Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.63 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
===== o0o =====

TIÓU LUËN triÕt häc
THỰC TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
Người hướng dẫn khoa học : TS. Trần Thị Hồng Loan
Học viên
: Dương Thùy Linh
: K18 - Toán ứng dụng

Lớp

Hà Nội - 2015

MỤC LỤC

Trang


2
MỞ ĐẦU.........................................................................................................

1

NỘI DUNG.....................................................................................................

5

Chương 1. GIỚI THIỆU VỀ TRIẾT HỌC HEGEL……………............


5

1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CÁC TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
CỦA TRIẾT HỌC HEGEL.............................................................................

5

1.2.CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRIẾT HỌC CỦA HEGEL…….......

11

Chương 2. MỘT SỐ NỘI DUNG LOGIC HỌC TRONG TÁC PHẨM
BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC I. KHOA HỌC
LOGIC CỦA HEGEL....................................................................................

17

2.1. ĐỒNG NHẤT LOGIC HỌC VỚI HỆ THỐNG KHOA HỌC VÀ
SIÊU HÌNH HỌC …........................................................................................

17

2.2. LOGIC HỌC VÀ CON ĐƯỜNG TÌM KIẾM CHÂN LÝ………

19

2.3. LOGIC HỌC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TINH THẦN TỰ DO……

25


2.4. ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN MACXIT VỀ LOGIC
CỦA CỦA HEGEL..........................................................................................

28

KẾT LUẬN.....................................................................................................

31

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................

32

MỞ ĐẦU


3
1. Lý do chọn đề tài
Logic học là một môn khoa học xuất hiện rất sớm trong lịch sử và đặc
biệt là ở Phương Tây, từ thế kỷ thứ III Trước CN với logic học hình thức của
Aristotle, cho đến ngày nay nó vẫn không ngừng được nghiên cứu và phát
triển. Hegel sử dụng logic biện chứng như là một công cụ để con người
nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, xã hội tư duy, tìm đến chân lý và khi đó
tư duy, hành động thực tiễn của con người được giải phóng, con người sẽ có
tự do, không thể có một thực tiễn tự do nếu không có tư duy tự do cũng như
không có tư duy tự do nào không mang lại hiệu quả thực tiễn. Như vậy, tư
duy vươn xa đến đâu, tự do của con người cũng sẽ vươn xa đến đấy.
Hegel đã đưa ra một hệ thống quan điểm toàn diện về logic học, qua đó
đưa phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của toàn bộ
vấn đề triết học Hegel. Phép biện chứng được ông lý giải là phương pháp

đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng
được ông nghiên cứu một cách đầy đủ và có căn cứ vững chắc nhất, là
phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học Mác. Logic học biện
chứng của Hegel là nền tảng lý luận quan trọng để sau này chủ nghĩa Mác xây
dựng học thuyết của mình. Chính vì vậy, với những người nghiên cứu trong
giai đoạn hiện nay muốn phân tích và hiểu sâu sắc về chủ nghĩa Mác phải
quay trở lại với những tư tưởng logic học của Hegel.
Trong triết học Hegel, phép biện chứng biểu hiện là lý luận nhận thức
và là hình thức cao nhất của logic học và của tư duy logic. Thực tiễn phát
triển của nhận thức khoa học của xã hội hiện đại ngày càng chứng minh vai
trò của phép biện chứng. Trong sự phát triển của mình, khoa học tự nhiên
hiện đại gặp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát triển. Con
người ngày càng đi sâu nghiên cứu vào mọi cấp độ cấu trúc, từ vi mô đến vĩ


4
mô và cũng nhận ra rằng giới tự nhiên tiến hoá không ngừng tuân theo một
quy luật của nó.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử nên Hegel đã có những kết
luận mâu thuẫn không nhất quán, trái với các nguyên tắc xuất phát của mình,
do vậy logic học Hegel vẫn còn những hạn chế, nhưng không vì đó mà làm
mất đi ý nghĩa tiến bộ của Logic học với các nguyên tắc biện chứng xuất phát
của Hegel, một phương pháp khoa học nhận thức con người đạt tới chân lý và
có tự do, một tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo nhằm giải phóng
con người giúp đạt tới công bằng xã hội. Với ý nghĩa thiết thực trên những
người nghiên cứu bắt buộc quay trở lại với logic học của Hegel.
Chính yêu cầu lý luận và thực tiễn cần nhận thức đúng đắn sâu sắc hơn
nữa về logic học của Hegel để qua đó thấy được những giá trị về con đường
tìm kiếm chân lý để đi đến tự do thông qua phương pháp biện chứng mà tôi
quyết định lấy đề tài: “Quan điểm cơ bản của Hegel về logic học”

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Có nhiều bài viết nghiên cứu về logic học của Hegel song chưa có bất
cứ tác phẩm nào trình bày một cách hệ thống logic của Hegel.Gần với đề tài
này nhưng ở một góc độ khác đã có một số công trình như :
- Cuốn sách: Bách khoa thư các khoa học triết học của dịch giả Bùi Văn
Nam Sơn, NXB Tri Thức 2008. Trong công trình này tác giả chủ yếu tập
trung dịch một cách chi tiết chính xác tác phẩm Tiểu Logic của Hegel, cùng
với đó là sự chú giải về những vấn đề trọng tâm khó hiểu khi đọc sách của
Hegel. Qua đó tác giả đưa ra những quan điểm đánh giá rất sâu sắc về nội
dung học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết khái niệm.
Tuy nhiên cuốn sách này chưa trình bày một cách hệ thống và ngắn gọn logic
học của Hegel.


