thể nhận thức được
tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên trong phát triển kinh tế để hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững. Giữa tài nguyên và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau,
đó là mối quan hệ tương tác, thường xuyên và lâu dài. Tài nguyên thiên nhiên là một
trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất, là cơ sở để phát triển các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên còn là
cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt về năng
lượng giúp cho một quốc gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng
trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài nguyên thế giới bị rời vào trạng thái
bất ổn.
Tuy nhiên tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết
khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. Hiện nay, việc lạm dụng tài nguyên thiên nhiên
để phát triển kinh tế đã khiến trữ lượng tài nguyên giảm thiểu và ô nhiễm nghiêm trọng,
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Không có gì sai nếu sử dụng
tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế nhưng để phát triển bền vững cần phải đảm
bảo các tài nguyên có thể tái tạo được khai thác ở mức thích hợp.
II. THỰC TRẠNG KHAI THAC THAN Ở QUẢNG NINH
1. Tình hình khai thác than ở Việt Nam
1.1. Trữ lượng và công nghệ khai thác
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về tài nguyên than. Tổng tài nguyên và trữ
lượng than ở Việt Nam lên tới 48,7 tỉ tấn. Theo tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam,
10
riêng ở Quảng Ninh trữ lượng than đã khoảng 10,5 tỉ tấn (trong đó đã tìm kiếm thăm dò
3,5 tỉ tấn, chiếm khoảng 67% trữ lượng than đang khai thác trên cả nước hiện nay); khu
vực đồng bằng sông Hồng được dự báo có khoảng 34,5 tỉ tấn; còn lại là các mỏ than ở các
tỉnh khác. Tuy nhiên, theo thống kê của Cơ quan thong tin Năng Lượng Mỹ (EIA) trữ
lượng than của Việt Nam chỉ vào khoảng 165 triệu tấn.
Than Việt Nam ở hai dạng chính: hầm lò và lộ thiên, phân bố chủ yếu ở Quảng
Ninh và các tỉnh phía Bắc như Lạng Sơn, Thái Nguyên. Trong Tập đoàn Than Việt Nam
Vinacomin có khoảng 20 mỏ khai thác hầm lò, trong đó có 7 hầm lò có công suất trên
1.000.000 triệu tấn than trở lên 1 năm bao gồm mỏ Mạo Khê, Nam Mẫu, Vàng Danh, Hà
Lầm, Mông Dương, Khe Chàm và Dương Huy. Các mỏ hầm lò còn lại cũng đang được
nâng cao năng suất lên đạt 300.000 tấn – 800.000 tấn than/năm.
Tỉ trọng than khai thác theo phương pháp hầm lò hiện nay vào khoảng 55%. Ở hầu
hết các hầm lò hiện nay áp dụng công nghệ khai thác giếng nghiêng kết hợp lò bằng từng
tần, sử dụng băng vận tải để vận chuyển than trên giếng chính. Một số mỏ khác có điều
kiện tự nhiên không thuận lợi chỉ có thể áp dụng phương pháp khai thác nông được mở
vỉa bằng mỏ bằng, vận tải bằng tàu điện. Công nghệ khai thác phổ biến trong các hầm lò
là lò chợ chia cột dài theo các phương, còn ở một số hầm mỏ không có điều kiện thuận lợi
thì được áp dụng công nghệ riêng phù hợp như vỉa dày, vỉa cốc… Hiện nay, Vinacomin
đang cố gắng chuyển dịch công tác khấu than từ công nghệ khoan nổ mìn sang công nghệ
cơ giới hóa. Điều này có thể giúp tăng năng suất lao động, giảm tiêu hao lao động và từng
bước nâng cao thu nhập cho thợ mỏ. Công tác chống giữ các đường hầm lò đang dần
được nâng cấp hiện đại hơn, an toàn hơn theo hướng thủy lực hóa các lò chợ khai thác
than và trang bị dàn chống cơ giới hóa trong các lò chợ có điều kiện khai thác thuận lợi
thay cho việc sử dụng gỗ chống lò. Đồng thời mở tiết diện các đường lò để cải thiện điều
kiện lao động cho công nhân và ứng dụng thiết bị cơ giới hóa để giảm tổn thất than và
tăng năng suất lao động.
