LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Nguyễn Văn Dân,
người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng sau Đại học và các
thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã khích lệ, động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, công tác và hoàn thành nhiệm vụ.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
không thể không nghiên cứu đến văn học của các địa phương khu vực miền
núi. Bởi văn học các địa phương là một bộ phận quan trọng, góp phần tạo nên
diện mạo, tính chất, đặc điểm và giá trị của nền văn học các dân tộc thiểu số.
Văn học Lạng Sơn nói chung, văn xuôi Lạng Sơn nói riêng là một bộ
phận không thể tách rời của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Có
thể nói, văn xuôi các dân tộc thiểu số đã góp phần tạo nên một tiếng nói độc
đáo, giàu bản sắc, trong đó có sự đóng góp của văn xuôi Lạng Sơn, đối với
nền văn học nước nhà.
1.2. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất và bước sang một trang sử mới, nền văn học Việt Nam luôn đồng hành
và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng trầm và thực
sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của một giai
đoạn văn học mới. Văn xuôi Lạng Sơn nói riêng cũng có sự vận động và phát
triển, kịp thời phản ánh đời sống xã hội trong thời đại mới. Văn xuôi Lạng
Sơn từ sau năm 1975 đã tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử xã
hội khác biệt với thời kì chiến tranh, trong một môi trường ý thức tinh thần có
nhiều biến đổi. Những điều đó đã tác động, chi phối mạnh mẽ xu hướng vận
động và đặc điểm của văn xuôi Lạng Sơn gần năm mươi năm qua.
Đội ngũ sáng tác văn xuôi Lạng Sơn từ năm 1975 trở lại đây có sự phát
triển về số lượng. Họ là các cây bút người người dân tộc thiểu số Tày, Nùng,
Dao… và cả dân tộc Kinh sinh ra, lớn lên, trưởng thành hoặc sinh sống, làm
việc lâu năm ở Lạng Sơn. Nhiều tác giả được bạn đọc cả nước biết đến và
yêu mến như Vi Thị Kim Bình, Nguyễn Trường Thanh, Mã Thế Vinh, Vi Thị
Thu Đạm.... Các tác phẩm của họ có những giá trị và bản sắc riêng, mang
đậm nét văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn. Điều đó đã tạo nên một nét
1
riêng của văn xuôi Lạng Sơn, đóng góp quan trọng trong việc tạo nên diện
mạo văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Thế nhưng cho đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
một số tác giả như Nguyễn Trường Thanh, Vi Thị Kim Bình ... và chủ yếu tập
trung vào một thể loại văn học mà chưa có công trình nào nghiên cứu mang
tính hệ thống toàn diện về văn xuôi Lạng Sơn từ năm 1975 đến nay.
1.3. Hiện nay - cũng như nhiều địa phương khác - tỉnh Lạng Sơn đã có
chủ trương đưa văn học địa phương vào trong chương trình giảng dạy nhà
trường phổ thông nhằm giúp các dân tộc trong tỉnh hiểu rõ hơn về truyền
thống văn hóa lịch sử, về con người, quê hương nơi mình đang sinh sống và
làm việc.
Hơn thế nữa, bản thân tôi là một người con của Lạng Sơn nên tôi luôn
mong muốn có điều kiện tìm hiểu một cách sâu sắc và cụ thể về văn học tỉnh
nhà. Từ đó, khẳng định những giá trị tiêu biểu của nền văn học Lạng Sơn –
như một lời tri ân của tôi đối với quê hương xứ Lạng.