5
- Cuốn sách: “Lịch sử phép biện chứng” tập III. Phép biện chứng cổ điển
Đức. Đỗ Minh Hợp Dịch, NXB Chính trị quốc gia. Cuốn sách này đi sâu
nghiên cứu về phép biện chứng trong lịch sử nhận thức nhân loại trong đó có
tư tưởng phép biện chứng Hegel.
- Cuốn sách: “Logic học biện chứng”. E.V.Ilencôv, NXB Văn hoá thông tin,
2003, TS Nguyễn Anh Tuấn dịch. Tác phẩm đã đề cập đến quan điểm logic
học của Hegel như phép biện chứng của tư duy. Đối tượng của logic học là tư
duy, logic học phải giải quyết sâu sắc nghiêm túc hơn vấn đề khái niệm và tư
duy trong khái niệm từ đó đi đến những kết luận khoa học về logic học để
thấy được những đóng góp của Hegel trong dòng chảy logic biện chứng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc nội dung tác phẩm Bách khoa
thư các khoa học triết học - Khoa học Logic, tiểu luận đã phân tích những
cách hiểu của Hegel về logic học để từ đó thấy được sự kế thừa và phát triển

của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng phương pháp tư duy biện
chứng trong nhận thức.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, tiểu luận thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Phân tích được nội dung logic học Hegel đã thể hiện qua tác phẩm
Bách khoa thư các khoa học triết học - Khoa học logic
- Chỉ ra được những nhận xét của các nhà kinh điển Macxit về logic
học của Hegel.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Logic học Hegel


6
* Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi của tiểu luận triết học, tiểu luận chỉ đi sâu nghiên cứu
nội dung logic học trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học Khoa học logic của Hegel
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tư duy logic
và những vấn đề lý luận nhận thức
* Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận này sử dụng những phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bao gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh…


7
NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THIỆU VỀ TRIẾT HỌC HEGEL

1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CÁC TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA
TRIẾT HỌC HEGEL
1.1.1. Hoàn cảnh nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu XIX
Nước Đức lúc này vẫn là quốc gia phong kiến lạc hậu, Liên bang Đức
chỉ tồn tại về mặt hình thức, chứ thực tế đất nước còn phân tán thành nhiều
tiểu vương quốc tách biệt nhau, tình trạng cũ cứ vẫn còn tồn tại. Cùng với đó
kinh tế xã hội kém phát triển, , không đủ sức mạnh, đến năm 1822 cả nước
Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước, nông nghiệp đình đốn. Về chính trị, triều
đình vua Phổ Phriđrích Vinhem vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và duy trì
chế độ quân chủ phong kiến thối nát, luôn cản trở đất nước phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Chính sự phân tán của nước Đức đã làm cho sức
mạnh của giai cấp tư sản bị suy yếu, bản thân giai cấp tư sản Đức không đủ
sức mạnh bản lĩnh để lật đổ chế độ phong kiến Phổ ngược lại thoả hiệp với
chế độ phong kiến Phổ để cai trị đất nước. Tính chất mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất phát triển nhanh và quan hệ sản xuất đã lỗi thời ngày càng gay
gắt đã được thể hiện ngay trong những tác phẩm triết học các đại biểu triết
học cổ điển Đức.
Bối cảnh lịch sử đó ở Tây Âu và nước Đức đặt trước các nhà triết học
nhiều vấn đề cần giải quyết, tư tưởng Siêu hình học thế kỷ XVII đã từng đóng
vai trò to lớn trong việc phát triển tư duy, lý luận và hệ thống hoá tri thức con
người không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn của tư tưởng
Tây Âu thế kỷ XVIII nữa, khi mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển
tách ra khỏi cái nôi triết học của mình và trở thành những lĩnh vực nghiên cứu
độc lập. Ngay từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện những xu


8
hướng xét lại siêu hình học các giá trị tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên, triết
học Tây Âu phục hưng - cận đại từng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản
tiến hành các cuộc cách mạng tư sản, phát triển phương thức sản xuất Tư bản

chủ nghĩa, nhưng về cơ bản thì vẫn chưa thoát khỏi quan niệm cơ học về thế
giới, tư duy siêu hình không còn khả năng lý giải bản chất của thực tiễn xã
hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.
Từ thực tiễn trên ta có thể thấy một yêu cầu cấp bách đó là phải có cách
nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cũng như
cần có quan điểm mới về khả năng hoạt động của con người. Và triết học cổ
điển Đức ra đời nhằm đáp ứng với những sứ mệnh lịch sử đó của không chỉ
riêng nước Đức, mà cả phương Tây . Cho nên triết học có những đặc điểm
chính như sau:
Thứ nhất: Đây là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức
cuối thế kỷ XVII nửa đầu thế kỷ XIX. Hegel cũng đã xuất thân từ tầng lớp
thượng lưu trong xã hội. Nhận thấy sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời
đó. Được sự cổ vũ của giai cấp tư sản các nước, họ thể hiện nguyện vọng tiến
bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vì trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự
thịnh vượng, phồn vinh và thống nhất đất nước. Nhưng khác với giai cấp tư
sản ở các nước Tư bản phát triển, giai cấp tư sản Đức đã từng thoả hiệp với
các tầng lớp quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong quá trình phát triển
đất nước. Điều đó thể hiện tính chất yếu kém và mâu thuẫn của giai cấp tư sản
Đức, chính vì vậy những tư tưởng trong triết học cổ điển Đức luôn thể hiện sự
trừu tượng, khó hiểu mâu thuẫn.
Thứ hai: Triết học giai đoạn này luôn đề cao vai trò tích cực của hoạt
động con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng phương Tây từ
chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề nhận thức luận… đến chỗ coi con người
như một chủ thể hoạt động là nền tảng xuất phát của mọi vấn đề triết học. Với


9
Hegel, con người được ông khẳng định là sản phẩm của một thời đại lịch sử
nên mang bản chất xã hội. Ông đề cao sức mạnh trí tuệ cũng như hoạt động
của con người đến mức cực đoan, thần thánh hoá con người, coi con người là

chúa tể của tự nhiên, bản thân tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt động của con
người.
Thứ ba: Triết học cổ điển Đức dựa trên một cách nhìn biện chứng về
thế giới mà tiêu biểu là Hegel với việc phát hiện ra những quy luật, các phạm
trù cơ bản của phép biện chứng và xây dựng nó trở thành một khoa học về sự
phát triển của tất thảy mọi sự vật tư tưởng. Ý nghĩa thực sự cách mạng và
khoa học của triết học Hegel là ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của
những kết quả của tư tưởng, hành động con người. Theo Hegel, chân lý mà
triết học có nhiệm vụ phải nhận thức, không còn là một tập hợp những
nguyên lý giáo điều, những kết luận có sẵn mà chân lý nằm trong chính quá
trình nhận thức.
Thứ tư: Với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực, nhiều
nhà triết học cổ điển Đức cũng đã có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức
và thành tựu mà nhân loại đạt được từ trước tới giờ. Hegel có ý đồ xây dựng
một hệ thống triết học vạn năng của mình làm nền tảng cho toàn bộ thế giới
quan con người, khôi phục quan niệm coi triết học là khoa học của khoa học.
1.1.2. Tiền đề lý luận
* Triết học Hy Lạp cổ đại (Platôn, Hêraclit)
Platôn đã từng nói: “Thượng đế tạo nên thế giới từ bản tính tự nhiên
của cái Một và cái khác” [1, 332]. Điều này nói lên bản tính chung của cái
hữu hạn là cái gì đó không đứng đối lập một cách dửng dưng với cái khác mà
về mặt tự mình là cái khác của chính mình và do đó tự biến đổi.
Platôn nêu ra tư tưởng về “cái hữu thể đang tồn tại” theo nghĩa cái đang
tồn tại hoàn toàn tương ứng với khái niệm của nó, chỉ có cái gì “tồn tại một