11
45% than còn lại được khai thác theo phương pháp lộ thiên. Hiện nay, Việt Nam
có khoảng 30 mỏ và các điểm được khai thác bằng phương pháp lộ thiên, trong đó có 6
mỏ lớn với công suất từ 800.000 tấn – 1.500.000 tấn/năm, các mỏ còn lại công suất từ
200.000 – 400.000 tấn/năm. Công nghệ khai thác than lộ thiên hiện nay được áp dụng là
hệ thống cơ giới hóa toàn bộ, sử dụng bãi thải trong và bãi thải ngoài. Phương pháp chủ
yếu là khoan, vì thế thiết bị công nghệ chủ yếu được sử dụng là các loại khoan xoay cầu
với đường kình mũi khoan khoảng 100 – 250 mm, máy xúc với dung tích gầu xúc 4 – 5
m3 và 8 – 12 m3 để đào sâu xuống lấy than, sau khi xúc lên than được vận chuyển đến nhà
máy hoặc cảng tiêu thụ bằng ô tô hoặc liên hợp ô tô – băng chuyền. Trong một số năm
gần đây, xuất hiện các mỏ xuống sâu dưới mức thông thủy tự nhiên. Các mỏ này phải
được áp dụng phương pháp khai thác khác, đó là sử dụng máy xúc thủy lực gầu ngược để
đào sâu đáy mỏ. Khai thác than lộ thiên đang phát triển theo hướng mở rộng mỏ để tăng
tuổi thọ mỏ, khai thác có chọn lọc để tiết kiệm được tài nguyên than cũng như nâng cao
chất lượng sản phẩm than, đồng thời nâng cấp công nghệ, thiết bị khai thác, vận tải.
1.2. Sản lượng khai thác than
1.2.1.Từ trước năm 2000
Ngành than Việt Nam đã có lịch sử tồn tại trên 100 năm với đội ngũ công nhân có
truyền thống cách mạng kiên cường lại được Đảng và Nhà nước quan tâm giúp đỡ, được
Liên Xô (cũ) trước đây trang bị trong nhiều năm.
Trong 40 năm qua, ngành than Việt Nam đã sản xuất và cung ứng 150 triệu tấn
than sạch, đáp ứng nhu cầu cơ bản của ngành điện, xi măng, vật liệu xây dựng, chất đốt
sinh hoạt. Than chiếm khoảng 50% trong cán cân năng lượng – nhiên liệu quốc gia trong
thời gian dài. Nếu phải nhập khẩu than với giá nhập khẩu bình quân 40 USD/tấn thì
ngành than đã đóng góp cho đất nước 6 tỷ đôla Mỹ, doanh số thực hiện theo thời giá quốc
tế.
Trong những năm 1985-1988, ngành than đã đạt được sản lượng cao nhất trong
lịch sử với sản lượng than nguyên khai từ 6,3 triệu tấn/ năm đến 7,6 triệu tấn/ năm. Đỉnh
cao của ngành than rơi vào hai năm 1987 – 1988. Riêng năm 1988 đã khai thác được 7,6
12
triệu tấn than nguyên khai, sàng tuyển được 6,3 tấn than sạch. Từ năm 1989 khi tổ máy
của thủy điện Hòa Bình đi vào vận hành và nền kinh tế nước ta bị khủng hoảng thì nhu
cầu sử dụng than giảm nghiêm trọng kéo theo việc sản xuất và tiêu thụ than. Năm 1989
sản xuất than tụt xuống còn 4,2 triệu tấn nguyên khai. Từ 1992 đến 1994, sản xuất than
tăng lên nhờ tăng xuất khẩu và bán cho một số ngành công nghiệp khác. Có thể nói trong
các năm 1991 – 1994 ngành than rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề do nạn khai thác
than trái phép với chi phí thấp đã đẩy các công ty than, các mỏ than chính thống vào tình
thế khó khăn. Năm 1995, Công ty Than Việt Nam ra đời tạo điều kiện cho ngành than có
cơ hội phục hồi và từng bước phát triển mạnh mẽ hơn. Trong 7 năm từ 1995 đến 2001 đã
sản xuất 74,109 triệu tấn than thương phẩm.
