Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Diễn ngôn Hà Nội trong văn xuôi của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.4 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.

Đi suốt chiều dọc lịch sử văn học nghệ thuật phương Tây, sẽ không khó khăn để nhận

1.2.

ra sự tồn tại của một mối quan hệ hết sức đặc biệt giữa thành phố và văn học nghệ
thuật. Thành phố không chỉ là nơi khai sinh ra những trào lưu nghệ thuật lớn, không
chỉ là cội nguồn cảm hứng sáng tác cho các nghệ sĩ, cũng không chỉ là đối tượng phản
ánh của nghệ thuật. Thành phố đi vào văn học nghệ thuật như một văn bản, một kiến
tạo thay vì là sự phản ánh một thực thể vật chất tồn tại. Trong những ý niệm đầu tiên,
thành phố đã được hình dung như một trật tự do con người kiến tạo, đối lập với trật tự
của Chúa. Nó khơng phải là một thứ ánh xạ của thiên đường trên mặt đất mà hiện diện
như biểu hiện củasự tha hóa và của cái bất tồn. Nó ln được đặt trong niềm ngưỡng
vọng về cái hồn hảo của những thành phố trên cao, thành phố của Chúa hay thành
phố của Thánh Augustine trong sách Khải huyền. Thành phố tự thân nó đã là một mã
văn hóa lắng đọng trong đó trầm tích lịch sử của cả một cộng đồng từ lúc định cư, trải
qua những thăng trầm thậm chí cho đến lúc diệt vong. Nó chồng xếp những giấc mơ,
những ảo tưởng hay những ngụy tạo văn hóa được tạo ra nhằm một mục đích nào đó.
Ở vị trí trung tâm của tính hiện đại, thành phố được nhìn nhận trong sự đối lập với
nơng thơn, đối lập với tự nhiên, đối lập với tự do, nó trở thành biểu tượng của sự tha
hóa, xung đột các giá trị… Vì thế, nghiên cứu thành phố trong văn học nghệ thuật
không phải đơn giản là đối chiếu nó với thực thể vật chất mà phải nhìn nhận nó như
một biểu tượng, một diễn ngơn được kiến tạo.
Hà Nội với lịch sử 1000 năm khơng ít thăng trầm, trở thành đối tượng của rất nhiều
ngành nghiên cứu như địa lý, lịch sử, khảo cổ học, văn hóa, xã hội học…Đa phần
những cơng trình này đều nghiên cứu Hà Nội như một thực thể vật chất mà chưa đặt
ra vấn đề nó cịn là một thực thể tinh thần. Nó khơng chỉ là sự tổng hợp của các yếu
tố, điều kiện tự nhiên hay những dấu ấn do sự kiện khách quan mang lại mà còn là


thực thể được kiến tạo. Hơn thế, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tuy Hà Nội xuất

1


hiện trong sáng tác của các nghệ sĩ nhưng nghiên cứu hình ảnh Hà Nội trong văn học
nghệ thuật cịn mang tính chất rời rạc, đơn lẻ. Hà Nội chỉ được nghiên cứu như một lát
cắt tại một thời điểm, hiện diện trong một tác phẩm nào đó mà chưa được nhìn nhận
như một văn bản xuyên suốt các diễn ngôn nghệ thuật. Xu hướng xem Hà Nội như
một diễn ngơn và cơ chế kiến tạo hình ảnh Hà Nội trong các diễn ngơn đó cịn tương
đối mới mẻ trong các nghiên cứu về Hà Nội.
Vì lẽ đó, khóa luận của chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Hà Nội như một diễn
ngôn trong văn học nghệ thuật, trong xu hướng nghiên cứu của dịng văn học về thành
phố nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.
Nghiên cứu Hà Nội như một diễn ngôn trong văn học nghệ thuật
Hà Nội xuất hiện nhiều trong các sáng tác nghệ thuật, từ văn chương, hội họa
cho đến âm nhạc, nhiếp ảnh, điện ảnh… Có thể nói Hà Nội là một nguồn cảm hứng
sáng tạo mạnh mẽ cho không chỉ các nghệ sĩ Việt Nam mà cịn cho các nghệ sĩ nước
ngồi. Mặc dù số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật về Hà Nội không nhỏ nhung
những nghiên cứu về Hà Nội trong văn học nghệ thuật khơng nhiều. Chỉ có đơi chỗ
Hà Nội được nhắc đến như là nguồn cảm hứng, đề tài cho sáng tác, đôi chỗ khác, các
nhà nghiên cứu nhắc đến Hà Nội như là bối cảnh của một truyện ngắn hay tiểu thuyết
nào đó chứ khơng phải là “nhân vật chính”, vấn đề trung tâm của tác phẩm. Cho đến
nay, chỉ có những ý kiến rải rác về hình ảnh Hà Nội trong một, một chùm tác phẩm
hay cảm thức đô thị trong sáng tác của một số nhà văn, được khơi nguồn trực tiếp từ
Hà Nội chứ chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về diễn ngôn Hà Nội trong văn học
nghệ thuật . Đáng kể đến nhất là Hội thảo “Về bản sắc văn hóa Hà Nội trong văn học
nghệ thuật thế kỷ XX” do Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam và Viện Mỹ thuật tổ

chức. Tuy nhiên trong hội thảo này cũng chỉ có duy nhất bài tham luận “Nghệ thuật và
thành phố- Chân dung Hà Nội trong mắt nghệ sĩ Việt Nam” của TS Natalia
Kraevskaya và Lisa Drummond “xem xét những xu hướng trong việc diễn giải và
khái niệm hóa Hà Nội như một chủ thể nghệ thuật”[50; 149]. Các bài tham luận khác
hầu hết có tính chất khái qt những đặc điểm của Hà Nội được thể hiện qua sáng tác,
nghĩa là nhìn nhận nó như là một đối tượng phản ánh của nghệ thuật và quan tâm đến
cách thức xử lí những hình ảnh đó bằng phương tiện của các loại hình nghệ thuật.
Trong nghiên cứu của mình, ngay từ đầu, hai nhà nghiên cứu đã xác lập tính chất diễn
2


2.2.

ngôn của sự thể hiện thành phố trong nghệ thuật thị giác: “Nghệ thuật thị giác đương
đại khám phá kinh nghiệm của việc sống trong thành phố, chơi đùa với những chức
năng văn hóa, xã hội, kinh tế và thể chất của thành phố nhằm xây dựng một không
gian đô thị tưởng tượng, Khơng gian này phản ánh hoặc bình xét về những diễn tiến
đô thị đang xảy ra”[50; 149]. Theo hướng đó, nghiên cứu đưa ra các xu hướng chính
trong diễn ngơn mỹ thuật về Hà Nội: 1) Lý tưởng hóa q khứ thơng qua hình ảnh
thành phố lãng mạn; 2) Cái nhìn khơng tưởng về tương lai đơ thị; 3) Sự thu hút của
việc gợi ra bộ mặt “thật” của một Hà Nội đang đổi thay; 4) Ứng xử với đô thị như thể
một căn bệnh [50;149]. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ dừng lại trong khuôn khổ
của nó là nghệ thuật thị giác thế kỷ XX cịn chưa có nghiên cứu nào nhìn nhận Hà Nội
như một diễn ngôn xuyên suốt từ văn học nghệ thuật trung đại đến văn học nghệ thuật
hiện đại.
Nghiên cứu sự hiện diện của diễn ngôn Hà Nội trong sáng tác của Phạm Thị Hồi
và Nguyễn Bình Phương
Cho đến thời điểm này, cả hai cái tên Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương
hầu như đều xa lạ với tư cách là nhà văn Hà Nội. Danh xưng “nhà văn Hà Nội” được
hiểu theo nghĩa rất rộng chứ khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi những nhà văn có gốc

gác, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Trong bài mở đầu cuốn Gương mặt văn học Thăng
Long, GS Nguyễn Huệ Chi đã xác lập khái niệm văn học Thăng Long trên hai cấp độ.
Ở cấp độ thứ nhất, văn học Thăng Long mang tính chất của một nền văn học địa
phương, đứng ngang hang với nền văn học của các địa phương khác như: văn học
Kinh Bắc, văn học Nghệ Tĩnh…Ở cấp độ thứ hai, “Với ưu thế có một mơi trường địa
văn hóa in sâu trong tâm cảm rất nhiều lớp người từ sĩ phu cho đến kẻ ít học như đã
thấy, cần phải nhìn nhận văn học Thăng Long như một cái gì khác hơn là sự tập hợp
của những nhà văn có cùng sinh quán mà trái lại là một sự thăng hoa theo nhiều cấp
độ cả về số lượng cũng như chất lượng” [6; 5]. Mặc dù phạm vi văn học Thăng Long
được mở ra rất rộng, đến mức những nhà văn như Nam Cao hay Nguyễn Minh Châu
đều có sáng tác được tuyển vào các tuyển tập truyện ngắn, tiểu thuyết Thăng LongHà Nội nhưng cả Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương đều rất ít được biết đến với
tư cách nhà văn Hà Nội.

3


Thuộc lớp nhà văn có nhiều cống hiến cho nền văn học bắt đầu từ Đổi mới năm
1986 trở đi, Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương đều nhận được sự quan tâm sâu
sắc của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, đại đa số các cơng trình nghiên cứu này tiếp cận
tác phẩm từ góc độ thi pháp học như : Thiên sứ của Phạm Thị Hoài và những cách
tân trong bút pháp và một triển vọng biểu đạt tiểu thuyết (Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Nguyên, ĐHSP Hà Nội); Hình tượng tác giả trong sáng
tác Phạm Thị Hoài(Luận văn Thạc sĩ của Trịnh Đặng Nguyên Hương), Lời văn nghệ
thuật của Phạm Thị Hoài (Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Huệ), Kỹ thuật dòng ý
thức trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Luận văn Thạc sĩ của Đinh Thị Thu),
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Hồng Nhung), Ngơn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
(Luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị Trang Nhung)… chứ chưa có cơng trình nào ghi nhận
sự hiện diện của diễn ngơn Hà Nội trong sáng tác Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình
Phương.