Chính vì những lẽ đó đã trở thành động lực thúc đẩy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu về văn xuôi Lạng Sơn một cách tổng thể, đặc biệt là giai
đoạn sau 1975. Do đó tôi lựa chọn đề tài "Đặc điểm văn xuôi Lạng Sơn sau
1975" để nghiên cứu với mong muốn đánh giá một cách hệ thống văn xuôi
Lạng Sơn nhằm khẳng định những thành tựu và đóng góp của văn xuôi Lạng
Sơn đối với văn học dân tộc nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 đã có những đóng góp không nhỏ vào nền
văn học Việt Nam hiện đại nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói
riêng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy, đã có một số bài, một số công trình
nghiên cứu đã đề cập đến văn xuôi Lạng Sơn:
Trong tập phê bình - tiểu luận "Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số",
tác giả Lâm Tiến có bài "Văn xuôi Lạng Sơn qua một số truyện, ký". Ông
đánh giá khá cao về đội ngũ sáng tác văn xuôi ở Lạng Sơn: " đội ngũ văn
2
xuôi ở Lạng Sơn khá đông đảo. Có những tác giả đã định hình như Vi Thị Kim
Bình, Ngọc Mai, Nguyễn Mạnh Hải... Họ đều gắn bó với con người, cuộc sống
của nhân dân các dân tộc xứ Lạng" [72-150,151]. Bên cạnh đó Lâm Tiến cũng
đưa ra nhận định về ưu điểm trong nội dung của văn xuôi Lạng Sơn: “Văn
xuôi Lạng Sơn đã thực sự đi vào phản ánh con người, cuộc sống, thiên nhiên
xứ Lạng. Ca ngợi những điều tốt đẹp cũng như lên án, phê phán những mặt
tiêu cực còn diễn ra trong cuộc sống, các tác phẩm đã phần nào nêu lên được
những nét riêng độc đáo của con người, cuộc sống các dân tộc Lạng Sơn. Giúp
người đọc thêm yêu mến xứ Lạng” [72-159,160]. Đồng thời ông cũng chỉ ra
hạn chế: “Nhìn chung, văn xuôi Lạng Sơn chưa có được những bứt phá, đi sâu
hơn, rộng hơn vào cuộc sống, tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của đồng bào các
dân tộc vùng sâu, vùng xa, để từ đó có những tác phẩm mang đậm nét và dài
hơi hơn về cuộc sống và con người xứ Lạng” [72-160].
Nguyễn Duy Bắc trong cuốn “Cuối thế kỷ XX nhìn lại – Tập 3 Nghiên
cứu – Lý luận – Phê bình” đã khẳng định “ Lạng Sơn đã có hẳn một đội ngũ
đông đảo các cây bút văn xuôi. Và các tác giả đã có nhiều sáng tạo ... Nhờ
đội ngũ hùng hậu ấy, trong những năm qua trang văn xuôi Lạng Sơn đã
không ngừng tăng lên. Có thể nói là phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so
với các giai đoạn trước đó. Nhiều tiểu thuyết, tập truyện ngắn ghi chép, ký
sự, truyện kí, phóng sự, tùy bút... đã được xuất bản” [36-50]. Ông cũng nhấn
mạnh: “ Trong quá trình đổi mới của đất nước, văn học nghệ thuật Lạng Sơn
đã có những khởi sắc đáng mừng” [36-209]. Đánh giá về tác phẩm của nhà
văn Vy Thị Kim Bình, Nguyễn Duy Bắc nhận định: “Truyện của chị đằm
thắm và nhân hậu” [36-54], còn về Nguyễn Mạnh Hải ông cho rằng: “truyện
ngắn của anh lại nổi trội ở khả năng miêu tả tâm lý nhân vật... Anh hoàn toàn
có thể tiến xa hơn trong sự thể hiện các vấn đề của đời sống xã hội hôm nay
với mọi loại hình bút pháp” [36-54]. Đối với tác giả Ngọc Mai, Nguyễn Duy
Bắc đánh giá: “Truyện của Ngọc Mai gần gũi với đời sống thường nhật, đặc
biệt là cuộc sống gia đình, một bộ phận hợp thành cơ bản nhất của xã hộ mà
có lúc đã không được chú ý thỏa đáng” [36-53].
3
Nguyễn Quang Huynh khẳng định: “Văn xuôi Lạng Sơn đã từng bước
trưởng thành và đạt được những thành tựu rất đáng tự hào” [42-138]. “Văn
xuôi Lạng Sơn, trải qua những bước phấn đấu, những nỗ lực vươn lên... đã
có những đóng góp đáng kể vào nền văn học đương đại nước ta và có chỗ
đứng nhất định trong nền văn học Việt Nam” [42-152].
Đánh giá về đội ngũ sáng tác văn xuôi Lạng Sơn những năm đầu thế kỷ
XX, Trung Thành cho rằng: “Đội ngũ tác giả văn xuôi Lạng Sơn đã góp phần
làm nên diện mạo văn học Lạng Sơn nói chung, diện mạo văn xuôi Lạng Sơn nói
riêng những năm đầu thế kỷ XXI đang đẩy mạnh đổi mới và hội nhập” [36-9].
Bàn về Khau Slin hùng vĩ của Vũ Ngọc Chương, Lâm Tiến cho rằng:
“Chưa có cuốn tiểu thuyết nào khắc họa rõ nét cuộc đấu tranh chống áp bức,
bóc lột của Nhật – Pháp về các dân tộc Tày, Nùng như tác phẩm Khau Slin
hùng vĩ của Vũ Ngọc Chương” [36-185].