1.2.2.Từ năm 2000 đến nay
Năm 2001, sản lượng than khai thác là 12 triệu tấn. Con số này tăng dần theo từng
năm. Đến năm 2004, sản lượng than khai thác được đã lên tới 26 triệu tấn. Năm 2007,
sản lượng là 40 triệu tấn, đứng thứ 6 trong các nước châu Á và thứ 17 trên thế giới, chiếm
0,69% sản lượng thế giới. Tuy vậy, so với Trung Quốc hoặc Mỹ thì sản lượng của Việt
Nam vẫn là một con số vô cùng khiêm tốn.
Thống kê năm 2010 của BP Năng lượng khảo sát cho biết, kết thúc 2009 Việt Nam
có lượng dự trữ than đá là 150 triệu tấn, đưa vào sản xuất được 45 triệu tấn chiếm 0.73%
của tổng số thế giới
13
Theo số liệu mới nhất từ báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản
Việt Nam, than tiêu thụ tháng 7 năm 2015 ước đạt 3,08 triệu tấn, tăng 21,9% so với tháng
7 năm 2014, tính chung 7 tháng năm 2015 ước đạt 20,83 triệu tấn, giảm 1,07% so với
cùng kỳ năm 2014.
1.3. Phân bổ ngành than Việt Nam
1.3.1.Xuất khẩu
Ngành khai thác than của Việt Nam phục vụ hai mục tiêu chính: tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.Từ những năm trước Việt Nam chủ yếu sản xuất than để xuất khẩu,
tuy nhiên đến năm 2010 kế hoạch này đã thay đổi, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu
than trong nước. Theo số HASC thống kê được, sản lượng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam từ năm 2003-2009 như sau:
Bảng: Sản lượng và xuất khẩu than Việt Nam
Đơn vị: triệu tấn
14
Nguồn: HASC tổng hợp
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam thuộc những quốc gia có
hoạt động khai khoáng ở mức độ vừa phải, với sản phẩm từ khai khoáng đóng góp từ 15 –
50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Một số lĩnh vực công nghiệp khai khoáng đã không
còn phụ thuộc vào xuất khẩu, nhất là than đá, với tỷ trọng xuất khẩu giảm mạnh những
năm gần đây. Tuy vậy, xuất khẩu than vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu GDP của
Việt Nam. Trong năm 2011, chúng ta đã xuất khẩu 17 triệu tấn than với giá trị 1,6 tỷ
USD. Năm 2012, chúng ta xuất khẩu 15,2 triệu tấn thu được 1,21 tỷ USD. Năm 2013
chúng ta đã xuất khẩu 12,8 triệu tấn, trị giá xuất khẩu là gần 916 triệu USD. Nhưng đó chỉ
mới tính con số xuất khẩu chính thức, có thống kê được. Tình trạng khai thác lậu, xuất lậu
than khu vực Quảng Ninh từ trước tới nay đã rất nhức nhối và không thể thống kê được.
Hiện nay ngành than có một thị trường xuất khẩu khá rộng lớn: Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc, Đức, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Cuba, các
nước EU, Philippin, Nam Phi,… Đối tác xuất khẩu than lớn nhất của Việt Nam là nước
bạn Trung Quốc.
15
Bảng: Một số thị trường xuất khẩu lớn của than Việt Nam
Nguồn: tinthuongmai.vn
1.3.2.Tiêu dùng trong nước
Than khoáng sản là nguồn nguyên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. Hiện
nay, lượng than được khai thác trên thế giới và Việt Nam được sử dụng trong các ngành
năng lượng, phục vụ sản xuất nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp sử dụng chất
đốt… Sản lượng than tiêu dùng trong nước chủ yếu phân bố ở ngành công nghiệp điện
(30 đến 50% tổng sản lượng ngành than) và các ngành công nghiệp khác như xi măng,
phân bón, luyện kim,…
Việt Nam nằm trong top những nước tiêu thụ năng lượng tương đối lớn so với khu
vực và trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao của Việt Nam giúp
cải thiện mức sống của người dân và làm tăng nhu cầu sử dụng năng lượng. Hiện nay ở
nước ta, than đang là nguồn nhiên liệu chủ yếu để tạo ra nhiệt điện. Trên thực tế, theo dự
16
báo Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm
2030, Chính phủ cũng đã nêu vấn đề rằng nhu cầu than trong nước đang ngày càng tăng
cao. Năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 triệu tấn,
và cho đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải tiêu thụ tới 220,3 triệu tấn.