Lựa chọn đề tài này, chúng tơi mong muốn đem đến một góc nhìn mới về sáng
tác của hai nhà văn này cũng như xác lập một dòng mạch diễn ngôn Hà Nội xuyên
suốt lịch sử văn học mà trên nền đó diễn ngơn của Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình
Phương được tạo sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là diễn ngơn Hà Nội trong văn xi của
Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tơi khảo sát sơ bộ các diễn ngôn Hà Nội từ thời
trung đại cho đến những năm 90 của thế kỉ XX, tập trung nghiên cứu diễn ngôn Hà
Nội trong các tác phẩm của Phạm Thị Hoài in trong tập truyện ngắn Man nương xuất
bản năm 1995 và tiểu thuyết Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tơi khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này là:
- Thứ nhất: xác lập Hà Nội với tư cách một văn bản liên tục được viết lại theo thời gian.
Các diễn ngôn song song tồn tại với nhau, thay thế nhau, giao thoa nhau trong từng
thời kì tạo nên diện mạo Hà Nội trong văn học nghệ thuật

4


Thứ hai: trên nền của những diễn ngơn đó, định vị và định danh kiểu diễn ngôn Hà
Nội của Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương như một khúc ngoặt trong nhận thức
và thể hiện Hà Nội ở các diễn ngôn văn học nghệ thuật
6. Phương pháp nghiên cứu
Để xác lập một dịng diễn ngơn về Hà Nội xun suốt thời kì lịch sử, sau đó tập
trung vào diễn ngơn văn xi của Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương, chúng tôi
sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu sự kiến tạo hình ảnh Hà Nội trên cơ
sở kết hợp các diễn ngơn lịch sử, văn hóa, các diễn ngơn văn học, mỹ thuật, âm nhạc,

điện ảnh, các nghiên cứu trên lĩnh vực kiến trúc và quy hoạch đô thị
- Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê phân loại các diễn ngơn Hà Nội trên các
tiêu chí thời đại, thể loại, cảm thức chủ đạo…
- Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để hình thành những xu
hướng chung trong diễn ngơn Hà Nội cùng thời kì cũng như định hình diện mạo Hà
Nội trong sáng tác của hai nhà văn.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: phương pháp so sánh được chúng tơi vận dụng trong
q trình xác lập dịng mạch diễn ngơn về Hà Nội để làm rõ tính chất kiến tạo của
những diễn ngơn này đồng thời thấy được sự song song tồn tại, liên tục tương tranh
của những ý thức hệ ngầm ẩn đằng sau các diễn ngơn.
- Phương pháp phân tích văn bản và liên văn bản: phương pháp này được chúng tôi sử
dụng để làm rõ diện mạo Hà Nội trong diễn ngôn của Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình
Phương đồng thời xem xét chúng trong tương quan với các diễn ngôn khác để thấy
được tính chất viết lại của những diễn ngơn này.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm có ba chương:
Chương I: Hà Nội trong dịng mạch diễn ngơn về thành phố
Chương II: Phạm Thị Hồi và phản diễn ngơn về Hà Nội
Chương III: Nguyễn Bình Phương và đối diễn ngôn về Hà Nội
-

1.1.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
HÀ NỘI NHƯ MỘT VĂN BẢN
Thành phố như một văn bản
5



“Nếu như thành phố là một văn bản…” Joyce Carol Oates [52; 15]
Trên thế giới hiện nay người ta không cịn nhìn nhận và nghiên cứu thành phố
như một thực thể vật chất thuần túy nữa mà xem thành phố như một văn bản. Khái
niệm văn bản ở đây không được hiểu là văn bản ngôn từ theo quan niệm truyền thống
mà được hiểu là một hệ thống kí hiệu được tổ chức theo một trật tự nhất định, có mối
quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau tạo nên một ý nghĩa nào đó. Khơng thể quy chiếu
văn bản thành phố đến một đối tượng cụ thể, có thật được nữa.Thành phố là một tự sự
chứ không phải là một miêu tả. Trong bài viết “Thành phố và thi ca: Sự tương tác giữa
vật liệu và kí hiệu lời nói”(“City and Poetry: Interaction between material and verbal
signs”), tác giả Anneli Mihkelev đã lược thuật lại các ý kiến liên quan đến văn bản
thành phố, trong đó Marie Klapp cho rằng “kí hiệu đơ thị là sự sáp nhập của một
thông điệp xã hội vào cấu trúc vật chất của đơ thị”’[53]. “Những kí hiệu đơ thị định
hình văn bản thành phố cũng được đưa ra bởi Vladimir Toporov. Ông chỉ ra hai văn
bản cơ sở của văn bản thành phố: cái thứ nhất được định hình bởi những văn bản văn
học cụ thể viết về thành phố, cái thứ hai dựa trên vật liệu và văn hóa tinh thần, những
vật liệu tự nhiên và lịch sử” [53]. Như vậy, văn bản thành phố được tạo dựng từ cả
dạng thức tồn tại vật chất của nó như các cơng trình kiến trúc, quy hoạch đô thị, sự
hiện diện của những biểu tượng văn hóa trong đời sống xã hội… lẫn dạng thức tinh
thần tức là những ý niệm về thành phố được tưởng tượng ra, được thể hiện bằng ngôn
ngữ, trừu xuất ra khỏi những vật thể, tồn tại độc lập với vật thể, trong tâm thức cá
nhân và xã hội.
Thành phố là một thực thể có tính lịch sử vì thế văn bản thành phố cũng có sự
vận động theo thời gian. Nó là một văn bản liên tục được viết đi viết lại xuyên suốt
quá trình lịch sử chứ không phải là một tồn tại bất biến.Bản thân sự thay đổi cảnh
quan đô thị cũng không phải là một thay đổi mang tính chất ngẫu nhiên, nó mang
trong đó sự vận động của ý niệm thành phố. Khi Disneyland xuất hiện ở Hồng Kơng
nó mang the niệm về tồn cầu hóa văn hóa, Hồng Kơng đang trên đường trở thành
một thành phố quốc tế. Khi người Pháp đặt tượng Nữ thần tự do trong lịng Hà Nội nó
đã bao hàm kép một thông điệp xác lập sự hiện diện của người Pháp in dấu ấn lên
cảnh quan đô thị và một thơng điệp về sứ mệnh khai hóa văn minh, về “tự do- bình

đẳng- bác ái” mà người Pháp đem đến xứ Đông Dương. Và người Việt sau này, trong

6


sự trào dâng của nhiệt tình cách mạng, đã phá hủy bức tượng “bà đầm xòe” ở ngã tư
Cửa Nam cũng có nghĩa là xóa bỏ hồn tồn tàn tích của chính quyền thực dân đơ hộ.
Sự vận động của văn bản thành phố không chỉ mang dấu ấn thời gian mà còn
mang dấu ấn tư tưởng hệ rất rõ. Sự quy hoạch thành phố theo một kiểu kiến trúc nào
đó cũng đã thể hiện tư tưởng chủ đạo muốn xây dựng hình ảnh một thành phố cổ hay
một thành phố hiện đại, một thành phố xanh hay một thành phố cơng nghiệp… Dấu
ấn tư tưởng hệ cịn rõ nét hơn trong dạng thức tồn tại tinh thần của văn bản thành phố.
Không lệ thuộc vào cấu trúc vật chất của thành phố, những diễn ngơn này dồn nén
trong mình những ý niệm tưởng tượng về thành phố như huyễn tưởng Utopia của
Thomas Moore hay Thành phố Mặt trời của Thomas Campanella, những ngụy tạo văn
hóa như Riga trong con mắt người Germain, Los Angeles trong mắt người châu Âu…
Thành phố chưa bao giờ là một ý niệm trong suốt, bao giờ nó cũng chịu sự chi phối
của một tư tưởng hệ nhất định. Ngay cả kí ức về thành phố cũng bị kiến tạo bởi tư
tưởng hệ. Kí ức về một thành phố bắt đầu từ chính lịch sử hình thành thành phố đó,
khi một cộng đồng lần đầu tiên lựa chọn cho mình một khơng gian cư trú và tổ chức
nó theo một trật tự nhất định. Kí ức được bồi đắp liên tục theo thời gian, lắng đọng
thành những tầng trầm tích văn hóa, hiện diện trên những tồn tại vật chất và trong tâm
trí con người. Kí ức bao giờ cũng thuộc về q khứ, khơng cách nào có thể xác thực
được cái đã qua.Vì thế, chỉ có cách chúng ta diễn giải những kí ức, cách chúng ta nhìn
nhận và đánh giá về chúng và bóng dáng của một tư tưởng hệ đằng sau tất cả những kí
ức về thành phố.Đến lượt mình, kí ức lại trở thành một ý thức hệ đầy quyền năng giới
hạn nhận thức của con người, giới hạn sự tạo lập những diễn ngôn về thành phố.Diễn
ngôn về Paris rất khó thốt khỏi ám ảnh về một “kinh đơ ánh sáng”, diễn ngơn New
Jerusalem khó thốt khỏi ám ảnh về Eden- vườn địa đàng, trật tự của Chúa, giấc mơ
về sự hồn hảo…

Thành phố khơng bao giờ là một ý niệm thuần nhất cả.Ở thành phố, “Sự hiện
diện của quá khứ đan xen bền chặt với niềm hứa hẹn của tương lai.Khơng có giấc mơ
trong sự biệt lập, tất cả đều được phản ánh và tác động trong một vòng xốy hỗn độn
của sự tồn tại đã qua.Sự tích tụ này, trên mảnh đất và trong tâm trí đã gây nên một sự
lẫn lộn khơng thể nào hịa hợp được trong trật tự các sự vật” [23; 4]. Văn bản thành
phố không bao giờ chỉ đơn giản là mỗi thời điểm một diễn ngôn, diễn ngôn này thay