Đánh giá về tiêu thuyết của Nguyễn Trường Thanh, tác giả Nguyễn
Mạnh Dũng, Trần Thị Việt Trung khẳng định: “Tác giả không chỉ phản ánh
những sự kiện lịch sử, những hình tượng người anh hùng của quê hương xứ
Lạng mà ông còn thể hiện tình cảm yêu mến, tự hào về một vùng đất giàu bản
sắc văn hóa, với bao nét phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc thiểu số vùng biên ải xa xôi (...) nhà văn Nguyễn Trường Thanh đã kế
thừa những yếu tố nghệ thuật truyền thống và vận dụng nhiều yếu tố nghệ
thuật hiện đại” ( Trang 182). “ Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Trường
Thanh là một thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Lạng Sơn” [20-184].
Trong lời giới thiệu tiểu thuyết Phương Bắc hoang dã – Lê Tiến Thức,
nhà văn Nguyễn Trường Thanh đưa ra nhận xét về đặc trưng ngôn ngữ nghệ
thuật của tác phẩm: “ Nét đặc trưng về ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả Lê
Tiến Thức qua tiểu thuyết này là thứ ngôn ngữ dung dị, sâu lắng, trong sáng,
giàu hình ảnh, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, ccáh cảm, cách nghĩ đậm
chất dân tộc miền núi xứ Lạng. Những yếu tố văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng...
kết hợp hài hòa và tinh tế đã làm nên sự thành công trong sáng tạo ngon ngữ
4
nghệ thuật của tác phẩm”. [88-10].
Trong Lời giới thiệu tập truyện ngắn Dưới chân Khau Slung của
Nguyễn Thị Ngọc Bốn, tác giả Nguyễn Trường Thanh nhận định: “Ấn tượng
đằm sâu là giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm được tạo nên bởi nghệ
thuật xây dựng hình tượng ngày càng chắc tay, đem đến cho người đọc những
thông điệp phong phú về triết lý nhân sinh trong muôn mặt đời sống. Mỗi
truyện là một “lát cắt ngang” của cuộc sống đương đại, giữa cái ác và các
thiện đan xen nhau qua từng số phận của mỗi nhân vật...” [10-5,6].
Đánh giá về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Ánh, nhà văn Ngọc Mai
cho rằng: “Truyện của Dương Ngọc Ánh trong sáng và có chút trắc ẩn đau
đáu sự đời” [4-8].
Trong lời tựa tập truyện – ký Phong lan tím của Nguyễn Thị Bích
Thuận, Hoàng Văn Páo nhận định: “Tất cả truyện, ký của Nguyễn Thị Bích
Thuận đều có chuyện để viết Truyện. Truyện của Nguyễn Thị Bích Thuận
thấm đẫm hiện thực cuộc sống. Bích Thuận đã dành nhiều tâm huyết khai
thác, khám phá, sáng tạo, lựa chọn đề tài, nhân vật, chủ yếu là cuộc sống của
đồng bào các dân tộc Lạng Sơn để phản ánh trong các câu chuyện. Do vậy,
truyện, ký của chị luôn giàu tình yêu quê hương, đất nước, giàu tính nhân
văn, tôn vinh vai trò cộng đồng, bạn bè, đồng chí. Cốt truyện phù hợp với
dung lượng truyện ngắn, nhiều tình tiết hay, cảm động”. [87-7].
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn cũng quan tâm đến việc tổ chức
những hội thảo về văn học nghệ thuật Lạng Sơn các thời kỳ như: Hội thảo
“Thành tựu văn học nghệ thuật Lạng Sơn 5 năm ( 2008 - 2013)”, hội thảo
“Văn xuôi Lạng Sơn những năm đầu thế kỷ XXI”; Hội thảo về cuộc đời và sự
nghiệp, về tác phẩm của các tác giả Lạng Sơn như hội thảo “ Sự nghiệp sáng
tác văn học của các nhà văn: Mã Thế Vinh, Nguyễn Trường Thanh, Vy Thị
Kim Bình”, hội thảo về tập truyện ngắn “Mùa sau sau đỏ lá” của tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Nga...
5
Qua những ý kiến nhận xét, đánh giá các nhà văn, nhà nghiên cứu viết
về văn học Lạng Sơn nói chung, cũng như về các cây bút văn xuôi Lạng Sơn
nói riêng, chúng ta nhận thấy rõ một điều: Lạng Sơn là một vùng đất đã sinh
ra và là nơi khẳng định tài năng của nhiều cây bút. Chính họ đã làm nên một
diện mạo văn xuôi Lạng Sơn với những nét đặc trưng riêng.