Bảng: Cơ cấu nguồn năng lượng của Việt Nam dự tính đến 2030
Nguồn: EIA
Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015, nhu cầu than
trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần. Trong khi đó, sản
lượng than hiện tại mới chỉ đạt 40 triệu tấn và tương lai cũng khó tăng. Do những chỗ dễ
đào đã được khai thác hết, chỉ còn lại những chỗ khó khăn. Hơn nữa, việc đầu tư mỏ mới
cần chi phí lớn, thời gian dài (khoảng 300-400 triệu USD và 7-8 năm) nên nhiệm vụ Thủ
tướng giao ngành than phải mở 28 mỏ mới trong giai đoạn 2011 – 2015 gần như không
thể hoàn thành. Bài toán nhập khẩu than được đặt ra từ đây.
17
Thế nhưng, dù ngành than đã lên kế hoạch nhập khẩu trong 2016 - 1020,
Vinacomin vẫn xây dựng kế hoạch xuất khẩu trong giai đoạn tương ứng.
Việt Nam sẽ trở thành nước nhập khẩu than trước năm 2020. Nếu không đảm bảo
được kế hoạch khai thác hợp lý và tiết kiệm nguồn tài nguyên than, tình huống phải nhập
khẩu than sẽ xuất hiện sớm hơn vào khoảng năm 2015-2018. Điều đó cho thấy vấn đề
đảm bảo nguồn than cho sản xuất điện của Việt Nam sẽ chuyển từ giới hạn trong phạm vi
một quốc gia thành một phần của thị trường quốc tế và chịu sự tác động thay đổi của nó.
2. Tác động tích cực
2.1. Tác động đến nền kinh tế đất nước
2.1.1.Khai thác than ở Quảng Ninh đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước
Theo tính toán, than đóng góp tới 41% trong tổng nguồn nhiên liệu cho sản xuất
điện trên thế giới, gần gấp hai lần so với nguồn nhiên liệu đứng thứ hai là khí tự nhiên.
Như vậy, than đóng vai trò trụ cột trong sản xuất và cung cấp điện tại hầu khắp các châu
lục và cũng là nguồn cung cấp năng lượng ổn định và an toàn cho những nước trên thế
giới.
Ở Việt Nam, cũng không ngoại lệ, lượng than tiêu thụ cho sản xuất điện chiếm
khoảng 32% tổng trữ lượng than khai thác được trên cả nước. Quảng Ninh là nơi cung
cấp than chủ yếu cho các nhà máy nhiệt điện Uông Bí, Cẩm Phả… Đây được coi là nguồn
nhiệt điện chính và ổn định để đáp ứng nhu cầu năng lượng của khu vực phía Bắc.
Không những vậy, than còn đáp ứng nguồn nhiên liệu đầu vào cho nhiều ngành
sản xuất công nghiệp khác như sản xuất xi măng, giấy, phân bón…thúc đẩy sản xuất và
phát triển kinh tế.
Theo dự đoán của Cơ quan năng lượng quốc tế, nhu cầu sử dụng than sẽ duy trì ở
mức ổn định thậm chí tăng nhẹ trong các năm tới (tính đến khoảng năm 2035, than vẫn
đóng vai trò chính trong sản xuất điện, chiếm khoảng 45%). Do vậy, khai thác than ở
Quảng Ninh vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp một nguồn nhiên liệu,
năng lượng ổn định, phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất trong nước.
18
2.1.2 Khai thác than xuất khẩu, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Than là một trong những mặt hàng xuất khẩu mang lại nguồn thu lớn. Năm 2004, ở
Quảng Ninh, lượng than khác thác và tiệu thụ khoảng 25 triệu tấn than, trong đó xuất
khẩu khoảng 10.5 triệu tấn. Điều này mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia nói chung,
cung cấp thêm vốn để nâng cao hiệu quả khai thác thác than ở Quảng Ninh nói riêng,
đồng thời cũng tạo ra thu nhập cho người lao động.