7


thế diễn ngôn kia trong chiều dài lịch sử mà có sự đồng tồn tại của rất nhiều diễn ngơn
trong cùng một thời điểm. Tại một thời điểm, văn bản thành phố cũng không đơn giản
chỉ là sự chắp nối các diễn ngôn như một bức tranh ghép mà phải thấy rằng những
diễn ngôn ấy không ngừng tương tác, đối thoại với nhau.Tính đối thoại đó cịn bộc lộ
ở quan hệ giữa diễn ngơn ở các thời kì khác nhau.Alan Balfour, trong cuốn The
politics of order đã viết: “Trong sự tiến triển của các thực thể, sự hiện diện thể hình
của rất nhiều quá khứ như vậy đã chối từ sự mổ xẻ bất kì một sự đấu tranh đơn giản
nào và mọi mưu toan muốn tổng hợp hình như lại tạo nên sự vỡ vụn” [23; 4]. Vì thế,
xuyên suốt chiều dài lịch sử , văn bản thành phố vừa được nhìn nhận là một hệ thống
chỉnh thế các diễn ngơn đồng thời lại vừa được nhìn nhận trong sự phân mảnh của các
diễn ngơn đó.
1.2. Viết và viết lại Hà Nội
1.2.1. Lược sử các diễn ngôn về Hà Nội
1.2.1.1. Diễn ngôn Hà Nội thời trung đại
Mốc thời gian đánh dấu điểm khởi đầu của thời kì trung đại trong lịch sử Việt
Nam là năm 938 khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,
chấm dứt gần 1000 năm Bắc thuộc. Ngay sau chiến thắng vẻ vang đó, Ngơ Quyền đã
xưng vương, nước ta trở thành mơt quốc gia độc lập.Thời kì trung đại gắn với chế độ
phong kiến chính thức bắt đầu từ đây. Tuy nhiên, trong những năm tháng khởi đầu
này, sự tranh giành đất đai, quyền lực giữa các thế lực cát cứ trong nước cùng với sự

lăm le xâm lược của nhà Tống ở phương Bắc đã khiến cho tình hình đất nước liên tục
bất ổn. Sự ổn định của chế độ phong kiến Việt Nam chỉ đạt được kể từ khi Lý Công
Uẩn lên ngôi, lập ra vương triều nhà Lý, dời đơ từ Hoa Lư (Ninh Bình) vềĐại La
(Thăng Long- Hà Nội ngày nay). Trước khi trở thành kinh đô của người Việt, Đại La
chỉ tồn tại với tư cách là thành lũy của một thế lực cát cứ.Chính bước ngoặt này đã
đưa Đại La lên nấc thang của những ý niệm về trung tâm quyền lực, chính trị của một
quốc gia phong kiến.
Diễn ngôn Thăng Long/ Diễn ngôn Kẻ Chợ
Hà Nội là một đô thị trung đại hết sức đặc biệt. Nếu đem so sánh Thăng Long
(Hà Nội) với Phú Xuân (Huế) ta sẽ thấy rằng dù chỉ giữ vị trí kinh đơ của chế dộ
phong kiến Việt Nam trong khoảng hơn một trăm năm nhưng Huế bao giờ cũng gắn

8


với những ý niệm cung đình. Trong khi đó, dù chính thức trở thành kinh đơ của nhà
nước phong kiến Đại Việt từ năm 1010 và trải qua sự hưng vong nhiều triều đại,
Thăng Long chưa một lần được gắn với những ý niệm cung đình. Nhắc đến Thăng
Long, người ta có thể khơng ngớt lời ngợi ca đây là mảnh đất hội tụ những tinh hoa
văn hóa của bốn phương nhưng chưa bao giờ những tinh hoa ấy được tơ đậm ở tính
chất cung đình. Kiến trúc cung đình nằm ở Đại nội Huế rõ hơn Hoàng thành Thăng
Long, ẩm thực cung đình, âm nhạc cung đình, trang phục cung đình, lối sống cung
đình, tất cả đều vắng bóng trong những diễn ngôn về Thăng Long- Hà Nội. Trong tiềm
thức của người Việt, Huế luôn hiện lên với diện mạo cổ kính của một cố đơ, một dấu
ấn cung đình khơng phai nhạt ngay trong đời sống của con người Huế ở thời điểm
hiện tại. Sở dĩ có sự khác biệt đó trong những diễn ngơn về Huế và Hà Nội- hai mảnh
đất đều từng là kinh đô của người Việt chính là do sự khác biệt về tính chất của hai đô
thị này. Huế là một kinh đô thuần túy, thuần túy chức năng hành chính, chính trị, ý
niệm về Huế không thể chệch ra khỏi giới hạn về đời sống cung đình, nhà vua, quan
lại, quý tộc… Trong khi đó Thăng Long chưa bao giờ là một kinh đơ đơn thuần. Bên

cạnh chức năng quyền lực, chính trị, ngay từ thế kỉ XIV, Thăng Long đã có bước phát
triển vượt bậc về kinh tế.“Vào thời điểm đó, Hà Nội không chỉ là kinh thành dành
riêng cho vua quan mà còn là nơi sinh sống của thợ thủ công và những người buôn
bán” [30; 91]. Ngay từ những năm đầu của thời kì trung đại, Hà Nội đã tồn tại như
một ý niệm kép từ tên gọi cho đến chức năng, đặc điểm…Vì thế diễn ngơn Hà Nội
thời kì này khơng phải là đơn nhất mà có sự tồn tại song trùng của hai diễn ngôn.
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trước, bản thân cái tên cũng mang trong nó
một diễn ngơn về thành phố.Mỗi cái tên có một ý nghĩa riêng, cất giữ một miền kí ức
riêng của đơ thị. Thăng Long- tên gọi chính thức của kinh đô nước Đại Việt dưới triều
đại nhà Lý gắn với ý niệm về một vùng đất thiêng, nơi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa dân
tộc đồng thời tồn tại với Kẻ Chợ- tên gọi dân dã chỉ nơi buôn bán. Tên gọi Thăng
Long gắn với chức năng chính của một kinh đơ, đó chính là chức năng hành chính,
quyền lực cịn Kẻ Chợ gắn với một chức năng kinh tế của kinh đô đặc biệt này. Thăng
Long – Kẻ Chợ là cặp song trùng của cái thiêng liêng và cái dân dã, trung tâm và
ngoại vi, chính thống và phi chính thống, khn phép và tự do, trật tự và bất ổn. Ngay
trong bản thân cấu trúc khơng gian đơ thị cũng có sự phân lập rõ nét: đó là sự phân lập

9


giữa khu trung tâm là các cơng trình cung điện, đền đài của vua chúa, nhà ở của quan
lại, quý tộc, các bộ, phủ thực hiện chức năng quyền lực và khu ngoại vi là khu phố
buôn bán của những người bình dân ở xung quanh Hồng thành. Đây khơng phải là sự
phân lập không gian vĩnh viễn mà liên tục có sự thay đổi. Theo thời gian, khơng gian
trung tâm cũng được mở rộng cùng với sự tu sửa hay xây mới các cơng trình kiến trúc
phục vụ nhu cầu của vua chúa, quan lại và các hoạt động của nhà nước, khu phố bn
bán ở ngoại vi Hồng thành cũng liên tiếp được mở rộng một phần do chính sách của
triều đình cịn phần nhiều do sự phát triển sôi động của không gian kinh tế này. Đây
cũng khơng phải là một sự sắp xếp rạch rịi, khơng chỉ đơn giản đặt hai miền không
gian cạnh nhau là tạo nên một diện mạo trọn vẹn về Thăng Long- Hà Nội mà hai miền

khơng gian này ln có sự tương tranh lẫn nhau, bành chướng, lấn át nhau.Chính sự
phát triển không ngừng về kinh tế và sự mở rộng quy mô của không gian phố thị một
cách tất yếu đã tạo nên áp lực, đe dọa khu vực trung tâm, đe dọa sức mạnh quyền lực
của triều đình.Khơng có gì khó hiểu khi Thăng Long- Hà Nội khơng bao giờ là một
diễn ngôn duy nhất tại một thời điểm và cũng không bao giờ Thăng Long- Hà Nội
hiện lên trong diện mạo cung đình như cố đơ Huế.
“Chiếu dởi đơ” của Lý Cơng Uẩn có thể được xem như diễn ngơn khơi nguồn
cho dịng chảy diễn ngơn về Hà Nội nói chung đồng thời được xem như diễn ngơn mở
đầu cho nhánh diễn ngơn kinh kì nói riêng. Trong văn bản này, Lý Cơng Uẩn đã xác
lập vị trí trung tâm của thành Đại La: “nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn
hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đơng tây, lại tiện hướng nhìn sơng dựa núi, địa thế
rộng mà bằng phẳng, đất đai cao mà thống, dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt mn vật
đều phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt chỉ có nơi này là thắng địa, thực là nơi
hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn đô thành bậc nhất của kinh sư
muôn đời”[36; 30]. Diễn ngôn kinh đơ cịn được xây dựng trong những tác phẩm văn
xuôi đầu tiên như Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Tam tổ thực lục, Lĩnh Nam chích quái lục. “Những tác phẩm này dù mang tính chất
sưu tầm huyền thoại dân gian hay giữ chức năng nghi lễ tơn giáo thì cũng đã dành
nhiều trang để nói về những bậc chí nhân, chí qi của đất kinh kì” [19 ;8]. Trong đó,
đáng chú ý nhất là truyện kể về thần Tô Lịch như là vị thần mở đất, vị thần bảo trợ
cho Thăng Long- Hà Nội.Bản thân câu chuyện kể mang tính huyền thoại đã là một