Tuy nhiên đó mới chỉ là những nghiên cứu, những lời nhận xét, đánh
giá lẻ tẻ về một số cá nhân, hoặc một số tiểu luận đánh giá khái quát về văn
xuôi Lạng Sơn. Nhìn chung các nghiên cứu đó đều có được những tìm tòi,
khám phá đáng quý, đáng trân trọng. Dĩ nhiên công trình của chúng tôi sẽ
được thừa hưởng nhiều ý kiến quý báu mà các nghiên cứu trước đã gợi ra
hoặc khẳng định. Cho đến nay chúng tôi vẫn chưa thấy xuất hiện một công
trình nghiên cứu nào một cách tổng thể về văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng rất cần thiết nghiên cứu một cách toàn diện
và hệ thống văn xuôi Lạng Sơn từ 1975 đến nay, để thấy được những đặc
điểm, những giá trị nổi bật cũng như cần khẳng định những đóng góp quan
trọng của nó đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số nói riêng, đối
với văn học Việt Nam nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 chúng tôi nhằm mục đích
làm rõ hơn những nét riêng của văn xuôi Lạng Sơn trong sự phát triển của văn
xuôi các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung. Từ đó có cái nhìn đầy đủ
và toàn diện hơn về những đóng góp của văn xuôi Lạng Sơn trong nền văn
học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Để triển khai luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ những sáng
tác văn xuôi Lạng Sơn sau 1975, chủ yếu là tiểu thuyết và truyện ngắn.
Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến những tác phẩm văn xuôi Lạng
Sơn cùng thời kỳ và trước năm 1975 để có cơ sở đối chiếu, so sánh nhằm góp
phần làm rõ hơn những nét riêng của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
6
Chọn vấn đề Đặc điểm văn xuôi Lạng Sơn sau 1975, chúng tôi đã tiếp
cận với một đối tượng khá rộng và chưa ổn định. Do vậy, luận văn chỉ khảo
sát những vấn đề đã được định hình của phương diện nội dung và nghệ thuật
trong văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
Chúng tôi chỉ tập trung vào tiểu thuyết và truyện ngắn vì đây là hai thể
loại tiêu biểu của văn xuôi nghệ thuật. Hơn thế nữa, hai thể loại này trong thời
kỳ sau 1975 đến nay số lượng cũng gia tăng và có nhiều tác phẩm đạt giá trị.
Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu sang các
thể loại khác, mặc dù một số tác phẩm nhất là thể kí cũng rất giá trị.
Luận văn sẽ làm rõ một số đặc điểm văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 trên
các bình diện cảm hứng sáng tạo và phương thức biểu hiện, cho thấy đóng
góp của văn xuôi Lạng Sơn cho sự phát triển của thể loại tiểu thuyết và truyện
ngắn văn học Việt Nam.
5. Đóng góp mới của luận văn
5.1. Về lý luận
Qua luận văn, chúng tôi góp thêm cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn vấn
đề đặc điểm chủ yếu của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975, thấy được những biểu
hiện cụ thể của đặc điểm văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 trong sự phát triển của
văn học Lạng Sơn chứ không dừng lại ở quan điểm lý thuyết chung chung.
Luận văn góp phần xác định vai trò, vị trí và những đóng góp cũng như
những hạn chế còn tồn tại của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
5.2. Về thực tiễn
Chúng tôi hy vọng luận văn phần nào sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích đối với các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến văn xuôi Lạng Sơn
sau 1975.
Mặt khác, kết quả luận văn đạt được có thể coi là cơ sở cho các nhà
biên soạn tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy Ngữ văn địa phương cấp trung
học cơ sở mà hiện nay tỉnh Lạng Sơn đang thực hiện.
7
Qua quá trình làm luận văn chúng tôi được tập dượt, làm quen với việc
nghiên cứu khoa học, đó là cơ sở để người viết tăng cường khả năng tự học,
tự nâng cao trình độ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
6.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 gồm nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại của
nhiều tác giả khác nhau, với những tiếp cận đa dạng và phong phú, nhưng
được chúng tôi xem xét như một hệ thống để có thể nghiên cứu kĩ lưỡng, sâu
sắc và toàn diện về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm cũng như phương thức
biểu hiện của các tác giả. Làm như vậy, luận văn mới có thể nghiên cứu văn
xuôi Lạng Sơn sau 1975 trong sự thống nhất và đa dạng, coi nó như một
chỉnh thể nghệ thuật về các phương diện nội dung và nghệ thuật của nó. Như
thế, người nghiên cứu sẽ không sa vào sự phiến diện, chủ quan.