10
cách tồn tại” là ý niệm mới tồn tại theo nghĩa đích thực: nó loại trừ sự không
tồn tại, sự tồn tại khác, sự ra đời và tiêu vong ra khỏi nó, nên bản thân nó
không tiêu vong là vĩnh hằng. Và đây là nền tảng mà sau này Hegel đưa ra

quan niệm về “tính hữu tận” để luận chứng cho mọi chân lý.
Cùng thời với Platôn, Heraclit là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ
đại. Ông sinh vào khoảng 544 – 483 trước Cn, xuất thân từ tầng lớp chủ nô
quý tộc nhưng bản thân lại sống trong nghèo khổ. Dưới con mắt của Hêraclit,
mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi, vận động và phát triển
không ngừng, tức mọi cái chỉ xảy ra một lần, không lặp lại mặc dù giữa các
sự vật có thể có sự kế thừa nhất định. Ông cũng thừa nhận mọi sự tồn tại và
thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các mối quan hệ khác nhau. Bản
thân logos là sự thống nhất của các mặt đối lập. Vũ trụ là một thể thống nhất,
nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật và lực
lượng đối lập nhau, nhờ các cuộc đấu tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật
này chết đi cũng như sự vật khác ra đời. Điều đó làm cho vũ trụ thường xuyên
phát triển và trẻ mãi không ngừng. Vì thế đấu tranh là quy luật phát triển của
vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh luôn diễn ra trong sự hài hoà nhất định, dựa
trên quy định của logos.
Có thế nói Hegel đã kế thừa và phát triển có hiệu quả tư tưởng về ý
niệm của Platôn và tư tưởng biện chứng của Hêraclit để xây dựng nên học
thuyết của mình và lý giải bản chất của thế giới.
* Triết học Tây âu cận đại (Xpinoza)
Bêkênít Xpinoza (1632 - 1677) là nhà triết học lỗi lạc của Hà Lan. Ông
xuất phát từ thế giới để giải thích con người, lấy cơ sở, nền tảng thế giới quan
của mình là học thuyết về giới tự nhiên như một thực thể duy nhất, tồn tại như
causa sui. Thực thể này không phải do Thượng đế sinh ra mà trái lại thượng
đế cũng chính là thực thể giới tự nhiên chứ không đứng trên thế giới tự nhiên


11
như một lực lượng siêu nhiên thần bí nào khác. Nhưng khi tìm hiểu vào
những đặc tính của thực thể, Xpinoza đã rơi vào mâu thuẫn: một mặt, ông coi
thực thể gắn liền với sự tồn tại cụ thể của nó và mặt khác ông lại kết luận

“thực thể, về bản chất có trước các trạng thái của nó. Ông thừa nhận tồn tại vô
vàn các thuộc tính của thực thể, nhưng Xpinoza khẳng định con người chỉ biết
được duy nhất hai thuộc tính trong số chúng, đó là tư duy cũng như quảng
tính. Tư duy chính là toàn bộ thực thể được biểu hiện dưới các hình thức tư
tưởng và ý niệm.
Bản thể như là nguyên tắc của triết học Xpinoza, ngay từ khi ra đời đã
có nhiều sự ngộ nhận và tranh cãi. Hệ thống của Xpinoza thường bị phê phán
chủ yếu ở thuyết vô thần, rồi ở thuyết phiếm thần. Lý do trong cả hai trường
hợp là trong hệ thống của Xpinoza, Thượng đế được hiểu như là bản thể và
chỉ như là bản thể mà thôi. Hegel đánh giá rằng với học thuyết về bản thể này
Xpinoza đã không đạt được quan điểm chính xác về Thượng đế thậm chí còn
tụt hậu, bởi Thượng đế là Ngôi vị tuyệt đối, còn bản thể chỉ là một cấp độ
trong tiến trình phát triển của Ý niệm. Hegel cũng bác bỏ những quan điểm
cho rằng học thuyết về bản thể của Xpinoza là thuyết vô thần bởi nó không có
cơ sở. Thượng đế chỉ không bị phủ nhận mà đúng hơn, còn thừa nhận như là
cái tồn tại duy nhất đúng thật.
* Triết học cổ điển Đức ( Kant, Phictơ, Selling )
I.Kant (1724 - 1804) sinh ra trong một gia đình quý tộc Phổ, triết học
của Kant được đánh giá là nền tảng là điểm xuất phát của triết học Đức hiện
đại. Tư tưởng của ông đã làm một cuộc đảo lộn hướng triết học từ nghiên cứu
tự nhiên tới con người như một chủ thể, từ tồn tại đến hoạt động, xem xét biện
chứng về giới tự nhiên và giới lịch sử. Những biểu tượng được xúc cảm và
trực quan mang lại là một cái đa tạp thông qua hình thức, tức thông qua sự tồn


12
tại ở bên ngoài nhau trong hai hình thức không gian và thời gian, mà bản thân
là tiên nghiệm với tư cách là các hình thức thuần tuý của trực quan.
Kant khẳng định tư duy là đối tượng nghiên cứu của logic học, từ đó
ông tiếp tục phát triển xu hướng để xây dựng một logic mới khác với logic