Xét về góc độ kinh tế, khai thác than ở Quảng Ninh không chỉ đáp ứng nhu cầu về
nhiên liệu trong sinh hoạt và sản xuất cho người dân nơi đây, mà còn đóng góp rất to lớn
cho cả nước; thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế khu vực và cả nước. Hoạt
động xuất khẩu than cũng đem lại những lợi thế nhất định cho đất nước.
2.2
2.2.1
Tác động đến chính trị- xã hội
Thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế , nâng cao đời sống nhân dân
Qua việc cung cấp nguồn năng lượng ổn định cho sinh hoạt và sản xuất, khai thác
than ở Quảng Ninh góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là
nhân dân địa phương.
Hiện nay, khai thác than đóng góp khoảng 1/3 GDP và hơn một nửa ngân sách
hàng năm của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước từ 5% đến 15%, giai
đoạn 2010-2011 có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Năm 2011, doanh thu đạt hơn 109 tỉ
đồng. Có thể nói khai thác than là ngành rất quan trọng đối với tỉnh Quảng Ninh nói riêng
và cả nước nói chung. Không chỉ có những tác động về mặt kinh tế, còn ảnh hưởng rất
lớn tới tình hình chính trị- xã hội
2.2.2
Tạo việc làm, tăng cường an sinh xã hội
Ngành than Quảng Ninh có vị trí quan trọng trong việc cùng địa phương đảm bảo
an sinh xã hội. Khai thác khoáng sản được cho là ngành thâm dụng vốn, nhưng khác thác
than đã tạo ra một lượng việc làm đáng kể cho địa phương, tạo thu nhập cho người dân,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
19
Cụ thể, toàn ngành than có khoảng 140 nghìn lao động thì ngành than Quảng Ninh
chiếm khoảng 120 nghìn lao động. Tạo vieeci làm cho 120 nghìn lao động, giảm sức ép
về lao động và các tệ nạn xã hội, góp phần giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Với mức
lương trung bình hiện tại của ngành là 7.2 triệu đồng/người/tháng, tại Quảng Ninh thu
nhập trung bình khoảng 7.5-7.8 triệu đồng/người/tháng, đây là động lực không nhỏ thúc
đẩy hoạt động xã hôi của quảng Ninh phát triển.
3. Những hạn chế trong khai thác than ở Quảng Ninh
3.1. Tác động tiêu cực đến môi trường
Mặc dù tốc độ khai thác than ở Quảng Ninh tăng nhanh trong những năm qua
nhưng các doanh nghiệp than thuộc Tập đoàn than- Khoáng sản Việt Nam chưa đầu tư
trang thiết bị sản xuất tương ứng và hoàn nguyên môi trường sau khai thác. Do đó, môi
trường Quảng Ninh bị hủy hoại năng nề, và người dân nơi đây đang từng ngày phải gánh
chịu hậu quả.
3.1.1 Ô nhiễm môi trường nước
Trước đây, nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy nước mặt cũng như nguồn nước
ngầm ở Quảng Ninh có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu phục vụ cho ăn uống , sinh hoạt,
sản xuất , chăn nuôi. Nhưng hiện nay, hoạt động khai thác ở các khu mỏ làm ô nhiễm
nguồn nước một cách nghiêm trọng.
Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ
thúc đẩy quá trình hòa tan, rữa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá; quá trình
tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước; chất thải rắn, bụi thải không xử lý chặt chẽ
tham gia vào thành phần nước mưa, nước tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên… là
những tác động hóa học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hóa học của nguồn
nước xung quang mỏ.
Mức độ ô nhiễm hóa học các nguồn nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm
thân quặng, thành phần thạch lọc và độ bền vững của đất đá chứa quặng; phương pháp và
trình độ công nghệ khai thác; biện pháp quản lý và xử lý chất thải… Mà hiện nay ở Việt
20
Nam, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng chủ yếu do công nghệ khai thác còn khá lạc hậu,
chưa chú trọng nhiều đến vấn đề xử lý chất thải và đặc biệt là do công tác quản lý của cơ
quan nhà nước chưa chặt chẽ.