10


diễn ngôn về nguồn gốc linh thiêng của đất kinh kì.Những diễn ngơn Thăng Longdiễn ngơn kinh đơ như thế này là diễn ngôn nằm ở trung tâm trong thời kì đầu thịnh trị
của chế độ phong kiến.Trong lịch sử tồn tại của mình, Thăng Long đã nhiều lần phải
nhường vị trí kinh đơ cho một vùng đất khác nhưng diễn ngơn kinh kì vẫn là diễn
ngơn xun suốt gần như toàn bộ mười thế kỉ trung đại.Âm hưởng chủ đạo của những
diễn ngôn này là niềm tự hào và cảm hứng ngợi ca rõ nét. Đó là niềm tự hào dân tộc

và sự tôn xưng, tụng ca những ân đức của triều đại. Nó trở thành một thứ khn mẫu,
một thứ công thức ước lệ chung cho các diễn ngơn chính thống về Thăng Long- Hà
Nội.
Trong dịng chảy diễn ngơn kinh đơ thời trung đại có một điểm nhấn rất đáng
chú ý, đó là cuộc thi chiến ở thế kỉ XIX giữa Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái.
Nguyễn Huy Lượng viết bài Tụng Tây Hồ phú để ca ngợi cảnh đẹp Tây Hồ và gần
như ngay lập tức sau khi bài phú trên ra đời, Phạm Thái viết bài Chiến tụng Tây Hồ
phú với một thái độ cơng kích không hề giấu giếm. Ta không thể nhận xét hai bài phú
này theo lối đi xác định xem tác phẩm nào miêu tả đúng hiện trạng Tây Hồ lúc đương
thời để rồi kết luận lại là Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái, ai miêu tả đúng, ai miêu
tả sai. Sự đúng sai và tính chất quy chiếu đến hiện thực đời sống hồn tồn khơng có ý
nghĩa gì cả trong việc hiểu và đánh giá hai tác phẩm này.Điều ta cần quan tâm là tại
sao trong cùng một thời điểm, cùng dưới sự dẫn dắt của một triều đại mà lại có sự
xuất hiện của hai diễn ngơn hồn tồn đối lập nhau về cùng một đối tượng như thế?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi trong bài giới thiệu của cuốn Tuyển thơ Thăng
Long- Hà Nội mười thế kỉ cũng nhắc đến trường hợp đặc biệt này và cung cấp thông
tin về việc Phạm Thái viết Chiến tụng Tây Hồ phú hồn tồn nhằm mục đích cơng
kích Nguyễn Huy Lượng chứ không phải để vịnh cảnh, không nhằm tôn xưng hay hạ
bệ vẻ đẹp của Tây Hồ. Sự cơng kích này cũng khơng xuất phát từ ngun nhân văn
học, ví dụ như muốn đối thoại với Nguyễn Huy Lượng về phương diện hình ảnh, bút
pháp… mà xuất phát từ nguyên nhân thái độchính trị. Phạm Thái đứng trên lập trường
của người quân tử thuở xưa- tôi trung không thờ hai chủ để phê phán, coi thường
Nguyễn Huy Lượng trước là bề tơi nhà Lê, sau đó lại làm quan dưới triều Tây Sơn,
khéo viết những lời ngợi ca cuộc sống thái bình thịnh trị dưới thời Tây Sơn. Trong tư
tưởng của những Nho sĩ trung thành với nhà Lê như Phạm Thái, quân Tây Sơn là

11


những kẻ cơ hội, mượn danh “phù Lê diệt Trịnh” để tiếm quyền nhà Lê. Như vậy, từ

trường hợp tương đối cá biệt của Tụng Tây Hồ phú và Chiến tụng Tây Hồ phú, cần
phải nhìn nhận rằng có một diễn ngôn phản kinh đô luôn tồn tại âm thầm bên cạnh
diễn ngơn chính thống đầy tự hào, dạt dào cảm hứng ngợi ca ân đức của một triều đại.
Do hạn chế về số lượng tác phẩm sưu tầm được và trong số các tác phẩm đó, chỉ
có trường hợp Phạm Thái và Nguyễn Huy Lượng thể hiện rõ được sự đối lập mạnh mẽ
của các diễn ngôn Hà Nội trong cùng một thời điểm nên chúng ta chỉ có thể kết luận
một các xác quyết về sự phát triển mạnh mẽ của dịng diễn ngơn Thăng Long- diễn
ngơn kinh đô- diễn ngôn trung tâm của quyền uy, trung tâm của quốc gia phong kiến
thái bình thịnh trị. Sự tồn tại của một dòng ngầm âm thầm chống lại những diễn ngơn
ngợi ca chính thống, hồi nghi quyền năng tuyệt đối của một ý thức hệ đương thời chỉ
nên để ở dạng phóng đốn (vì trường hợp Phạm Thái và Chiến tụng Tây Hồ phú chưa
thể xác định được là cái có tính phổ biến hay chỉ là một hiện tượng đột biến)
Nếu như dịng mạch diễn ngơn phản kinh kì như trường hợp Chiến tụng Tây Hồ
phú mới chỉ là một phỏng đốn thì có thể nhận ra ngay rằng có một dịng diễn ngơn
đối lập và liên tục tương tranh với diễn ngôn Thăng Long- diễn ngôn kinh kì, đó là
diễn ngơn Kẻ Chợ- diễn ngơn phố thị. Nằm ở vị trí ngoại vi trong khơng gian đơ thị,
khu bn bán của thị dân ít chịu sự áp chế bởi các luật lệ nghiêm ngặt của triều đình.
Tất nhiên không thể nào khẳng định được rằng khu vực thị dân khơng liên quan đến
trung tâm chính trị, nó chắc chắn chịu ảnh hưởng từ những điều lệ của triều đình
nhưng tính tự trị của khơng gian ngoại vi cho phép nó tiếp nhận ảnh hưởng đó ít hơn,
linh hoạt, thậm chí có thể biến hóa khơn lường. Có thể dễ dàng quan sát được rằng
mặc dù chế độ phong kiến không coi trọng hoạt động buôn bán, thậm chí người làm
nghề bn bán cịn bị xếp vào vị trí cuối cùng trong bậc thang nghề nghiệp trong xã
hội “sĩ- nông- công- thương” nhưng khu thị dân vẫn liên tục phát triển và phát triển
sầm uất đến độ trở thành trung tâm kinh tế của Bắc kì. Tên gọi Kẻ Chợ đã có từ thế kỉ
XIV cho thấy sự xuất hiện gần như đồng thời của diễn ngôn phố thị với diễn ngơn
kinh kì.Chỉ có điều, trong thời gian đầu thịnh trị của chế độ phong kiến, hoạt động
kinh tế cịn mới manh nha nên diễn ngơn phố thị vắng bóng so với diễn ngơn ca ngợi
kinh đơ. Phải đến thế kỉ XVII, khi vị trí trung tâm quyền lực của Thăng Long bị suy
giảm nghiêm trọng, diễn ngôn kinh đô mới mờ nhạt dần, nhường chỗ cho sự lên ngôi


12


của diễn ngôn phố thị. Trong cuốn Lịch sử Hà Nội, Philippe Papin đã nhận xét: “là thủ
đô của một đất nước bị chia cắt, quyền lực bị tranh giành, Thăng Long giờ đây dường
như chỉ còn là thương trường” [30; 147]. Đây chính là thời điểm cái tên Kẻ Chợ càng
được biết đến rộng rãi, thậm chí đã được các thương gia phương Tây biết đến. Trong
các tài liệu phương Tây Kẻ Chợ được phiên âm thành Ca Cho, Cha Cho, Kacho hay
Cachao. Đây cũng chính là khi những diễn ngơn như “thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố
Hiến” hay những bài ca dao truyền tụng về “Hà Nội ba mươi sáu phố phường” xuất
hiện nhiều, thách thức những ý niệm về trung tâm trong diễn ngôn kinh đô về Thăng
Long- Hà Nội.
Diễn ngơn phố thị vắng bóng sự xuất hiện của những thắng cảnh hay những
cung điện, đền đài sang trọng, biểu tượng của quyền lực. Nó chủ yếu gắn với sự xuất
hiện của phố sá tấp nập, phường buôn bán sầm uất “phố giăng mắc cửi đường quanh
bàn cờ” (ca dao).Nếu như diễn ngơn kinh kì được đặc trưng ở giọng điệu ngợi ca thì
diễn ngơn phố thị đặc trưng ở giọng điệu bông lơn, châm biếm vui vẻ.Khơng bị kiểm
sốt như diễn ngơn chính thống, diễn ngơn phố thị dung nạp trong nó tất cả diện mạo
phức tạp của đời sống.Và cũng chỉ ở không gian phố thị, hiện tượng Hồ Xuân Hương
mới có thể xuất hiện và tồn tại.Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phức tạp. Cho đến
bây giờ các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể xác định được đây là một người hay chỉ là
“mặt nạ tác giả” (chữ của Lại Nguyên Ân), mượn tên Hồ Xuân Hương để che giấu
thân thế [2]. Mặc dù vậy, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là chỉ có khơng
gian ngoại vi, khơng gian phố thị mới có thể tạo sinh nên những giai thoại Hồ Xuân
Hương và Cổ nguyệt đường đồng thời cho ra đời những diễn ngơn đả kích châm biếm
sâu cay, diễn ngôn nước đôi vừa thanh vừa tục hết sức đặc sắc có một khơng hai trong
lịch sử văn học Việt Nam. Diễn ngôn Hồ Xuân Hương là diễn ngôn phản kinh kì, phản
trung tâm đến mức tối đa, nó hạ bệ tất cả những gì là giá trị, chuẩn mực của chế độ
phong kiến.Nho sĩ thời trung đại vốn là người nhận được sự tán dương của những

người xung quanh vì vừa tài trí lại vừa có tấm lịng bao dung, rộng mở. Thế mà xuất
hiện trong thơ Hồ Xuân Hương họ chỉlà “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ/ Lại đây cho
chị dạy làm thơ”[15]. Chỉ có vị trí bên lề, ngoại vi mới cho ra đời được những diễn
ngôn chệch ra khỏi khuôn mẫu ước lệ của văn chương trung đại như thế. Cũng chỉ có

