Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tâm thứclàng nước qua nhân vật ông Hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.74 KB, 5 trang )

Tâm thức “làng nước” qua nhân vật ông Hai
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, là tấm gương phản chiếu đời sống, văn hóa.
Cho nên, tiếp cận tác phẩm từ văn hoá cũng là một hướng tiếp cận khả dĩ. Ví
như đọc truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, nếu không hiểu “làng” trong tâm
thức văn minh lúa nước có chiều dài tới cả nghìn năm thì cũng khó mà cảm nhận
hết vẻ đẹp của những người nông dân “nguyên thuỷ”. Nguyên thuỷ trong nếp
sống, nếp nghĩ, trong tình cảm, trong ứng xử, trong niềm vui và nỗi buồn…Làng
ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung được hình thành một cách tự nhiên theo quan
niệm dân gian “đất lành chim đậu” để an cư lạc nghiệp”. Làng có luỹ tre bao
bọc, đó là “cương giới” giữa làng này với làng khác. Làng có đình, chùa, bến sông
( hoặc ao làng), cây đa… Mỗi sự vật là một biểu tượng có ý nghĩa nhất định, nó
khiến cho cư dân làng có quyền tự hào về nó.
Hiểu theo nghĩa đúng đắn thì “làng” là một tế bào mà mỗi thành viên trong đó
đều có quan hệ gắn bó bền vững, đó là quan hệ hàng dọc trong mỗi gia tộc ( đời
ông - đời cha - đời con - đời cháu…) và quan hệ hàng ngang giữa các gia tộc
với nhau ( họ Đỗ - họ Nguyễn - họ Trần,…ta quen gọi là quan hệ cộng đồng ).
Có thể nói, “làng” là đơn vị tổ chức hành chính đầu tiên của người Việt, sau đó
“làng” được mở rộng thành “nước” ( gồm nhiều làng liên kết với nhau để chống
ngoại xâm hoặc thiên tai…). Mối quan hệ mật thiết giữa “làng” với “nước” có thể
gói gọn trong một câu: “Sống ở làng, sang ở nước!”.
Diễn giải dài dòng như trên để nói rằng: từ hàng nghìn năm qua, người nông
dân Việt Nam luôn có niềm tự hào hồn nhiên và chân thành về ngôi làng của


mình ( có đình to, chùa đẹp, cây đa xum xuê, bến sông nhộn nhịp, có nhiều người
đỗ đạt cao, có nhiều anh hùng, tướng tá, danh nhân). Khi có giặc ngoại xâm thì
làng nào đánh giặc giỏi, làng ấy sẽ được tôn vinh, ngưỡng mộ; ngược lại làng nào
theo giặc sẽ bị xa lánh, tẩy chay.
Những hiểu biết trên sẽ góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu vẻ đẹp của nhân
vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Ở truyện ngắn “Làng”, tình huống làm bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước


ở nhân vật ông Hai là: trong khi ở nơi tản cư, lúc nào ông cũng da diết nhớ về
làng với một niềm tự hào không giấu giếm thì bỗng nghe tin làng mình đã lập
tề theo giặc. Chính tình huống này đã cho thấy lòng yêu nước và tinh thần kháng
chiến luôn bao trùm và chi phối tình cảm quê hương ở ông Hai, đồng thời làm
bộc lộ sâu sắc và cảm động tình yêu làng, yêu nước của ông.
Trong lúc tâm trạng đang phấn chấn vì những tin tức kháng chiến vừa nghe
được trong phòng thông tin thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông Hai
quá đột ngột. Từ đây bắt đầu những diễn biến tâm trạng căng thẳng với nhiều
nỗi day dứt ở nhân vật được ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tường của tác giả thể
hiện rất sinh động.
Ban đầu là những cảm xúc đột ngột hiện ra bằng các trạng thái cơ thể: cổ nghẹn
ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi tưởng chừng không thở được. Rồi tiếp đó là
nỗi xấu hổ, đau xót khiến ông cúi gằm mặt mà đi. Nỗi đau đớn, tủi hổ về việc
làng mình theo giặc khiến ông Hai cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào


cũng nơm nớp lo sợ, không dám ló mặt ra đến ngoài. Sau cùng thì tâm trạng
của ông Hai được biểu hiện dưới hình thức trò chuyện với đứa con út, mà thực
chất là lời tự minh oan và khẳng định tấm lòng thuỷ chung của mình đối với
kháng chiến để làm vợi bớt phần nào nỗi khổ tâm nặng nề từng dằn vặt ông.
Ở đoạn kết, khi cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính thì một lần nữa
tình yêu làng, yêu nước ở ông Hai lại được thể hiện một cách thành thực và cảm
động . Ông đã thay đổi hẳn: “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ
hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…”. Ông vui
mừng phô với bác Thứ về cái tin làng Chợ Dầu theo giặc là sai sự thật. Và ông
còn hào hứng khoe cả việc nhà mình bị Tây đốt nhẵn. Rồi ông vội vã, lật đật đến
các nhà trong xóm để kể, để khoe về những điều đó.
Tác giả đã rất am hiểu tâm lí của người nông dân, đặc biệt là tình cảm với làng
quê, và tâm lí cộng đồng của họ. Tâm lí nhân vật ông Hai được thể hiện từ ngoại
hình, cử chỉ đến ngôn ngữ, hành động. Không chỉ diễn tả chính xác, tinh tế các

trạng thái tâm lí mà tác giả còn miêu tả thành công quá trình vận động, chuyển
biến trong tâm trạng của nhân vật.
Nét riêng của truyện ngắn này trong việc khai thác đề tài về tình yêu quê hương
là đã nêu được mối quan hệ giữa tình cảm làng quê và tình yêu nước trong hoàn
cảnh chiến tranh. Bằng cách tạo ra một tình huống có sự xung đột giữa hai tình
cảm ấy, truyện đã cho thấy lòng yêu nước là tình cảm lớn bao trùm trong con
người kháng chiến, nó chi phối các tình cảm khác. Tình yêu làng quê, dù có sâu


nặng đến đâu cũng phải nằm trong tình yêu nước, không thể đi ngược lại với
lòng yêu nước, với quyền lợi của cả dân tộc.
Ngoài nhân vật ông Hai cũng phải kể đến những nhân vật phụ chỉ thoáng qua
trong tác phẩm nhưng vẫn kịp lưu lại cái tâm thức “làng nước” thật sâu sắc và
cảm động, ví như nhân vật bà chủ nhà nơi gia đình ông Hai tản cư hoặc một nhân
vật vô danh là “người đàn bà cho con bú”. Bà chủ nhà có hai câu nói ngắn gọn,
một là khi có tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc và một là sau khi tin đồn ấy được
cải chính. Trước, bà nói: “Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới
nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ?...Nghe nói, bảo có lệnh
đuổi hết những người làng Chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa”.
Sau, bà nói: “A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét
ghê ấy…Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ
ở hết bao nhiêu”.
Còn “người đàn bà cho con bú” thì thật ngoa ngoắt, quyết liệt: “Cha mẹ tiên sư
nhà chúng nó! Đời khổ ăn cắp ăn trộm được người ta còn thương. Cái giống Việt
gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một phát!”.
“Làng nước” không chỉ là không gian sinh tồn của mọi con dân nước Việt, mà
còn là nơi thờ cúng tổ tiên và các bậc tiên liệt - tức là cõi tâm linh thiêng liêng
bất khả xâm phạm; do đó nỗi đau đớn nhất là nỗi đau bị giặc ngoại xâm giày xéo
mồ mả tổ tiên và nỗi nhục lớn nhất là nỗi nhục cam tâm làng tay sai cho giặc.
Và tình cảm yêu làng yêu nước là một tình cảm tự nhiên, nhưng trong truyện



ngắn “Làng” thì tình cảm đó dường như đã trở thành một chuẩn mực đạo đức
để đối nhân xử thế , có thể coi đây là sự trưởng thành về ý thức của những người
nông dân như ông Hai, bà chủ nhà, “người đàn bà cho con bú”… Họ có thể ít chữ
nghĩa nhưng lại có một sự mách bảo cực kì nhạy bén của tình cảm và lương tâm.
Từ khía cạnh này mà xét thì truyện ngắn “Làng” của Kim Lân không chỉ là một
tác phẩm văn học đơn thuần, mà còn có dáng dấp của một tuyên ngôn chính
luận, rằng: Có thể chấp nhận mất tất cả, hi sinh tất cả ( nhà ông Hai bị “đốt
nhẵn”), nhưng không thể để mất nước, mất tự do!
Theo Hoàng Dân.



×