Than có hàm lượng lưu huỳnh lớn nên việc gây ô nhiễm nước không tránh khỏi. Ở
một số nơi, nước thải chứa axit và các kim loại nặng như chì, kẽm, măng gan, thủy ngân...
cũng sẽ bị hòa tan trong nước, ngấm vào đất, ăn vào nguồn nước. Độ pH của nước thải
mỏ luôn dao động: 3.1-6.5. Hàm lượng cặn lơ lửng thường vượt tiêu chuẩn cho phép: từ
1.7 đến 2.4 lần, có nơi lên hơn 8 lần.
Vùng Hòn Gai- Cẩm Phả: Nước ở đây đã thay đổi cơ bản: giàu ion sunfat, giảm
ion bicacbonat, mang tính axit. Nguồn nước bị suy giảm cả về chất lượng và trữ lượng.
Kết quả điều tra tại 150 giếng khoan, mạch lộ với kết quả 64 mẫu nước cho thấy, nguồn
nước đã bị ô nhiễm đặc biệt là nhiễm bẩn Nitơ-,hóa chất cực độc đối với sức khẻ con
người. Nguồn nước ở đây bị cạn kiệt, hiện 100% số hộ dân trong thôn không có nước
sạch để dùng.
Ở khu vực Đông Triều – Uông Bí, nước bị nhiễm khuẩn coliform với hàm lượng
cao, đặc biệt ở hồ Nội Hoàng Trạch Bạch, khuẩn coliform vượt hơn 86 lần. Cặn lơ lửng,
BOD ( nhu cầu oxy sinh học) trong nước suối Lép Mỹ, Khe Tam vượt quá tiêu chuẩn cho
phép, nước bị chua hóa, gây khó khăn lớn cho sản xuất nông nghiệp tại đây.
Ô nhiễm nước nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của không chỉ công nhân
các hầm mỏ mà còn tới các người dân ở các khu dân cư lân cận. Nguồn nước sinh hoạt bị
nhiễm độc nặng. Nước thải ở các mỏ than đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
sông, ngòi, vùng ven biển như gây bồi lấp, làm mất nguồn thủy sinh, làm thay đổi chất
lượng đất nông nghiệp trên địa bàn ảnh hưởng tới các lĩnh vực trồng trọt, nuôi trồng thủy
sản… Nhiều bãi thải không có các công trình xử lý đã bồi lấp ruộng vườn, sông, suối
khiến lòng sông bị bồi lắng gây ra lũ lụt, gây thiệt hại nặng nề. Đặc biệt, nước thải ngấm
vào đất, ăn sâu vào nguồn nước của Vịnh Hạ Long, hay hiện nay bãi thải khu phường Hòa
Khánh nay cao tới 300m dẫn đến việc Vịnh Hạ Long có nguy cơ thành cái chảo hứng các
21
chất ô nhiễm. Tất cả các luồng chảy đều dẫn ra Vịnh Hạ Long. Rừng ngập mặn là hệ sinh
thái rất quý giá, giúp ngăn chặn các chất thải độc từ các khai trường đổ xuống. Nhưng giờ
toàn bộ khu rừng ngập mặn ở Hạ Long đã bị tàn phá. Như vậy đa dạng sinh học ở Vịnh
Hạ Long có nguy cơ đe dọa, ảnh hưởng nghiêm trọng tới di sản văn hóa thế giới, tới sự
phát triển của ngành du lịch.
3.1.2
Ô nhiễm không khí
Không khí ở Quảng Ninh bị ô nhiễm nặng nề do các hoạt động khai thác than từ
các mỏ.
Ô nhiễm bụi
Rất nhiều nơi ở tỉnh Quảng Ninh bị ô nhiễm không khí do bụi từ hoạt động khai
thác than; sàng,tuyển than và vận chuyển than gây ra như Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí..
Ở tất cả các công đoạn sản xuất mỏ đều sinh ra bụi. Theo thống kê, khi khai thác
1000 tấn than ở mỏ hầm lò tạo ra 11-12 kg bụi còn ở mỏ lộ thiên mức độ này gấp 2 lần. Ở
các mỏ lộ thiên, nồng độ bụi quanh máy xúc khi làm việc lên tới 400mg/m 3, khi phá nổ
đất đá 1 m3 bằng mìn nổ sinh ra 0.027- 0.17 kg bụi.