hình thức cổ điển, ông phân biệt thành hai dạng logic: logic đại cương và
logic tiên nghiệm và tập trung nghiên cứu logic tiên nghiệm, theo ông đây là
công cụ nhận thức và là phương tiện làm giàu tri thức tiên nghiệm tổng hợp.
Hegel đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Kant về logic học tiên nghiệm
về cơ bản thì khác với logic hình thức truyền thống, bởi theo ông, logic học
tiên nghiệm sẽ là tiền đề cho logic học biện chứng.
Triết học Phictơ “Biến cái Tôi làm khởi điểm của sự phát triển tư duy
triết học, và các phạm trù được giả định là kết quả hoạt động của cái Tôi.
Nhưng ở đây cái Tôi không xuất hiện như là hoạt động tự do, tự khởi đúng
thật, bởi nó được xem như là chỉ được phát khởi thông qua một cú hích bên
ngoài, như thế, cái tôi được giả định như là phản ứng lại trước cú hích này
và đạt được ý thức về chính mình thông qua sự phản ứng ấy” [1, 214]. Như
vậy Phichtơ lý giải nguồn gốc của vận động luôn do tác động từ bên ngoài, cú
hích của Thượng đế chứ không phải là tự thân vận động.
Phridrích Vinhem Giôdép Senling (1775-1854) là bậc tiền bối của triết
học Hêghen, ban đầu là bạn thân. Nhờ ảnh hưởng của Senling mà Hêghen say
mê nghiên cứu các vấn đề triết học, nhưng sau này giữa hai ông có nhiều bất
đồng về cách thức xây dựng hệ thống. Senling đã nhận thấy hạn chế ở lập
trường duy tâm chủ quan của Phích tơ khi giải quyết mối quan hệ thế giới con người chỉ trong khuôn khổ của cái Tôi tuyệt đối, Senlinh cải biến cái Tôi
tuyệt đối của Phích tơ thành cái “Tuyệt đối” của ông, được hiểu như đấng tối
cao sáng tạo ra tự nhiên cũng như xã hội loài người. Cái Tuyệt đối theo
Senling là sự đồng nhất giữa tinh thần, vật chất và giữa chủ thể và khách thể.


13
Quan niệm này là điểm xuất phát từ nền tảng của triết học. Chính vì vậy ông
cho rằng xuất phát thể tự nhiên của Xpinoza, cũng như xuất phát từ cái Tôi
tuyệt đối thể hiện như sự tự ý thức và hoạt động của Phíchtơ, về mặt nội dung
là như nhau và đều hợp nhất trong cái Tôi tuyệt đối của ông. Ông coi cái
Tuyệt đối là đấng tối cao sáng tạo ra cả giới tự nhiên và cả con người. Giới tự

nhiên là giai đoạn phát triển thấp, giai đoạn vô thức, còn con người và xã hội
loài người là giai đoạn phát triển cao nhất của cái tuyệt đối, trong đó, cái
Tuyệt đối có thể tự ý thức về mình. Hoạt động nhận thức, cải tạo thế giới của
con người chính là công cụ để cái Tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình,
“soi bản thân mình”. Với luận điểm “giới tự nhiên là tinh thần nhìn thấy, còn
tinh thần chính là giới tự nhiên không nhìn thấy”, Senling luôn coi sự phát
triển của tự nhiên là sự phát triển của bản thân tinh thần. Có thể nói tư tưởng
về cái Tuyệt đối của Senling là một trong những tiền đề quan trọng mà sau
này Hêghen kế thừa trong việc xây dựng học thuyết của mình trong Tinh thần
tuyệt đối.
Như vậy Hegel đã kế thừa có phê phán và đánh giá đối với các nhà triết
học tiền nghiệm để từ đó xây dựng nên các học thuyết logic học của mình về
phương pháp tư duy phản ánh đúng đắn quá trình nhận thức của con người
trong thế giới.
1.2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRIẾT HỌC CỦA HEGEL
1.2.1. Hệ thống triết học Hegel
Triết học của Hegel là hệ thống phong phú nhất và hoàn thiện nhất
trong lịch sử triết học trước Marx. Hegel đã tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng
cũ ở phương Tây, phân tích mọi chủ nghĩa, học thuyết của các bậc tiền bối,
đưa ra ý nghĩa lịch sử của nó đồng thời tìm ra những mâu thuẫn nội bộ xuất
hiện trong tư tưởng ở mỗi một giai đoạn lịch sử. Những mâu thuẫn ấy đòi hỏi


14
phải được giải quyết bằng cách xoá bỏ những hình thái cũ để tiến lên một
trình độ cao hơn.
Ngay từ khi còn trẻ, Hegel đã có ý thức về nhiệm vụ phải xây dựng hệ
thống triết học. Năm 1800, khi vừa tròn 30 tuổi, trước khi đến Jena để bắt đầu
sự nghiệp triết học của mình, ông có viết: “Trong sự đào tạo triết học của tôi,
bắt đầu từ những nhu cầu thứ cấp của con người, tôi phải đẩy lên thành khoa

học, và lý tưởng thời tuổi trẻ của tôi cũng đồng thời phải được chuyển hoá
thành hình thức phản tư, thành một hệ thống”. [1. XIII]. Hegel cho rằng ngay
trong lòng thời đại ông sống đang diễn ra sự đổ vỡ sâu sắc cả về hai phương
diện là tôn giáo và chính trị, đòi hỏi cần phải có sự hoà giải bằng cách đi tìm
cái tối hậu cũng như cái tối cao trong khoa học, khoa học trong cách hiểu thời
bấy giờ của Hegel không thể là gì khác ngoài Triết học với tư duy “tư biện”.
Triết học chính là khoa học và triết học phải được xây dựng thành một hệ
thống, như thế, Hegel đã đạt đến cấp độ tư duy hệ thống hướng đến “khoa
học” đã nhận ra rằng việc xây dựng thành hệ thống là cần thiết của lịch sử tư
tưởng nhân loại.
Chuyển sang Jena (1801) Hegel thực sự được nghiên cứu triết học, ông
đã xác định được nhiệm vụ của triết học theo tinh thần của thời trẻ trước đó :
“Khi sức mạnh của sự hợp nhất biến mất khỏi đời sống của con người và các
sự đối lập đã mất đi mối tương quan sống động và sự tác động qua lại để trở
nên độc lập thì nảy sinh nhu cầu của triết học” [1, XIV]. Nhiệm vụ của triết
học đó là giải phóng những sự đối lập đã trở nên cứng nhắc và để thực hiện
được nhiệm vụ đó đòi hỏi cần có một công cụ đó chính là sự phản tư, sự trở
về bản thân nó của tư duy. Theo Hegel, phản tư chính là quá trình nhận thức
gián tiếp, là sự phản ánh lẫn nhau của cái này trong cái kia và triết học không
được thoả mãn trong nguyên tắc của sự đồng nhất tuyệt đối mà phải tiến thêm


15
một bước nữa, sử dụng phản tư để phá vỡ sự xơ cứng trong nhận thức triết
học để từ đó tạo ra một hệ thống khoa học.
Năm 1807 lần đầu tiên Hegel cho xuất bản phần thứ nhất của hệ thống:
Quyển “Hiện tượng học Tinh thần” tác phẩm này thoạt đầu chỉ được dự kiến
như là phần “dẫn nhập” để đi vào triết học, nhưng phần này nhanh chóng
bùng nổ thành một công trình độc lập như là “phần thứ nhất” của hệ thống
triết học và được thừa nhận rộng rãi như một tác phẩm thiên tài của Hegel.