13


không gian phố thị mới là nơi dung nạp thứ ngơn ngữ nơm na, bình dị, khơng cầu kì
thậm chí cả lối ẩn dụ lập lờ, lưỡng phân thanh- tục tạo nên những diễn ngôn đa nghĩa.
Hồn Thăng Long- Hà Nội- diễn ngôn về bản sắc
Người ta vẫn cho rằng mỗi sự vật tồn tại trên đời đều có một đặc trưng riêng,
khu biệt nó với các sự vật khác.Bản sắc vẫn thường được mặc định thừa nhận là cái
vốn có, cái tồn tại tự nó ở bên trong hay biểu hiện ra bên ngoài sự vật.Tuy nhiên, cần
phải đi ngược lại cách nghĩ thơng thường để nhìn nhận rõ vấn đề bản sắc.Bản sắc có
phải là cái tự nó không hay là một sản phẩm được kiến tạo bởi trí tưởng tượng và
ngơn ngữ? Bản sắc có phải là cái được sinh ra ngày từ đầu, cùng một lúc với sự xuất
hiện của sự vật hay được hình thành theo thời gian, trong quá trình tồn tại của sự vật
đó? Bản sắc có phải là một ý niệm hồn tồn vơ tư và trong suốt khơng hay được nhào
nặn nhằm một mục đích nhất định?
Bản sắc cũng làm một thứ diễn ngơn, một thứ tưởng tượng có nhu cầu trở thành
ảo tưởng về cái tự nhiên, cái vốn có. Bản sắc không xuất hiện rõ nét ngay từ đầu, khi
Đại La được dổi tên thành Thăng Long và trở thành kinh đô của cả nước mà chỉ xuất
hiện khi Thăng Long đánh mất đi vị trí trung tâm của mình lần cuối cùng và khơng
cịn cơ hội trở về là kinh đô của chế độ phong kiến Việt Nam thêm một lần nào nữa.
Có thể nói lịch sử Thăng Long trong suốt thời kì trung đại là một cuộc chuyển
dịch liên tục từ ngoại vi vào trung tâm, từ trung tâm ra ngoại vi rồi lại trở về vị trí
trung tâm. Sự chuyển dịch này khơng đi theo một quỹ đạo duy nhất, bất biến, khơng
có sự trùng khít giữa những lần dịch chuyển, nghĩa là sau khi dịch ra ngoại biên rồi trở
lại trung tâm, ý niệm trung tâm của Thăng Long khơng cịn vẹn ngun như cũ. Biên

độ của ngoại vi càng ngày càng được nới rộng cịn trung tâm cũng dịch chuyển ra khỏi
vị trí ban đầu của nó. Có thể thấy sự phai nhạt ý niệm trung tâm này rất rõ trong sự
thay đổi tên gọi của kinh đô Thăng Long. Lần đầu tiên Thăng Long đánh mất vị trí
kinh đơ đó là khi Hồ Qúy Ly tiếm quyền nhà Trần, lập ra nhà Hồ, dời đơ về q
hương ở Thanh Hóa năm 1400. Lúc này Thăng Long có tên gọi là Đơng Đơ trong
tương quan với kinh đô mới là Tây Đô. Khi quân Minh xâm lược nước ta, Đông Đô
dưới thời nhà Hồ được đổi tên thành Đông Quan với ý nghĩa miệt thị: cả kinh thành
của người Việt chỉ là “cánh cửa phía Đơng”. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi
lên ngơi hồng đế, lập ra triều Lê, Đơng Quan được đổi thành Đông Kinh (trong

14


tương quan với Tây Kinh- Thanh Hóa).Tên gọi Thăng Long vẫn tồn tại cùng với tên
gọi này. Sau này, dưới triều Tây Sơn, Thăng Long có tên là Bắc Thành trong tương
quan với Phú Xuân- thủ phủ của họ Nguyễn ở Đàng Trong. Như vậy, trong các tên gọi
của Hà Nội, chỉ có Thăng Long là tên gọi mang ý nghĩa thiêng liêng và mang ý niệm
trung tâm trọn vẹn nhất. Những tên gọi về sau này đều mang ý nghĩa xác định vị trí,
phương hướng và bao giờ cũng đặt đô thành này trong tương quan đối sánh với một
nơi khác, nghĩa là vị trí trung tâm của nó khơng cịn là độc tơn mà liên tục bị đe dọa,
cạnh tranh từ những trung tâm khác. Lần chuyển dịch vị trí cuối cùng diễn ra khi Gia
Long lật đổ Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, định đô Ở Phú Xn- Huế.Nó diễn ra khi vị
trí trung tâm của Thăng Long tự thân đã có dấu hiệu phai nhạt. Hơn thế, so với những
lần dịch chuyển trước, lần dịch chuyển này khơng mang tính chất tạm thời, cũng
khơng phải là dấu hiệu của một sự gián đoạn lịch sử, nó là một sự dịch chuyển chắc
chắn và lâu dài. Vì những lí do đó mà lần dời đơ cuối cùng này đã tạo nên một sự đứt
gãy trong cảm thức về Thăng Long, từ đó sản sinh ra một diễn ngơn mới.
Năm 1802, khi Gia Long lên ngơi hồng đế, lập ra triều Nguyễn, định đô ở Phú
Xuân, Thăng Long bị giáng xuống chỉ còn là một tỉnh. Tên gọi Thăng Long vẫn được
giữ nhưng chỉ là về mặt hình thức âm đọc, còn ý nghĩa đã được thay đổi cho phù hợp

với vị trí của một tỉnh. Chữ “Long” khơng cịn mang ý nghĩa là “rồng” mà mang ý
nghĩa là “hưng thịnh”.Thăng Long chính thức chỉ cịn là cố đô của người Việt.Tuy
nhiên, cho đến khi tên gọi Thăng Long cịn tồn tại thì kí ức về một kinh đơ thuở trước
vẫn cịn. Phải đến năm 1831, khi Minh Mạng đổi tên Thăng Long thành Hà Nội và sáp
nhập Thăng Long vào với rất nhiều địa phương lân cận. Tên gọi Hà Nội cũng không
phải là tên gọi dành riêng cho Thăng Long mà chỉ là tên gọi chung cho một tỉnh bao
gồm Thăng Long và rất nhiều địa phương khác của Bắc kì. Thăng Long khơng chỉ
đánh mất vị trí trung tâm mà ngay cả một chút kí ức cuối cùng về kinh đơ một thuở
cũng hồn tồn bị xóa bỏ. Chính vị trí ngoại vi này là nơi hình thành diễn ngơn bản
sắc. Khơng cịn tham vọng định nghĩa mình bằng những diễn ngơn kinh đơ thuở trước,
Thăng Long lựa chọn không gian ngoại vi để tạo nên một tiếng nói riêng, một hình
ảnh riêng đối chọi với Huế, khơng cịn là kinh đơ nhưng nó vẫn là một cái gì rất khác
biệt. Trong bài viết Ngoại vi như là nơi kháng cự, bell hooks đã chỉ ra những tính chất
của khơng gian ngoại vi, đó là: nó vừa là “một bộ phận của cái tồn thể” [13] lại vừa

15


“nằm ngồi thành phần chính yếu” [13], nó mang nhiều ý nghĩa hơn “không gian của
thân phận bị tước đoạt” [13] mà là “điểm trung tâm để tạo sinh một thứ diễn ngơn
phản bá quyền vốn khơng chỉ nhìn thấy ở ngơn từ mà cịn ở thói quen và cách mà
người ta sống” [13]. Đó là khơng gian của sự kháng cự, lựa chọn chối từ trở thành
mẫu hình của trung tâm để kiến tạo một hình ảnh riêng, một thế giới với những luật lệ,
quy tắc riêng khác trung tâm, thậm chí đối lập với trung tâm. Trong sự lựa chọn vị trí
bên lề, khơng chỉ có diễn ngơn Kẻ Chợ nổi lên, lấn át diễn ngôn Thăng Long mà diễn
ngôn hồn Thăng Long- Hà Nội trở thành diễn ngơn quan trọng nhất, một ảo tưởng văn
hóa bao bọc hình ảnh Hà Nội cho đến tận bây giờ. Từ đây trở đi, Hà Nội luôn tồn tại
trong một ám ảnh về bản sắc, giữa những biến thiên lịch sử, người ta ln có nhu cầu
tìm kiếm một thứ hồn vía Thăng Long- Hà Nội.
Diễn ngơn hồn Thăng Long được tạo dựng bởi hai loại diễn ngôn cơ bản.Thứ

nhất là diễn ngơn hồi cổ, diễn ngơn hồi cố đơ. Cảm hứng hoài cổ là một cảm hứng
phổ biến trong các sáng tác văn học viết về Thăng Long nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa
đầu thế kỉ XIX. Thăng Long trong những diễn ngơn hồi cổ này là hình ảnh của một
cố đô cùng với sự phôi pha của những giá trị và niềm ngưỡng vọng, nỗ lực kiếm tìm
hình ảnh kinh đơ vàng son một thời. Hình ảnh vàng son thuở trước là một thứ kí ức
tập thể về một nơi hội tụ tinh hoa bốn phương, nơi kinh sư muôn đời chứ không quy
chiếu về Thăng Long của một thời đại nào cụ thể.Luôn luôn tồn tại một sự đối lập
giữa quá khứ và hiện tại trong những diễn ngơn hồi cổ này. Thi nhân thường nhìn
Thăng Long ở thời hiện tại mà bâng khuâng nhớ về Thăng Long ở thời quá khứ, nuối
tiếc cho một thời kì huy hồng đã qua, xót xa cho sự đổi thay “bãi bể nương dâu”
trong cuộc đời. Bà Huyện Thanh Quan đi “Chơi chùa Trấn Quốc”“chạnh niềm cố
quốc nghĩ mà đau”, giữa “Mấy tòa sen tỏa nơi hương ngự/ Năm thức mây phong nếp
áo chầu/ Sóng lớp phế hưng coi đã rộn/ Chuông hồi kim cổ lắng càng mau” mà động
nỗi niềm “Người xưa cảnh cũ nào đâu tá/ Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu” [48;
1242]. Thăng Long xưa đã mất, trước mắt chỉ còn lại “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”trong nỗi niềm đau đáu “cảnh đấy người đây luống
đoạn trường” [48; 1244].Nguyễn Du về Thăng Long tình cờ gặp lại người ca nữ năm
xưa. Sự phôi pha của kinh đô in hằn lên gương mặt, lên số phận của một người ca nữ.
Người ca nữ Nguyễn Du không biết tên nhưng vẫn còn rõ mồn một những ấn tượng