Đặc biệt, quá trình vận chuyển than của các đoàn xe tải khiến ô nhiễm không khí
do bụi càng lan rộng. Các đoàn xe tải lớn chở đất đá, than không che chắn, chạy với tốc
độ cao trên đường khiến bụi phát tán mù mịt, cây cối bên đường phủ bụi trắng xóa, sông
ngòi đen kịt…
Một trong những ví dụ điển hình là môi trường thị xã Uông Bí, lượng bụi do sản
xuất than ở khu vực phường Vành Danh là 750- 800 tấn bụi/ năm. Tổng lượng bụi do sản
xuất than, hoạt động giao thông vận chuyển than tại thị xã Uông Bí khoảng 1.900-2.200
tấn/ năm. Nồng độ bụi trung bình vượt tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần, thậm chí vượt đến 10
lần vào những ngày trời hanh khô.
Ô nhiễm khí độc
22
Trong nhiều năm nay, hoạt động khai thác, gây nổ mìn khiến một lượng lớn khi
độc thoát ra từ các vỉa than và đất đá bao quanh như metan, butan, sunfuahidro,
cacbonnoxit… Tại các khu sàng, nghiền chế biến than lại xảy ra quá trình oxy hóa làm
suy giảm oxy cần thiết để hô hấp ảnh hửng trực tiếp tới công nhân, và đồng thời làm môi
trường không khí bị ô nhiễm khoảng rộng.
3.1.3
Ô nhiễm tiếng ồn
Ngoài các dạng ô nhiễm ở trên, hoạt động khai thác còn gây ô nhiễm tiếng ồn
nghiêm trọng. Tại các mỏ lộ thiên, các máy khoan, bãi nổ mìn, xe vận tải cỡ lớn, các băng
tái, búa hơi, máy gò…là nguồn gây tiếng ồn chủ yếu. Trong hầm lò, độ ồn cao do âm
thanh từ tiếng xe goòng, máy khoan không thể phát tán trong đường hầm. Các công nhân
tại đây phải chịu tiếng ồn liên tục trong suốt thời gian làm việc. Ra khỏi các khu khai
thác, các xe vận chuyển than qua các trục đường quốc lộ cũng khiến người dân phải chịu
hằng ngày.
Không những vậy, để giảm chi phí vận chuyển, nhiều công trình sử dụng than như
nhà máy điện, xi măng, thậm chí tới đây là nhà máy hóa chất được xây dựng trong khu
vực này. Bên cạnh sự ô nhiễm trong hoạt động khai thác than, các nhà máy nói trên cũng
sẽ tạo ra một lượng lớn bụi, các hợp chất hữu cơ nằm trong than thải ra môi trường cũng
như một số khí SO2, CO2, NOX… - là những chất dễ tạo ra mưa axit…Đây là những
hiểm họa lâu dài cho sự phát triển của khu vực.
3.2. Những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội
Điều kiện cơ sở và công nghệ khai thác và xử lý sau khi khi thác than chưa được
cao nên gây ô nhiễm môi trường nặng nề, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người lao
động và cộng đồng dân cư vùng lân cận.
Môi trường làm việc bị ô nhiễm nặng nề: nồng độ bụi ở một số mỏ lớn hơn mức
giới hạn cho phép từ 30 đến 100 lần, lại có nhiều các khí độc hại, nguồn nước bị nhiễm
độc…gây nên nhiều bệnh cho chính người lao động và thường kéo dài lâu năm như: đau
mắt, những bệnh liên quan đến hệ hô hấp như viêm phổi, xoang, lao....những bệnh liên
23
quan đến hệ thần kinh, tiêu hóa…Đặc biệt, tỷ lệ các bệnh ở hệ hô hấp của công nhân mỏ
chiếm tỷ lệ khá cao so với toàn quốc. Gần một nửa số người mắc bệnh phổi silic trong
toàn quốc tập trung tại các vùng kahi thác mỏ. Ngoài ra, các bệnh khác như viêm phế
quản mãn tính chiếm 60%, lao chiếm 4%... Tiếng ồn ở mỏ nhiều khi cao từ 97- 106 dBA,
vượt mức tiêu chuẩn cho phép đã làm nhiều công nhân bị bệnh điếc nghề nghiệp… Rung
cục bộ do điều khiển búa khoan cầm tay cũng gây các thương tổn đến xương, khớp và hệ
thần kinh của người lao động.