6.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu các
tác phẩm văn xuôi Lạng Sơn trước và sau 1975 cũng như văn xuôi một số địa
phương trong khu vực Đông Bắc để thấy được những giá trị về mặt nội dung
và nghệ thuật của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
Sử dụng phương pháp này để làm rõ diện mạo và đặc điểm riêng của
văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
6.3. Phương pháp loại hình
Với phương pháp này, luận văm tìm hiểu đặc điểm của văn xuôi Lạng
Sơn sau 1975 dựa trên những đặc trưng của văn xuôi, trong đó quan tâm đến
tiểu thuyết và truyện ngắn.
6.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Các tác phẩm cụ thể được phân tích để tìm ra những đóng góp của văn
xuôi Lạng Sơn sau 1975. Trên cơ sở đó xác định diện mạo, đặc điểm chung
của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
8
Ngoài ra luận văn cũng vận dụng một số khái niệm công cụ của thi
pháp học để phân tích tác phẩm, nhất là xác định đặc điểm nghệ thuật của văn
xuôi Lạng Sơn sau 1975.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
Chương 2: Những cảm hứng sáng tạo mới trong văn xuôi Lạng Sơn
sau 1975.
Chương 3: Bản sắc riêng trong một số phương diện nghệ thuật của văn
xuôi Lạng Sơn sau 1975.
9
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI LẠNG SƠN SAU 1975
1.1. Vài nét khái quát về văn học Lạng Sơn
Lạng Sơn vốn có bề dày lịch sử dựng nước, giữ nước và có nền văn hóa
truyền thống lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên mảng văn học từ xa
xưa để lại không nhiều.
Theo khảo sát của chúng tôi, những tư liệu còn được lưu giữ về văn học
xứ Lạng còn rất ít. Đó chủ yếu là một số bài thơ, bài ký được viết bằng chữ
Hán hoặc chữ Nôm của các vị sứ thần triều đình đi sứ sang Trung Quốc qua
Lạng Sơn, cảm tác trước vẻ đẹp và lịch sử hào hùng của xứ Lạng mà viết nên.
Trong đó đáng lưu ý là có một số bài thơ, bài kí của các tác giả: Trần Nhân
Tông, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Trần Minh Tông, Phùng Khắc
Khoan... Đặc biệt là các bài thơ, bài ký của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì
viết về Lạng Sơn. Tác giả Ngô Thì Sỹ (1726-1780) làm quan Đốc chấn Lạng
Sơn (1777-1780) đã có nhiều bài thơ, bài ký khắc trên đá trong động Nhị
Thanh, Tam Thanh, Chùa Tiên và một vài nơi khác ở Tràng Định, Văn Lãng.
Các tác phẩm của dòng họ Ngô Thì viết về Lạng Sơn ngoài được sự lưu lại
trên các bia đá ở Lạng Sơn thì còn được lưu giữ trong Hợp tuyển Ngô Gia
Văn Phái. Sau này cũng có khá nhiều các tác giả khác là những sứ thần hoặc
quan tuần biên qua Lạng Sơn đã để lại một số tác phẩm văn thơ còn lưu giữ
đến ngày nay như của: Phan Huy Ích, Nguyễn Tự Giản, Nguyễn Du, Trịnh
Hoài Đức, Phan Huy Chú, Lý Văn Phúc, Nguyễn Văn Siêu... Những tác phẩm
của các tác giả thời kỳ này chủ yếu ghi lại cảm xúc trước cảnh đẹp và lịch sử
hào hùng của xứ Lạng.
Về văn xuôi, có cuốn Lạng Sơn Đoàn thành đồ của Nguyễn Nghiễm
(thế kỷ XVIII) biên soạn, thực chất là một bài nghiên cứu.