Như vậy trong hơn sáu năm làm việc ở Jena, Hegel vừa theo đuổi tư
tưởng hệ thống khi phê phán các nền triết học khác và vừa từng bước xây
dựng các bộ phận cho hệ thống của chính mình. Thành tựu ấy đã được đúc kết
trong lời tựa nổi tiếng đặt ở đầu quyển Hiện tượng học tinh thần nhưng thực
ra là lời tựa chung cho toàn bộ “hệ thống” được lý giải rõ ràng về mặt khái
niệm và được biện minh như một Cương lĩnh đầy tham vọng : “Hình thái
đúng thật, trong đó Chân lý hiện hữu và chỉ có thể là Hệ Thống khoa học về
Chân lý này. Góp phần đưa triết học đến gần với hình thức của khoa học mục đích để nơi đó triết học có thể trút bỏ danh xưng là “sự yêu mến cái
biết” để trở thành Tri thức hiện thực”[Hiện tượng học tinh thần, 11]. Như vậy
ý đồ ấy của Hegel tương ứng với cả hai mặt của sự tất yếu : Sự tất yếu bên
trong . Cái Biết phải là khoa học, là bản tính tự nhiên của cái Biết; bản tính ấy
chỉ thoả mãn trong việc trình bày cặn kẽ của bản thân hệ thống triết học. Sự
tất yếu bên ngoài: thời điểm đã chín muồi cho việc nâng triết học lên thành
khoa học.
Hệ thống triết học Hegel là đầy đủ nhất với đỉnh cao của nó là Khoa
học Logic, đã xuất hiện ra như là khoa học mà ta có về Ý niệm logic, Ý niệm
ở đây không chỉ thể hiện hay trình bày như là cái toàn thể được hợp nhất hoá
một cách mạch lạc và là nơi Ý niệm tự khẳng định sự tự do của mình một
cách cụ thể. Cái toàn thể có hệ thống này chỉ là một ý niệm duy nhất chứ


16
không phải là sự đa tạp vô trật tự của các ý niệm. Một ý niệm ở đây chính là
vòng tròn của những vòng tròn tạo nên chuỗi nội dung của nó.
Hegel cho rằng, chúng ta tìm thấy các cấp độ khác nhau của ý niệm
logic ở trong lịch sử của triết học, trong hình thức của những hệ thống triết
học xuất hiện tiếp theo nhau, mà mỗi hệ thống đều lấy một định nghĩa đặc thù
về cái tuyệt đối làm cơ sở cho mình. Giống như sự triển khai Logic như là
một tiến trình tiến lên từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, cũng như thế trong lịch
sử triết học, các hệ thống sớm nhất là trừu tượng nhất, và do đó, đồng thời là

nghèo nàn nhất. Vậy là trong lịch sử nhận thức, hệ thống sau bao chứa trong
lòng mình tất cả những hệ thống trước đó. Hệ thống ở đây bao gồm tổng thể
các hệ thống trước đó được hình thành trong lịch sử. Với ý đồ xây dựng một
hệ thống triết học đồ sộ, ông mang trong mình tham vọng rộng lớn là ôn tất cả
mọi tri thức của nhân loại vào trong hệ thống của mình. Đây chính là điểm
đặc biệt và cơ sở để chúng ta dễ dàng đi sâu vào nghiên cứu logic học Hegel.
1.2.2. Vị trí của logic học trong hệ thống Hegel
Hegel xác định rất rõ ràng vị trí của logic học trong tổng thể các khoa
học triết học của mình trong tiểu đoạn §18 của cuốn Bách khoa toàn thư các
khoa học triết học. Ông nhận thấy đó là một nhiệm vụ khó khăn vì để làm
được điều đó đòi hỏi cần phải có một sự phân chia tổng quát nội dung của
triết học thành những bộ phận khác nhau trong đó logic học là một phần.
Để hiểu được sự phân chia triết học và vị trí của khoa học logic, trước
hết cần làm rõ thuật ngữ then chốt: Ý niệm và Ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm là tư duy tuyệt đối đồng nhất với chính mình, ý niệm là đối
tượng đích thực của cái tôi tư duy trong chừng mực Cogito vươn tới các kích
thước của tư duy thuần tuý. Như vậy ý niệm là tính khả niệm của mọi sự vật,
là tư duy kích hoạt tất cả, và tất cả đều là một sự phản ánh, một sự tham dự
vào tư duy. Vậy thực chất ý niệm chính là tư duy tự suy tưởng, và do đó, suy


17
tưởng về tất cả những gì có thể suy tưởng được. Ý niệm trước hết là một cái
phổ biến, là cả một vũ trụ mà ta không bao giờ ra khỏi nó được. Nó là Tư duy
- và bất kể nó là gì và đang suy tưởng gì - thì vẫn luôn tự khẳng định chính
mình như là tư duy, và như thế bao giờ cũng đồng nhất với chính mình, hiểu
trong sự thuần tuý và trừu tượng như là tính khả niệm thuần tuý, Ý niệm
chính là đối tượng nghiên cứu của Khoa học về Logic.
Hegel nêu ra ba yếu tố: logos, tự nhiên và tinh thần và khẳng định
chúng có giá trị nhận thức, thậm chí là nhận thức bản thể học tuyệt đối. Đó là