Các mỏ thường đang khai thác ở nước ta thường ở cạnh khu vực dân cư, có khi rất
gần, thậm chí có sự xen kẽ với khu vực dân cư sinh sống và thường chưa có các biện pháp
bảo vệ hữu hiệu, nên các chất độc hại được thải ra từ khu khai thác, ảnh hưởng trực tiếp
không chỉ với công nhân mà cả cư dân sống tiếp giáp khu vực khai thác và chế biến.
Tác động của ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe của lao dộng và dân cư
lân cận, làm giảm năng lực sản xuất và chất lượng lao động địa phương, từ đó ảnh hưởng
đến định hướng kinh doanh của nông hộ. Thêm đó, các hộ phải chi trả thêm các khoản chi
phí phát sinh do tình trạng ô nhiễm môi trường gây ra… Nếu môi trường cảu người dân
không được cải thiện thì họ vẫn mắc mãi trong vòng tròn luản quẩn: ô nhiễm moi trường,
đói nghèo, bệnh tât…
Khai thác than khiến cho môi trường dịa chất của khu vực thay đổi, nhiều sông
ngòi bị lắng đọng chất thải thành những sông chết và những “ núi chết” cao ngất ngưởng,
các cây cối không thể sinh sống tồn tại được… và có nguy cơ sạt lở, lũ lụt cao mỗi khi
mưa lớn, nguy hiểm đến tính mạng và tài sản con người.
3.3.
Những hạn chế trong kinh tế
Thứ nhất, công nghệ khai thác chưa hiện dại nên công cuộc khai thác than chưa
hiệu quả. Môi trường vùng than bị suy thoái và ô nhiễm nặng nên theo tính toán chi phí
thiệt hại môi trường do hoạt động than gây ra là rất lớn, bằng khoảng 5% tổng giá thành
than (theo tính toán của chuyên gia nêu trong báo cáo nghiên cứu của Chương trình Kinh
tế & Môi trường Đông Nam Á số 2001). Mức độ tổn thất than còn cao và việc tận dụng
24
các khoáng sản dồng hành còn ít. Điều đó vừa làm giảm hiệu quả khai thác tài nguyên,
vừa làm tăng tác động môi trường. Hằng năm, ngành than tiêu hoa một khối lượng vật tư
rất lớn, nhất là gỗ lò, thuốc nổ công nghiệp, xăng, dầu, điện,… Một số loại vật tư,nhiên
liệu , đặc biệt là nhiều loại vật liệu nổ có độ an toàn thấp, tính năng kĩ thuật chưa tiên
tiến, gây hậu quả xấu tới con người và môi trường.
Chi phí vật liệu, nhiên liệu và động lực trong giá thành than sạch rất cao, chiếm
40% tổng giá thành than. Trong tương lai với quy mô sản lượng than ngày càng gai tăng
cao trong điều kiện khai thác ngày càng khó khăn thì khối lượng tiêu hao vật tư càng lớn,
kéo theo khối lượng các chất thải và tác động môi trường do sản xuất than gây ra ngày
càng trầm trọng hơn và chi phí sản xuất than ngày càng cao hơn.
Thứ hai, tình hình khai thác than tràn lan, khai thác lậu vẫn đang diễn ra. Với cách
khai thác than như hiện nay, trong những năm tới nhu cầu về than trong cả nước nói
chung và Quảng Ninh nói riêng sẽ thiếu hụt trầm trọng. An ninh năng lượng trong nước
không đảm bảo và có thể chúng ta sẽ phải nhập khẩu than trong những năm tới.
Mặc dù, để phân bổ nguồn tài nguyên hợp lý, Chính phủ đã phê duyệt định hướng
sản lượng khai thác các mỏ than của Quảng Ninh qua các năm nhưng thực tế, các mỏ vẫn
khai thác tràn lan và đặc biệt hoạt động khai thác lậu của người dân vẫn diễn ra.
Thứ ba, khai thác than ảnh hưởng tới các ngành khác trong nền kinh tế. Ô nhiễm
môi trường do hoạt động khai thác than gây ra dã ảnh hưởng xấu tới các hoạt dộng nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cả ngành du lịch của Quảng Ninh.
Dưới đây là số liệu của thị xã Uông Bí để thấy tác động của khai thá than tới ngành
sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng của địa phương.
25