10
Thời Pháp thuộc có viên trung tá Le Comte trong cơ quan tham mưu
Pháp trực tiếp tham gia chiếm đánh Lạng Sơn, khi về Pháp đã viết cuốn sách
Lạng Sơn – tác chiến – tháo lui và điều đình in năm 1895, đã ghi lại cuộc
đánh chiếm Lạng Sơn của quân Pháp với hai lần đều thất bại, sau đó phải
thương lượng với nhà Thanh để ký Hiệp ước Thiên Tân, tới khi chính thức cai
quản Lạng Sơn. Ngoài ra còn bải bút ký Vùng Cai Kinh – con người và non
nước của Paul Munie – Hội viên Hội nhà văn Pháp ( người đã cùng nhà khoa
học nổi tiếng Kloni thâm nhập thực tế tìm hiểu đất nước, con người Lạng Sơn
đã viết rất công phu và được trình bày tại Hội thảo Hội Địa lý Hà Nội (thuộc
Pháp) ngày 12-4-1934). Những tác phẩm này nói chung tính văn học còn hạn
chế những đã ghi lại khá trung thực một số nét về đất nước, con người và các
sự kiện lịch sử của Lạng Sơn trong giai đoạn lịch sử ấy.
Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vào giữa những năm
30, khi hai đồng chí Hoàng Văn Thụ và Lương Văn Tri từ Trung Quốc trở về
xây dựng cách mạng ở quê hương, cùng với việc học tập, giác ngộ quần
chúng, báo chí đã được sử dụng như một phương tiện chiến đấu hữu hiệu.
Theo những nguồn tài liệu lịch sử thì vào thời điểm này, Tạp chí Du kích
quân đã ra đời tại khu rừng Khuổi Nọi – giữa chiến khu Bắc Sơn – do đồng
chí Lương Văn Tri phụ trách với sự cộng tác của đồng chí Hoàng Văn Thái.
Cũng chính những năm đó, từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, đồng chí
Hoàng Văn Thụ đã mượn hình thức thơ, sli, then... quen thuộc để sáng tác
những tác phẩm như: Trăng soi, Đoạn tuyệt, Tèo tàng cách mạng... có nội
dung cách mạng để vận động nhân dân tham gia cách mạng, giác ngộ quần
chúng. Những bài trong số đó, sau này được in trong tập Nhắn bạn. Có thể coi
tập thơ này là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho văn học Lạng Sơn nói
chung, cho nền thơ ca cách mạng của Lạng Sơn thời kì hiện đại nói riêng.
Năm 1946, cả nước bước vào cuộc kháng chiến anh dũng trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược, thì Lạng Sơn chính là vùng đất đảm nhiệm
những trọng trách lớn của lịch sử dân tộc. Chiến thắng Thu Đông 1947,
11
“Đường số 4 anh hùng” với những chiến công vang dội ở Bông Lau, Lũng
Phầy, Đèo Khách... rồi chiến dịch Biên giới 1950 – một chiến thắng có ý
nghĩa lịch sử đặc biệt – đã thực sự trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt cho
nhiều văn nghệ sĩ có tên tuổi như: Trần Đăng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,
Nguyễn Đình Thi... viết nên những tác phẩm xuất sắc, ghi dấu ấn vào lịch sử
văn học dân tộc. Cũng trong những năm kháng chiến chống Pháp, sự có mặt
của nhà văn, nhà giáo Nguyễn Khắc Mẫn ở xứ Lạng đã cho ra đời một số
truyện ngắn như: Cô Thúy, Nỗi lòng, Lão ăn mày, Đặc biệt là tác phẩm Ông
Cốc đã đoạt giải khuyến khích – Giải thưởng văn nghệ Việt Nam (19511952). Đây chính là những sự đóng góp đáng kể vào sự hình thành và phát
triển của văn học Lạng Sơn.
Từ sau 1954, các cây bút Lạng Sơn mới dần xuất hiện nhiều hơn, tuy
nhiên còn rất khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng các sáng tác. Nhưng
phải đến năm 1968, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn được thành lập và
Tạp chí Xứ Lạng – cơ quan ngôn luận của Hội ra đời thì đội ngũ sáng tác của
Lạng Sơn mới được tập hợp, được bồi dưỡng nghiệp vụ và phát triển mạnh
mẽ. Tới nay, Lạng Sơn có hơn hai trăm hội viên của Hội Văn học Nghệ thuật
tỉnh, trong đó có ba cây bút là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam ( nhà văn
Nguyễn Trường Thanh đã mất năm 2015). Với đội ngũ tác giả khá đông đảo
và từng bước đã có những tác phẩm đạt chất lượng cao, văn học Lạng Sơn
đang có những bước tiến xa hơn trong sự giao lưu, hòa nhập với dòng văn học
của cả nước thời kỳ hiện đại.