ba mômen bộ phận và tạm thời của Ý niệm tuyệt đối duy nhất mà tính toàn
thể của nó phản ánh trong từng Ý niệm nhất định ấy. Vậy, trong tự nhiên,
không gì có thể khác hơn là chính bản thân Ý niệm, nhưng chỉ có điều: nó tồn
tại trong hình thức của cái tồn tại khác của nó, hay, chính xác hơn, Logos là Ý
niệm tự mình và cho mình, và Logic học là khoa học về Ý niệm như thế,
nghĩa là khoa học về Ý niệm thuần tuý, về tính khả niệm thuần tuý trong sự
trừu tượng của tư duy đơn thuần của nó về chính mình. Như vậy Ý niệm tuyệt
đối - với tư cách là Ý niệm logic, là Ý niệm tự suy tưởng chính mình như là Ý
niệm thuần tuý ở bên ngoài thời gian và không gian, ở bên ngoài con người và
lịch sử. Nhưng trong sự vận động ấy, nó đã mặc nhiên mang dấu ấn của
mômen tự nhiên và mômen tinh thần. Vậy là khái niệm, khách thể và Ý niệm
là ba mômen logic của Ý niệm tuyệt đối. Còn giới tự nhiên và tinh thần,
không gì khác hơn là sự hiện hữu thực tồn, tự trị và chừng mực nào đó là bị
tách rời, phân lập, của hai mômen chủ quan và khách quan của ý niệm tuyệt
đối. Tinh thần không chỉ là ý niệm với tư cách là cái gì cho mình mà còn là Ý
niệm với tư cách đang trở thành tự mình và cho mình. Từ đó, Hệ thống bách
khoa thư các khoa học triết học kết thúc bằng cách quay trở lại điểm xuất
phát, tức quay trở lại Khoa học Logic như khoa học về Ý niệm tự mình và cho
mình, nhưng với sự khác biệt so với trước, Ý niệm logic lúc ban đầu còn là


18
khả thể của mọi sự thì bây giờ qua hệ thống, hoàn tất và trở thành thực tại bản
thể của mọi sự, trở thành phổ biến một cách tuyệt đối.
Sự phân chia nội dung của triết học chỉ được thấu hiểu dựa trên cái toàn
bộ, như thế khoa học Logic theo Hegel được chia làm ba phần :
I. Logic học, Khoa học về Ý niệm tự mình và cho mình
II. Triết học tự nhiên như là Khoa học về Ý niệm trong sự tồn tai khác
của nó (của Ý niệm).
III. Triết học về tinh thần như là Khoa học về Ý niệm quay trở về lại

vào trong chính mình từ sự tồn tại khác của nó.
Như vậy Khoa học logic là bộ phận đầu tiên trong triết học Hegel
nhưng lại là bộ phận quan trọng nhất bởi nội dung của nó bao quát toàn bộ nội
dung của triết học Hegel, đó là Ý niệm tuyệt đối trong sự phát triển liên tục
của nó và đến nấc cao nhất là Ý niệm tự mình và cho mình một cách tuyệt
đối.


19
Chương 2. MỘT SỐ NỘI DUNG LOGIC HỌC TRONG TÁC PHẤM
BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC I. KHOA HỌC
LOGIC CỦA HEGEL
2.1. ĐỒNG NHẤT LOGIC HỌC VỚI HỆ THỐNG KHOA HỌC VÀ SIÊU
HÌNH HỌC
Hegel mong muốn xây dựng triết học như là một hệ thống toàn diện
bao chứa trong mình tất cả những thành tựu của các ngành khoa học, và để
làm được điều đó không thể không tuân theo những nguyên lý, quy luật của
logic học. Chính vì vậy thực chất Hegel đã đồng nhất logic học với hệ thống
khoa học. Mặt khác ông hiểu Logic học không chỉ theo nghĩa quen thuộc của
Logic học hình thức truyền thống hay Logic học giác tính, mà chính là Siêu
hình học. Logic học và siêu hình học là hai môn học cổ xưa nhất của triết học
phương Tây, cho đến nay Logic học, trong ý nghĩa cơ bản của triết học tư
biện đã thay chỗ cho Siêu hình học mà trước đây được nghiên cứu tách rời
với Logic học.
Trong logic học, ta phải làm việc với những tư tưởng thuần tuý, những
tư tưởng được nắm bắt mang lại cho ta nội dung thuộc về bản thân tư duy và
được tạo ra bởi tư duy. Cho nên ta xét logic học như là hệ thống của những
quy định tư duy thuần tuý, còn các khoa học triết học khác: triết học về tự
nhiên và triết học về tinh thần, lại chính là logic học ứng dụng. Như thế, mối
quan tâm của các môn khoa học khác này chỉ là nhận ra những hình thức

logic trong trạng thái của Tự nhiên và Tinh thần, tức các hình thái chỉ như là
một phương cách diễn đạt đặc thù của các hình thức tư duy thuần tuý. Do đó,
Logic học là tinh thần sống động cho mọi ngành khoa học, và những quy định
tư duy được chứa đựng trong Logic học là những tinh thần thuần túy, chúng
là cái gì nội tại nhất.


20
Hegel đánh giá rất cao vai trò của Siêu hình học khác với bậc tiền bối
Kant của mình với triết học phê phán đã làm cho Siêu hình học đi đến chỗ cáo
chung. Ông không chấp nhận điều này bởi vì: “Khoa học và lý trí con người
thông thường đã tay trong tay làm cho Siêu hình học suy tàn nên dường như
ta đang chứng kiến một quang cảnh thật lạ lùng: một dân tộc có văn hoá mà
lại không có Siêu hình học, không khác gì một ngôi đền được trang hoàng
lộng lẫy mà lại thiếu vị thần tối linh”. Bản thân Siêu hình học được xem như
là phương thức dùng giác tính đơn thuần để nhìn về những đối tượng của lý
tính, cho nên cần phải đi sâu nghiên cứu thật kĩ đồng thời đổi mới Logic học
và Siêu hình học nhằm mang lại “linh hồn đích thực” cho đời sống tinh thần
của dân tộc.
Trong tiểu đoạn §85, Hegel đã nêu ra lưu ý sơ bộ liên quan đến mọi
phạm trù logic nói chung đó là : “Những quy định logic nói chung (...) có thể
được xem như là những định nghĩa về cái Tuyệt đối, như là những định nghĩa
siêu hình học về Thượng đế” [1, 290]. Câu này có nghĩa mọi quy định logic
đều có thể được xem như là những định nghĩa về cái tuyệt đối, bởi chúng đều
thuộc về một loại nội dung, đó là mang lại những quy định phổ biến khác
nhau về nội dung logic của Ý niệm tuyệt đối. Nhận thức đích thực về cái
Tuyệt đối không nằm trong những định nghĩa ấy, mà chỉ nằm trong toàn bộ sự
vận động của Khoa học Logic, những quy định logic ấy còn được xem như là
những định nghĩa siêu hình học về Thượng đế. Theo Hegel, thượng đế không
phải là một phạm trù của triết học, trái lại, đó là tinh thần tuyệt đối ở trong

lịch sử của sự khải thị tôn giáo. Định nghĩa siêu hình học không đi tìm những
dấu vết của Tinh thần tuyệt đối ở trong vũ trụ, lịch sử hay tôn giáo, mà diễn tả
bằng những tư tưởng. Và bởi Logic học chứa đựng và bao quát hết mọi tư
tưởng như thế - tức những tư tưởng còn ở trong hình thức thuần tuý của tư
duy chứ không phải như đã được thực tại hoá trong tự nhiên và đã được hiện