16


về tiếng đàn của nàng trong tâm trí. Hai mươi năm “Long thành gang tấc khơng cịn
được thấy nữa”[48; 1088], nay trở lại, người đẹp thuở trước tóc đã hoa râm, “Nét mặt
võ vàng, thần sắc khơ khan, thân hình bé nhỏ, đôi mày phờ phạc không điểm tô” [48;
1088]. Người con gái gảy đàn tài hoa bậc nhất Long thành, từng làm cho hết thảy
người nghe say sưa không biết mệt, từng khiến cho bao khanh tướng phải ngả
nghiêng, giờ chỉ còn lẫn vào trong đám ca kĩ trẻ tuổi, “Ai hay chính người kì diệu bậc
nhất kinh đơ thuở đương thời” [48; 1089].Thăng Long xưa chỉ còn đọng lại trong một

tiếng đàn xưa cũ. Nỗi niềm của Nguyễn Du khơng phải là nỗi niềm tìm về Thăng
Long thấy cảnh xưa đổi thay, người xưa khuất dạng mà là nỗi niềm đau xót cho cảnh
cũ, người xưa vẫn cịn nhưng phôi pha đến tàn tạ:
“Thành quách đổi thay người chuyển dời
Bãi biển nương dâu biết mấy mươi
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tán sạch
Luống cịn một người con hát thơi
Trăm năm thấm thoắt là bao tá
Đau lòng việc cũ lệ tầm tã
Từ Nam trở lại trắng phơ đầu
Trách gì nhan sắc chẳng tàn tạ
Đăm đăm hai mắt luống mơ màng
Gặp mặt… thương ôi như xa lạ”[48; 1091]
Trong bài thơ chữ Hán có tên là Thăng Long, Nguyễn Du cũng bộc bạch niềm
xót xa cho sự phơi pha của đơ thành thuở trước:
“Nghìn năm dinh thự thành quan lộ
Một giải tân tành lấp cố cung” [48; 1076]
“Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Điệu mới xô bồ nhịp trúc tơ” [48; 1077]
Cảnh đã khác, người đã khác, kinh thành phồn hoa chỉ cịn trong tâm tưởng,
trong miền hồi niệm. Đến tận đầu thế kỉ XX, thế hệ những nhà Nho cuối cùng như
Từ Diễn Đồng, Nguyễn Thượng Hiền, Thúc Giạ Thị vẫn khắc khoải hoài vọng về một
Thăng Long- chốn xưa:
“Sử truyền nhà Lý đóng đơ đây

17


Trải mấy nghìn năm mới đến nay
Năm cửa chỉ cịn lầu cửa Bắc

Cột cờ sao thấy lá cờ Tây
Nền văn nhà Lý xây kia đó
Yết kiến vua Lê vứt chỗ này
Người cũ bây giờ đâu cả nhỉ?
Xe rồng chẳng thấy, thấy xe tay!”[48; 1337]
Thứ hai là diễn ngôn về kẻ sĩ.Kẻ sĩ vốn là một hình mẫu quen thuộc trong văn
chương trung đại, tại sao một hình ảnh mang tính chất phổ quát như thế lại trở thành
đại diện cho một thứ hồn vía Hà Thành?
Kẻ sĩ là mẫu nhân cách đặc trưng của thời trung đại gắn bó chặt chẽ với hệ tư
tưởng Nho giáo.Văn học Việt Nam thời trung đại đầy rẫy diễn ngơn về kẻ sĩ. Đó là
bậc quân tử với mục đích “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, kẻ làm trai với món
nợ cơng danh, với khát khao lập nên kì tích. Để lập được cơng danh, kẻ sĩ tất yếu phải
tìm đến chốn kinh đô để tiến thân trên con đường hoạn lộ. Thăng Long thuở cịn là
kinh đơ cũng là nơi hội tụ của những kẻ sĩ mong được thi thố tài năng, làm quan, góp
sức xây dựng thiên hạ thái bình. Kinh đơ chuyển vào Huế, những trí thức đeo đuổi
giấc mộng công danh lên đường theo vào kinh đô mới. Những kẻ sĩ còn lại ở đất Hà
Thành là những kẻ bất hợp tác với triều đại mới, đã giũ bỏ giấc mộng cơng danh
nhưng khơng tìm về nơi thơn dã sống đời ẩn dật mà tìm lẽ sống ở sự hưởng thụ những
lạc thú trong cuộc đời. Chính tại Thăng Long, đất kinh kì hội tụ tinh hoa học vấn của
bốn phương đồng thời là đô thị phồn hoa bậc nhất là nơi tạo ra hình mẫu kẻ sĩ tài hoa,
tài tử.Hình mẫu kẻ sĩ khao khát khẳng định tài trí, thi thố cơng danh đã di cư vào Huế
cùng với sự dịch chuyển của kinh đô. Ở ngoại vi, Thăng Long kiến tạo hình ảnh kẻ sĩ
đối lập với khn mẫu tài hoa, phóng túng như một mẫu nhân cách văn hóa của riêng
mảnh đất Hà Thành.
Diễn ngơn hồi cổ và diễn ngơn kẻ sĩ đã tạo nên trong văn chương một hình ảnh
Thăng Long hồn tồn riêng biệt, không thể trộn lẫn với bản sắc riêng.Bản sắc ấy
không hiện diện trên cảnh quan vật chất mà tồn tại ở dạng thức tinh thần.Một ý niệm
“hồn Thăng Long” trừu xuất ra khỏi không gian và bất chấp sự đổi thay của thời
gian.Thăng Long là vĩnh viễn trầm mặc, cổ kính, vĩnh viễn một lối sống thanh cao, tao


18


nhã, vĩnh viễn là mảnh đất của những con người tài hoa. Vì thế cho dù trên thực tế,
Thăng Long chỉ cịn là cố đơ, thậm chí là phế đơ theo những miêu tả của các nhà sử
học về cảnh quan và đời sống đô thị mấy chục năm cuối thế kỉ XIX thì vẫn phảng phất
hồn vía Thăng Long hay nỗ lực kiếm tìm hồn vía Thăng Long trong các diễn ngôn văn
học.
Thế kỉ XIX chứng kiến sự xuống giá của diễn ngơn kinh kì từng một thời là
diễn ngơn chính thống về Thăng Long và sự khởi sắc của những diễn ngôn bên lề. Sự
trỗi dậy của diễn ngơn phố thị, lấn át hồn tồn diễn ngơn kinh kì, sự xuất hiện của
một diễn ngơn mới- diễn ngơn hồn Thăng Long- Hà Nội là một sự mở rộng chiều kích
ý niệm về Thăng Long- Hà Nội. Trong cuốn Lịch sử Hà Nội, Philippe Papin đã nhận
xét về giai đoạn này như sau: “Thế kỉ XIX đã phá bỏ truyền thống vẻ vang có từ lâu
đời của những nhà trí thức đứng ra phụng sự đất nước. Hà Nội chỉ cịn là một tỉnh lỵ
tràn đầy hồi niệm nhưng biết phán xét và phóng túng” [30; 190]
Mười thế kỉ trung đại, từ Đại La đến Thăng Long rồi Đông Đô, Đông Quan,
Đông Kinh, Bắc Thành, Thăng Long rồi Hà Nội, từ kinh đơ huy hồng những cung
điện lầu son gác tía đến dấu tích nền xưa lối cũ, từ những phường thợ thủ công thưa
thớt đến phố phường buôn bán tấp nập, diễn ngôn Thăng Long, diễn ngôn Kẻ Chợ,
diễn ngôn bản sắc song song song tồn tại, liên tục tương tranh làm nên diện mạo của
mảnh đất này.
1.2.1.2. Diễn ngôn Hà Nội thời hiện đại
Thời hiện đại được chúng tôi xác định tương đối bắt đầu từ đầu thế kỉ XX. Sở dĩ
chúng tôi không xác định một mốc thời gian chính xác là năm 1900 theo cách phân kì
lịch sử văn học hiện nay là vì chúng tơi muốn quan tâm đến sự hình thành Hà Nội với
tư cách là một đô thị hiện đại. Và tư cách đô thị của Hà Nội không phải ngay lập tức
được lịch sử trao cho tại một thời điểm mà phải trải qua một quá trình hình thành và
phát triển. Giũ bỏ diện mạo kinh đô từ rất sớm (năm 1805- khi vua Gia Long cho xây
hẹp thành Thăng Long lại, sau đó cho đem tất cả những đồ vật cung đình từ Thăng

Long vào Huế, năm 1831- khi Thăng Long bị chìm trong một khu vực rộng lớn gồm
nhiều địa phương và tất cả mang một cái tên chung là Hà Nội), Hà Nội mang hình ảnh
của một phế đơ tàn tạ bị tàn phá bởi sự cướp bóc của nạn giặc cỏ là quân Cờ đen của
Nguyễn Vĩnh Phúc, dân từ nông thôn kéo ra lập phường sinh sống ngay tại khu đất