Theo khảo sát của chúng tôi, các thể loại văn học của Lạng Sơn phát
triển khá đồng đều và đã có những thành tựu đáng ghi nhận. Thơ Lạng Sơn
không chỉ bó hẹp trong những vấn đề của cuộc sống và con người xứ Lạng
mà vươn tới những vấn đề chung rộng lớn của đất nước, thời đại. Trong
Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 – 1960, Mã Thế Vinh là người duy nhất của dân
tộc Nùng ở Lạng Sơn được tuyển chọn với tác phẩm Hiến pháp ban hành như
mùa xuân. Sau Mã Thế Vinh là các tác giả Hoàng Trung Thu với các tập
12
Vọng trời xa (1996), Chúp tha vằn (1998), Nguyễn Họa với tập Mây và trăng
(1993), Lãi văn chương (1996), Nguyễn Thông với tập Hành trang người lính
(1996), Thời trận mạc (1999), Hàn Kỳ với tập Lặng lẽ (1994), Mạch ngầm
(1997), Vũ Kiều Oanh với tập Câu hát quê nhà (1995), Ban mai (2001), Trần
Thành với tập Khát, Đinh Thanh Huyền với tập Mưa mùa hạ ... và nhiều tác
giả trẻ khác. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Bắc cho rằng: “Nét đặc trưng nổi
bật của thơ xú Lạng là trong đi sâu thể hiện thế giới nội tâm của các nhà thơ
về tình yêu, tình người, tình đời” (Trang 211). Hoàng Văn An thì nhận định:
“Các nhà thơ xứ Lạng dù ở lứa tuổi nào đều hòa vào được tình cảm, đạo lý,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình trong nét sinh động của môi trường
sống, của tinh hoa văn hóa, của tâm lý dân tộc mình, cộng đồng và ngày
càng thêm được tính nghệ thuật” [1-67].
Văn xuôi Lạng Sơn cũng đang hướng tới những vấn đề chung của đất
nước, của dân tộc. Nhiều tác phẩm khám phá chủ đề lịch sử yêu nước và cách
mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh thời kỳ cận hiện đại ( tiểu thuyết
của Nguyễn Trường Thanh, Vũ Ngọc Chương, Lê Tiến Thức...). Thế mạnh
của các cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây là khả năng bao quát, phản ánh
những vấn đề phong phú, đa dạng nhưng vô cùng phức tạp của cuộc sống
hiện đại hôm nay. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao thượng
và cái tầm thường, giữa cái tích cực với cái tiêu cực... không chỉ diễn ra trong
quan hệ xã hội, trong mỗi cộng đồng nhỏ hẹp, trong từng gia đình, mà trong
cả bản thân mỗi con người đã được phản ánh trong các tác phẩm văn xuôi của
các tác giả Lạng Sơn như: Vi Thị Kim Bình, Ngọc Mai, Nguyễn Quang
Huynh, Nguyễn Mạnh Hải, Vũ Thị Kim Chi Vi Thị Thu Đạm, Nguyễn Thị
Quỳnh Nga...
Bên cạnh đội ngũ sáng tác thơ, văn, đội ngũ những người nghiên cứu lý
luận phê bình văn học Lạng Sơn cũng từng bước hình thành và phát triển. Đó
là các tác giả Nguyễn Duy Chước (Trung Thành), Phan Lạc Tước, Cao Tuấn,
Hoàng Hựu... và gần đây là các tác giả Nguyễn Duy Bắc với tập Nét đẹp văn
13
hóa trong thơ ca Việt nam hiện đại, Hoàng Văn An các tập Nét đẹp văn hóa
thơ văn và ngôn ngữ dân tộc (nhiều tập); Hoàng Páo với nhiều đầu sách về lễ
hội Lồng tồng và then Tày cứ Lạng; Lộc Bích Kiệm với tập Đặc điểm thơ ca
đám cưới Tày – Nùng; Nguyễn Đức Tâm với Cây của đời; Nguyễn Quang
Huynh với tập Dòng chảy thời gian, Dương Lộc Vượng với tập Văn hóa –
văn nghệ xứ Lạng, một góc nhìn; ... So với thơ và văn xuôi thì lý luận phê
bình văn học của Lạng Sơn còn kém khởi sắc. Mặc dù còn trẻ những mảng
nghiên cứu lý luận phê bình văn học của Lạng Sơn đã có những đóng góp
đáng kể, góp phần định hướng cho nền văn học nghệ thuật Lạng Sơn phát
triển đúng hướng.