21
thực hoá ở trong tinh thần, cho nên, mọi quy định logic là những định nghĩa
siêu hình học về thượng đế.
2.2. LOGIC VÀ CON ĐƯỜNG TÌM KIẾM CHÂN LÝ
Hegel là người có công lao to lớn trong việc xác định vai trò của logic
trong nhận thức chân lý, logic học không phải chỉ là sự miêu tả các hình thức
của tư duy và không phải chỉ là sự miêu tả có tính chất lịch sử tự nhiên về
những hiện tượng của tư duy, mà còn là sự phù hợp với chân lý. Đối tượng
của logic học chính là chân lý thuần tuý : “Logic học là khoa học hình thức,
trái ngược với các khoa học cụ thể, nhưng đối tượng của nó là chân lý thuần
tuý”. Quan niệm của Hegel về chân lý khác với quan niệm thông thường của
chúng ta rằng : chân lý là sự trùng hợp của một đối tượng với sự hình dung
của ta. Vậy là nó trùng với một đặc điểm của nhận thức, bởi nếu không có đặc
điểm này, nhận thức chỉ còn là tư kiến, hay sự tưởng thật mang tính chủ quan.
Trái lại Hêghen phân biệt giữa nhận thức và chân lý, xem chân lý không chỉ là
một đặc điểm mà là:
- Đối tượng của nhận thức
- Là một cái đơn nhất (chỉ có một chân lý)
- Là cái toàn bộ
Nhiệm vụ của triết học là nhận thức về cái toàn bộ ấy. Đối tượng của
khoa học triết học thật đơn giản theo quan điểm của Hêghen, đó là chân lý.
Xem “chân lý” như là đối tượng có nghĩa là nó tồn tại khách quan. Chữ
“khách quan” ở đây không phải là “có giá trị khách quan” đối lập với chủ

quan mà là tồn tại khách quan như bất kỳ đối tượng nào khác cần phải được
nhận thức. Hêghen cho rằng định nghĩa cổ điển về chân lý như là sự trùng
hợp giữa nhận thức và đối tượng là một định nghĩa có giá trị lớn lao, thậm chí
có giá trị cao nhất. Ông cho rằng thông thường ta quen gọi chân lý là sự trùng
hợp giữa một đối tượng với biểu tượng của ta…Ở đây, ta tiền giả định một


22
đối tượng, rồi sự hình dung của ta về nó phải phù hợp với nó. Trái lại, trong
triết học, chân lý - diễn đạt một cách trừu tượng nói chung – “chính là sự
trùng hợp của một nội dung với chính bản thân nó” [1, 119], ví dụ: “Ý nghĩa
sâu xa (có tính triết học) về chân lý vốn phần nào đã có mặt trong ngôn ngữ
thường ngày. Chẳng hạn khi ta nói về một người bạn đích thực và hiểu đó là
một người bạn mà cách cư xử là phù hợp với khái niệm về tình bạn và cũng
như thế, khi ta nói đến một tác phẩm nghệ thuật đích thực” [1, 119]. Không
đích thực có nghĩa là dở, là xấu, là có sự không tương hợp nội tại, cho nên
một nhà nước tồi tệ là nhà nước không đúng thật, và cái tồi tệ, cái không đúng
thật nói chung là ở sự mâu thuẫn giữa sự tự quy định hay Khái niệm với sự
hiện hữu của một đối tượng. “Ta có thể có một hình dung đúng về một đối
tượng tồi tệ như thế, nhưng một hình dung của biểu tượng này lại là một cái
gì không đúng thật trong chính nó. Ta có thể có trong đầu óc vô số những cái
đúng, nhưng đồng thời không đúng thật như thế” [1, 119]. Sự trùng hợp của
một nội dung với chính bản thân nó đồng nghĩa với sự trùng hợp giữa Khái
niệm và sự hiện hữu của nội dung ấy.
Theo Hegel, thực tiễn là thủ đoạn của hoạt động con người, hoạt động
thực tiễn là hoạt động của ý niệm, bản chất của nó là cái logic hình thành ý
niệm, chính vì vậy chân lý là ý niệm, bởi chân lý có nghĩa là: tính khách quan
tương ứng với khái niệm - chứ không phải những sự vật bên ngoài tương ứng
với những biểu tượng của tôi. Ý niệm là chân lý với tư cách là quá trình trải
qua ba giai đoạn: Sự sống ; quá trình nhận thức bao hàm thực tiễn của con

người và kĩ thuật; giai đoạn của ý niệm tuyệt đối. Thoạt đầu, chân lý có nghĩa
là: tôi biết cái gì đấy đang tồn tại như thế nào. Nhưng đây chỉ là chân lý trong
quan hệ với ý thức, hay chỉ là chân lý hình thức, chỉ là sự đúng đắn đơn thuần.
Ngược lại với chân lý này, chân lý sâu hơn có nghĩa là: tính khách quan là
đồng nhất với khái niệm. Chính trong ý nghĩa sâu hơn này của Chân lý khi ta


23
nói, chẳng hạn về một Nhà nước đúng thật, hay một tác phẩm nghệ thuật đúng
thật có nghĩa là thực tại của chúng tương ứng với khái niệm của chúng.
Chứng cứ để chứng minh ý niệm là chân lý đã được thể hiện rất rõ trong toàn
bộ việc trình bày và phát triển cho đến nay của tư duy, ý niệm là kết quả của
toàn bộ diễn trình ấy; tuy nhiên, kết quả này không thể hiểu như thể là cái gì
chỉ được trung giới thôi mà ý niệm là kết quả của chính nó, thông qua những
cấp độ tồn tại, bản chất, khái niệm và tính khách quan trong khi được phân
biệt với nhau, thì vẫn không phải là một cái gì cố định, và chỉ dựa trên chính
bản thân chúng, trái lại, chúng đã tự cho thấy là có tính biện chứng. Ban đầu,
sự sống sinh ra bộ óc, giới tự nhiên được phản ánh trong bộ óc của con người.
Trong khi kiểm nghiệm và áp dụng sự đúng đắn của những phản ánh ấy vào
thực tiễn của mình, và trong kỹ thuật, con người đạt tới chân lý khách quan.
Như vậy, chân lý là một quá trình, từ ý niệm chủ quan người ta đi đến chân lý
khách quan qua thực tiễn. Thực tiễn là một mắt khâu quan trọng trong quá
trình nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn của chân lý.
Hegel xác định rất rõ ràng mục đích của khoa học logic là nhằm mang
lại cho con người cách nhìn mới mẻ về bản chất của tư duy một cách đích
thực. Logic học là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư
duy. Tư duy truyền thống có nhiều ý kiến khác nhau, song theo Hegel có thể
là cao quý hoặc thấp hèn. Ông hiểu tư duy là tư tưởng thuần tuý, là tinh thần
tuyệt đối. Còn logic học là khoa học về vương quốc của tư tưởng thuần tuý nó
thể hiện chúa trong bản chất vĩnh hằng của Ngài trước khi sáng tạo ra giới tự