19


của Hoàng thành. Hà Nội chỉ thực sự lột xác trở thành một thành phố theo đúng nghĩa
khi người Pháp hoàn toàn giành được quyền bảo hộ đối với Bắc kì và xây dựng Hà
Nội thành “nơi đặt trụ sở của chính quyền bảo hộ (từ năm 1885) và chính quyền thành
phố thuộc Pháp (từ năm 1888) và từ năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đơ của tồn
Đơng Dương (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào, Campuchia)” [30; 222]. Người Pháp
đầu tư xây dựng hàng loạt cơng trình kiến trúc, trong đó có nhiều cơng trình cơng
cộng lớn.Những cơng trình này đã thay đổi hồn tồn diện mạo của Hà Nội nhưng đặc
biệt hơn nữa, đó lại là sự mơ phỏng hình ảnh của Paris. Phố Tràng Tiền- cịn có tên
gọi khác là Paul Bert- là sự mơ phỏng đại lộ Champ Elysées, Nhà hát Lớn được thiết
kế theo kiểu dáng của nhà hát Opéra Garnier, mặt tiền của nhà Triển lãm được xây
dựng theo kiểu của Petit Palais ở Paris… Sự mô phỏng này được diễn giải theo hai
hướng. Thứ nhất, việc xây dựng q nhiều cơng trình công cộng với quy mô lớn hơn
rất nhiều so với dân số Hà Nội đương thời nhằm mục đích khuếch trương sự hiện diện
của chế độ thuộc địa, nhanh chóng đóng dấu xác lập quyền sở hữu của mình trên
khơng gian Hà Nội.Thứ hai, đó là giấc mơ Paris ở xứ thuộc địa, một sự hiện thực hóa,
vật thể hóa những kí ức lãng mạn của người Pháp về thành phố quê hương. Như vậy,
đến khoảng thập kỉ đầu của thế kỉ XX, diện mạo của Hà Nội về cơ bản đã định hình rõ
nét với ba khu vực chính: khu phố cổ- nơi sinh sống, buôn bán của người dân bản địa
và người Hoa cư ngụ lâu năm, khu Hồng thành và khu phố Tây gồm những cơng
trình mới được xây dựng theo phong cách phương Tây, phục vụ cho đời sống sinh
hoạt và làm việc của các quan chức người Pháp tại Hà Nội. Chính sự tồn tại phức hợp
của nhiều miền không gian trong một tổng thể không gian này đã cho ra đời đồng thời

những diễn ngơn khác nhau về Hà Nội.
Một diễn ngơn hồi cổ xa lạ với văn minh đô thị
Đại diện tiêu biểu cho dịng diễn ngơn này là Nguyễn Tn với những tác phẩm
như Chùa đàn, tập truyện ngắn Vang bóng một thời.Hà Nội những thập kỉ đầu thế kỉ
XX trong con mắt của nhà văn là một xã hội “Tây Tàu nhố nhăng”, “ối a ba
phèng”.Với thái độ chán ngán thực tại, ơng đi tìm cái đẹp ở thời q khứ, ở tầng lớp
tinh hoa cịn sót lại của đất kinh kì. Khơng gian Hà Nội trong những tác phẩm Nguyễn
Tn đều nổi bật ở vẻ trầm mặc, cổ kính gắn với một lối sống chậm rãi, thư thái và
những thú vui thanh cao, tao nhã. Những miền không gian trầm lắng đóng cửa hồn

20


tồn với những biến động của đời sống đơ thị náo nhiệt bên ngoài.Nguyễn Tuân rất
chú trọng đến nghệ thuật tạo khơng khí.Ơng cầu kì từ việc sử dụng từ ngữ, nhịp điệu
câu văn cho đến những chi tiết miêu tả khiến cho không gian trong tác phẩm bao giờ
cũng bàng bạc phong vị của thuở trước. Những nhân vật trong sáng tác Nguyễn Tuân
bao giờ cũng là những con người thuộc tầng lớp tinh hoa của một thời đã qua. Họ
thường là những nhà Nho thất thế nhưng nhất định không chịu đầu hàng, nhất định
không chịu hợp tác với xã hội đương thời.Họ thể hiện cái tài hoa của mình trong việc
giữ gìn nếp sống cũ, giữ gìn những thú chơi cầu kì, tao nhã như một phản ứng đầy
kiêu hãnh chống lại sự xâm nhập của văn minh phương Tây. Nếu khơng phải là nhà
Nho thì nhân vật của Nguyễn Tuân dù là một cô gái chơi đàn hay người làm nghề đao
phủ như Bát Lê trong truyện Bữa rượu máu cũng nổi bật ở sự tài hoa hơn người.
Những việc họ làm không phải chỉ là sự thành thục một nghề nghiệp nào đó mà chúng
đã đạt đến trình độ nghệ thuật. Hà Nội trong diễn ngơn kiểu Nguyễn Tn hồn tồn
xa lạ, hồn tồn bị cách ly với đời sống náo nhiệt của đô thị, nó được bao bọc trong
bầu khí quyển của hồi niệm về một Hà Nội cổ kính, Hà Nội mảnh đất hội tụ những
con người tài hoa và kiêu hãnh.
Đứng ở một góc khác trong diễn ngơn hồi cổ này là kí của Thạch Lam. Thạch

Lam khơng hồn tồn quay lưng lại với văn minh đô thị nhưng rõ ràng ông cũng đã
nhìn thấy trong đó sự phơi pha, sự mất đi những dáng nét cũ của Hà Nội. Thạch Lam
không đặt diễn ngơn của mình trọn vẹn trong bầu khí quyển của thuở trước mà xây
dựng hình ảnh Hà Nội trong sự đối sánh xưa nay, cố tìm lại Hà Nội ở những nét văn
hóa ít biến đổi nhất. Hình ảnh mà nhà văn cố cơng tìm kiếm, cố cơng kiến tạo lại
chính là hình ảnh của một thứ “làng trong phố”.Trước cơng cuộc đơ thị hóa của người
Pháp, ba mươi sáu phố phường của ta khơng hề mang tính chất của phố phường hiện
đại.Phố phường là mơ hình đã có từ những thế kỉ đầu trung đại, kéo dài đến tận đầu
thế kỉ XX và bắt đầu chịu sự biến đổi trước ảnh hưởng của văn minh đô thị Tây
phương.“Vào thế kỉ XII, từ phường cùng để chỉ một cụm nhà, trên một khu đất, giống
như một làng trong thành phố.Làng này có thể là một làng làm nghề nông, nghề thủ
công hoặc buôn bán. Sau này từ phường được dung để chỉ các cụm nhà, nơi tập trung
những người làm cùng một nghề thủ công. Cùng với quá trình phát triển thương mại,
các cụm nhà này bị đường phố chia cắt.Phố trở thành mặt tiền của phường, nơi bày

21


bán các mặt hàng do thợ thủ công sản xuất ở phía trong sân” [30; 93]. Đến khoảng thế
kỉ XVII- XVIII, để hiểu được nét đặc thù của khu phố buôn bán ở Hà Nội, cần phân
biệt khái niệm phường một đơn vị hành chính dùng để chỉ một làng trong phố, khái
niệm phố không được công nhận về mặt hành chính mà chỉ là một phần đất nơi người
dân trong làng bày bán các sản phẩm làm ra và khái niệm phố phường dùng để chỉ chỉ
một phường trong bao gồm nhiều phố, hay nói cách khác là một không gian đô thị bao
gồm một con đường hai bên có cửa hàng, bên trong là kho để hàng, sân, xưởng sản
xuất và nhà ở. [30; 161]
Trong diễn ngôn của mình, Thạch Lam ln hồi niệm về làng trong phố ấy.
Ơng ln bận lịng vì nỗi niềm “Hà Nội đã khác xưa nhiều lắm”, “Chỉ còn một vài
cái ngõ con ... ngõ Phất Lộc, ngõ Trung Yên ... mấy ngọn cỏ trên mảnh tường cổng ô
Quan Chưởng, là gợi dấu vết của Hà Nội cũ. Ngày ấy, đường hẹp, chắc hàng xóm

láng giềng ăn ở với nhau thân mật hơn. Người cùng hàng phố tự coi như có một liên
lạc cùng nhau”; “Khơng cịn gì của Hà Nội ngồi năm sáu mươi năm trở về trước”
[21], khơng cịn những ngơi nhà theo kiến trúc cũ, “tất cả cuộc đời của những kẻ bên
trong, cuộc đời xưa, những ý nghĩ cũ, những hy vọng và mong ước khác bây giờ”
[21]. Vì thế ơng giữ lại cho mình hình ảnh những gánh hàng rong Hà Nội, những món
ăn nơi hè phố như cốm Vịng, phở, bún thang, bánh cuốn.... Những món ăn hè phố này
chính là một nét đặc trưng của Hà Nội. Nếu như Huế nổi tiếng với ẩm thực cung đình,
những món ăn cầu kì phục vụ quan lại vua chúa thì Hà Nội lại nổi tiếng với ẩm thực
đường phố cũng khơng kém phần cầu kì nhưng theo một cách riêng. Những thức quà
thưởng thức nơi đường phố bao giờ cũng có một phong vị riêng rất khác biệt, nó vừa
có cái cầu kì, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực chốn kinh kì lại vừa có cái gần gũi của
đời sống thường nhật. Đó cũng chính là nét đặc trưng của Hà Nội- tuy đã từng là một
kinh đô, một trung tâm buôn bán sầm uất bậc nhất của Bắc kì nhưng vẫn mang nét
mộc mạc, dân dã của một nếp sinh hoạt làng quê do một bộ phận lớn dân cư từ nông
thôn ra sinh sống, buôn bán ở thành thị mang lại. Trong diễn ngôn của Thạch Lam, dù
bị xâm thực mạnh mẽ từ một nền văn minh mới, một nếp sống đô thị mới, Hà Nội vẫn
giữ được những nét đặc sắc truyền thống.
Diễn ngôn đô thị: những ảo tưởng lãng mạn và mặt trái của văn minh

22


Tồn tại song song bên cạnh diễn ngơn hồi cổ, ngưỡng vọng về thời trước là
những diễn ngôn được tạo sinh trên nền khơng gian văn hóa đơ thị, khơng quay lưng
lại mà thừa nhận tính chất đơ thị của Hà Nội đương thời.Có thể nhận thấy rằng chủ thể
của những diễn ngơn hồi cổ đa phần là những nhà văn xuất thân từ tầng lớp Nho sĩ.
Họ là lớp người của một nền học vấn cũ, những người học đạo Khổng và viết chữ
Nho nên rất khó tìm được sự hịa hợp, thậm chí họ xung đột gay gắt với cuộc sống
đương thời. Họ sống ở thời này nhưng lại mang cái hồn của thưở trước, Hà Nội được
thể hiện trong những diễn ngơn của họ vì thế cũng nằm trong một vùng tâm thức

cũ.Còn một nguyên nhân khác dẫn đến sự ra đời của diễn ngơn hồi cổ, đối lập gay
gắt với văn minh, đó là tâm lí kháng cự thuộc địa, chống lại sự đồng hóa của văn minh
phương Tây.Trong trường hợp này, hoài cổ chưa chắc đã là trân trọng những giá trị
xưa cũ mà lại là phản ứng của tâm lý bảo thủ trước sự xâm thực mạnh mẽ của văn
minh phương Tây.Có thể dùng tâm lý này để giải thích cho những trường hợp nhà văn
tuy không xuất thân nhà Nho, không thuộc về thời đại trước nhưng vẫn phản đối văn
minh phương Tây một cách hết sức mạnh mẽ.Còn chủ thể của những diễn ngơn đơ thị,
họ là những trí thức Tây học hoặc nếu xuất thân Nho học thì họ cũng tiếp thu những
tư tưởng mới mẻ từ phương Tây. Sự thành lập của hệ thống trường Pháp- Việt đã đào
tạo nên hẳn một thế hệ trí thức Tây học ở những đô thị lớn ở Việt Nam. Họ là con đẻ
của nền giáo dục đậm chất phương Tây, là con đẻ của nền văn minh đơ thị, vì thế mà
diễn ngơn Hà Nội trong sáng tác của họ tất yếu được tạo sinh trên nền không gian đô
thị và lối sống thị dân. Tuy nhiên ngay trong lịng dịng diễn ngơn đô thị này cũng
xuất hiện những nhánh rẽ đối lập nhau.
Có một Hà Nội văn minh, thanh lịch, hào hoa đối lập với nông thôn truyền
thống ngàn đời trong sáng tác của những nhà lãng mạn. Diễn ngôn về Hà Nội văn
minh thanh lịch, hào hoa rất phổ biến trong các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, trong
sáng tác của các nhà Thơ Mới và nhạc phẩm của các nhạc sĩ thời kì đầu tân nhạc (cịn
gọi là nhạc tiền chiến). Hà Nội hiện lên với một loạt hình ảnh chưa từng có trong nền
văn học trung đại trước đây.Sự xuất hiện của những đại lộ, những nhà ga, bến tàu, nhà
hát, vườn hoa, công viên…là dấu hiệu đặc trưng, đại diện cho cái gọi là văn mình đơ
thị. Những hình ảnh này được lấy từ chính diện mạo thực của Hà Nội đầu thế kỉ XX
với hàng loạt cơng trình kiến trúc mang hơi hướng phương Tây đồng thời được sáng

23


tạo trên nền cảm thức đơ thị có tính chất vay mượn từ phương Tây. Hà Nội trong
những diễn ngôn lãng mạn bao giờ cũng phảng phất hình ảnh của Paris hoa lệ một
phần vì người Pháp đã cố ý xây dựng Hà Nội như một thứ hoài niệm về Paris, phần

khác là do sự tiếp thu ảnh hưởng từ văn học phương Tây của lớp nhà văn mới. Trong
những diễn ngôn này, Hà Nội dù không thể sánh với “kinh đô ánh sáng” nhưng cũng
là chốn phồn hoa bậc nhất.Hà Nội trở thành không gian dấn thân của những thi sĩ lãng
mạn khát khao xây đắp “mộng huy hoàng” (chữ của Nguyễn Bính).Hà Nội trở thành
khơng gian của những mối tình lãng mạn, đẹp mong manh và buồn mong manh.
Trong cuộc sống tù đọng, tàn lụi dần nơi phố huyện, hai chị em Liên và An trong
truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam vẫn luôn ngưỡng vọng một chuyến tàu
đêm. Chuyến tàu chỉ lướt qua phố huyện nghèo, đem đến cho những tâm hồn mòn
mỏi một thứ hạnh phúc vay mượn. Chuyến tàu có thể “khơng đơng và kém sáng”
nhưng đó là chuyến tàu từ Hà Nội về, Hà Nội lấp lánh ánh sáng và rộn rã âm thanh là
chút sinh khí mà phố huyện tồn tại lay lắt này đang thiếu. Hình ảnh Hà Nội với những
cốc nước xanh đỏ, mát lạnh uống ở Bờ Hồ hiện lên thật giản dị và tội nghiệp trong
miền kí ức xa xôi và niềm ngưỡng vọng về một cuộc sống khác đẹp đẽ nhưng xa vời
của hai đứa trẻ.
Không chỉ có sự xuất hiện của những khơng gian đơ thị đặc trưng, trong những
diễn ngơn lãng mạn, hình ảnh người thiếu nữ tân thời là hình ảnh được tơ đậm ấn
tượng. Đây không chỉ là ấn tượng được tạo sinh và duy trì bằng ngơn ngữ, trong
những diễn ngơn văn học mà là ấn tượng trực tiếp từ những sáng tạo của ông Cát
Tường (một thành viên của Tự lực văn đoàn) trong việc cách tân chiếc áo dài theo lối
hiện đại. Chiếc áo dài Le Mur Cát Tường dù ban đầu vấp phải dư luận phản đối cho
rằng đó là sự “lai căng” nhưng sau đó lại có ảnh hưởng không nhỏ đến diện mạo chiếc
áo dài ngày nay. Hình ảnh những thiếu nữ tân thời trong bộ áo dài kèm theo những
phục sức cầu kì trở thành một hình ảnh sang trọng, trang nhã đối lập với vẻ đẹp thuần
hậu, chất phác, dân dã của những cô gái miền thơn q. Cũng chính những cơ gái tân
thời này trở thành hình ảnh trung tâm xuất hiện trong những diễn ngôn thể hiện xung
đột giữa một bên là những tư tưởng cũ, nề nếp gia đình cũ áp chế người phụ nữ và
một bên là những tư tưởng mới địi giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền, địi tự do
luyến ái, tự do hơn nhân… Hình ảnh những cô gái tân thời trong sự đối lập với những

24



người con gái truyền thống nơi miền quê thôn dã đã góp phần tạo nên ý niệm về một
Hà Nội văn minh, nơi giải phóng những khát vọng của con người.
Bên cạnh diễn ngôn đô thị được kiến tạo trên nền tư tưởng lãng mạn, ta có thể
kể đến một diễn ngôn đô thị văn minh trong thế tương phản mạnh mẽ với nông thôn
truyền thống ngàn đời nhưng được kiến tạo trên cảm hứng châm biếm, đả kích. Đó là
chùm tranh châm biếm xuất hiện dày đặc trên các báo Phong hóa và Ngày nay chế
nhạo Lý toét.Đem Lý toét ra giễu nhại nghĩa là giễu nhại hình ảnh đại diện tiêu biểu
cho người nông dân chốn làng quê. Hình ảnh Lý toét ra phố với áo the, khăn xếp,
guốc mộc, cầm ô một cách chỉn chu nhưng theo sau đó là hàng loạt tình huống khơi
hài do hồn toàn lạc lõng, xa lạ với phố phường là một diễn ngơn sinh động góp phần
đề cao tính chất văn minh của đô thị Hà Nội đầu thế kỉ XX rất phổ biến trong những
diễn ngôn lãng mạn. Tác giả George Dutton trong tiểu luận Hí họa Lý toét: Cuộc hôn
phối bắt buộc với nền văn minh đã nhận xét chùm tranh biếm họa trên báo Phong hóa
như sau: “Một trong những đóng góp nổi bật của các tờ báo mới này là chúng nhấn
mạnh ý tưởng người Việt đang sống trong một thời đại mới và năng nổ, một thời đại
trong đó quá khứ và “truyền thống” tương phản rõ rệt với hiện tại và “hiện đại”. Một
trong số những cách diễn tả tương phản đáng chú ý nhất là biếm họa về một nhân vật
khiêm nhường, một người nơng dân ra thành phố, có tên là Lý Tt. Về nghĩa hẹp,
hình ảnh này đại diện cho sự va chạm giữa cái cũ và cái mới, và về nghĩa rộng hơn,
Lý Toét được dùng như hình ảnh ngược lại của một căn cước thành thị Việt Nam đang
nổi lên” [10]
Hà Nội trong những thập kỉ đầu của thế kỉ XX là một thành phố đang trên đà đơ
thị hóa một cách chóng mặt.Tốc độ đơ thị hóa nhanh chóng không chỉ thể hiện trên bề
mặt vật chất với các cơng trình kiến trúc mà cịn thể hiện trên ngơn từ trong các tiểu
thuyết và phóng sự của những nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan.Hà
Nội hiện diện trong những diễn ngơn này là một hình ảnh đối lập hồn tồn với hình
ảnh được tạo dựng trong những diễn ngôn lãng mạn. Nếu như những nhà lãng mạn
xây dựng một Hà Nội văn minh, một đô thị hào hoa, thanh lịch, phảng phất màu sắc

Tây phương cổ điển thì những nhà văn như Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Cơng
Hoan…, với cái nhìn phanh phui hiện thực, lại xây dựng trong diễn ngơn của mình

25


×