nhiên và các tinh thần hữu hạn, tức những con người cụ thể. Hegel không
hiểu theo nghĩa hẹp, bó gọn trong ý thức cá nhân như một khả năng nhận thức
chủ quan của con người, mà theo nghĩa rộng, tinh thần tuyệt đối sáng tạo ra cả
giới tự nhiên và con người. Tư duy con người là giai đoạn phát triển cao nhất,
trong đó tinh thần tuyệt đối có khả năng ý thức được bản thân nó. Như vậy


24
Hegel hiểu tư duy có hai dạng, thứ nhất là tư duy tự nó, chính là tinh thần
tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực, thứ hai: tư duy cho nó, tức
tư duy con người, là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, tư duy có ý
thức. Tư duy mỗi con người đều phải hoạt động theo những quy luật khách
quan chung của tư duy, tức tư duy tự nó.
Hegel sử dụng thuật ngữ “những tư tưởng khách quan” biểu thị cho
chân lý, và chân lý phải là đối tượng tuyệt đối chứ không chỉ đơn thuần là
mục tiêu của triết học. “Nhận thức chân lý là ở chỗ làm sao nhận thức khách
thể như nó tồn tại với tư cách là khách thể thoát khỏi mọi sự pha trộn của
phản tư chủ quan” [2, 196] Nhưng đồng thời, thuật ngữ này luôn biểu thị một
sự đối lập, đó cũng là trung tâm của sự quan tâm triết học của chúng ta hiện
nay và cũng là trung tâm điểm của câu hỏi về Chân lý và về việc nhận thức
nó. Nếu những quy định của tư duy bị gán chặt với một sự đối lập cứng nhắc,
nghĩa là, nếu chúng chỉ có bản tính hữu hạn, thì chúng không tương ứng với
Chân lý vốn tồn tại tự mình và cho mình một cách tuyệt đối, và chân lý không
thể đi vào trong tư duy. Tư duy chỉ tạo nên những quy định hữu hạn và tự vận
động ở bên trong những quy định như thế gọi là giác tính
Khi phân chia nội dung của Logic học thành ba phần: học thuyết về tồn
tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm và ý niệm, đồng thời
Hegel cũng nêu ra mối quan hệ giữa ba cấp độ chính yếu của tư tưởng, hay
của Ý niệm logic với nhau đó là: “Chân lý của tồn tại là bản chất”. Tồn tại là
cái trực tiếp, vì muốn nhận thức chân lý về tồn tai tự nó và vì nó là gì nên tri

thức không ngừng lại ở cái trực tiếp và ở các quy định của nó, mà tự mở cho
mình một con đường thông qua cái trực tiếp, với giả thiết rằng ở bên kia cái
tồn tại ấy, còn có một cái gì khác với bản thân tồn tại, rằng hậu trường ấy là
chân lý của tồn tại. Trong quá trình đi từ tồn tại đến bản chất, khái niệm,
trước hết những ấn tượng xuất hiện thoáng qua, rồi một cái gì đó hiện ra, tiếp


25
đến những khái niệm chất và lượng phát triển lên. Sau đó sự nghiên cứu và sự
suy nghĩ hướng tư tưởng đến sự nhận thức về đồng nhất, về sự khác nhau, về
căn cứ, bản chất, hiện tượng... Tất cả những vòng khâu ấy của nhận thức đi từ
chủ thể đến khách thể được kiểm tra bằng thực tiễn, và thông qua sự kiểm tra
ấy mà đạt đến chân lý trong khái niệm: “Chỉ có Khái niệm mới là cái đúng
thật, hay nói cho rõ hơn, chính khái niệm là chân lý của tồn tại và của bản
chất” [1, 274]. Mỗi cái này, nếu bị bám chặt ở sự cô lập nơi chính nó, thì đều
phải được xem là không đúng thật: tồn tại là không đúng thật bởi nó mới chỉ
là cái trực tiếp, còn bản chất là không đúng thật vì nó mới chỉ là cái được
trung giới. Vậy tại sao lại bắt đầu với cái không đúng thật chứ không bắt đầu
ngay lập tức với cái đúng thật. Bởi lẽ: chân lý phải tự thử thách hay tự khẳng
định giá trị hiệu lực, khái niệm tự chứng tỏ như là cái gì được trung giới thông
qua chính mình và với chính mình, và do đó đồng thời là cái trực tiếp đúng
thật. Cuối cùng Hegel kết luận, chân lý nằm trong sự thống nhất của nhiều
khái niệm, định nghĩa : “Không có một định nghĩa nào trong các định nghĩa
ấy tách riêng ra mà lại chứa đựng chân lý, chỉ có sự thống nhất của chúng
mới là chân lý. Đó là phương pháp thực sự biện chứng dùng để xem xét
chúng, và do đó cũng là kết quả chân chính của chúng” [2,126]
Hegel khẳng định rằng: chân lý là vô hạn, tính hữu hạn của nó là sự
phủ định nó, là chỗ tận cùng của nó. Những hình thức, nếu chúng ta coi chúng
là những hình thức tách biệt nội dung và chỉ ở bên ngoài nội dung thôi thì
không thể bao quát được chân lý. Chân lý là sự tự ý thức thuần tuý đang phát

triển, tư duy khách quan.
Như vậy Hegel đã gán cho ý thức cấu trúc của mô hình tư biện cơ bản
của ông. Ý thức là sự thống nhất giữa tồn tại tự mình và tồn tại cho mình, sự
phân biệt và sự quan hệ, giữa sự khác biệt và nhất thể, giữa sự không đồng
nhất và đồng nhất. Ý thức là sự thống nhất giữa ý thức và đối tượng. Theo đó,


×