Về văn học dịch, đội ngũ tác giả của Lạng Sơn còn mỏng hơn nhiều so
với đội ngũ phê bình, lý luận văn học. Ngoài cố dịch giả Từ Duy Nhiễm và
các nhà dịch thuật lão thành như Trần Thanh, Trần Quang Ngọc... hầu như
chưa có lớp trẻ kế cận. Nói chung, đội ngữ cần được bổ sung nhanh chóng để
đồng bào các dân tộc Lạng Sơn được tiếp xúc với tinh hoa văn học thế giới
qua chính bản dịch của những con người xứ Lạng.
Có thể nói, văn học Lạng Sơn đã có những thành tựu nổi bật cả về đội
ngũ và tác phẩm. Trong những năm qua, văn học Lạng Sơn đã phát triển đúng
hướng, thực sự trở thành bộ phận nòng cốt của văn học nghệ thuật Lạng Sơn
trong hành trình đổi mới.
1.2. Quan niệm về văn xuôi Lạng Sơn sau 1975
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc, là điểm nút của
sự giao lưu kinh tế với nhiều tỉnh trong vùng cũng như một số tỉnh miền xuôi.
Đặc biệt, Lạng Sơn tiếp giáp với Trung Quốc, với hai cửa khẩu quốc tế, hai
cửa khẩu quốc gia và bảy cặp chợ biên giới. Đây là nơi đã trải qua bao biến
đổi thăng trầm của lịch sử, cũng là vùng đất có nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc.
Sau năm 1975, đặc biệt là từ 1986 trở lại đây, với sự phát triển của nền
kinh tế, cuộc sống mới, con người mới các dân tộc anh em ở vùng cao, vùng
14
sâu vùng xa và cả ở thành thị... đã tạo nên nguồn cảm xúc lớn lao đối với
những người cầm bút khi đến với Lạng Sơn, đặc biệt là những cây bút sinh ra,
trưởng thành ở Lạng Sơn.
Trong những năm gần đây, kể từ thời kỳ đổi mới, diện mạo văn xuôi
Lạng Sơn phong phú hơn với những nỗ lực mở rộng phạm vi và vấn đề cuộc
sống, con người được miêu tả trong tác phẩm. Các tác phẩm của Vy Thị Kim
Bình, Nguyễn Trường Thanh, Ngọc Mai, Nguyễn Duy Chiến, Lê Tiến Thức,
Nguyễn Mạnh Hải, Vũ Ngọc Chương, Nguyễn Thị Bích ThuậnVũ Kim Chi...
bám sát khai thác nhiều phương diện hiện thực cuộc sống miền núi trong cơ
chế thị trường. Trong truyện ngắn, tiểu thuyết của họ, các dân tộc anh em gắn
bó với núi rừng, quê hương, trăn trở nghĩ suy, học hỏi làm già cho bản thân,
cho gia đình, cho làng bản, bừng lên cảm xúc hào hứng trước những vận hội
mới của quê hương. Đồng thời, trái tim sâu sắc, nhạy cảm của các tác giả như
nặng trĩu nỗi buồn trước sự phai nhạt các giá trị và bản sắc văn hóa độc đáo
truyền thống, trước những thói hư tật xấu, thậm chí là sa đọa, tàn ác của một
số cá nhân. Một số cây bút đã chú ý đến khía cạnh đời tư, viết về thân phận
những người phụ nữ miền núi gặp nhiều trắc trở bất hạnh trong cuộc sống.
Bởi vậy, khái niệm văn xuôi Lạng Sơn theo chúng tôi có hai cách hiểu sau:
Cách hiểu thứ nhất, đó là văn xuôi của các nhà văn ở mọi vùng miền cả
nước viết về Lạng Sơn.
Cách hiểu thứ hai, đó là văn xuôi của các tác giả sinh ra, trưởng thành
và công tác ở Lạng Sơn, hoặc những nhà văn từ những miền đất khác đến làm
ăn sinh sống ở Lạng Sơn sáng tác. Những tác giả này đại đa số đã trở thành
hội viên của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn.
Thực tế, qua các tuyển tập văn xuôi, các bài viết nghiên cứu, phê bình
của Lạng Sơn cũng như của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam từ trước đến nay, chúng tôi nhận thấy khái niệm văn xuôi Lạng Sơn
được hiểu theo cách hiểu thứ hai. Có thể ở một góc độ nào đó phải suy ngẫm,
cân nhắc thêm, nhưng với chúng tôi đó là cơ sở để đi vào nghiên cứu và xác
định những đặc điểm của văn xuôi Lạng Sơn sau 1975.
15
1.3. Đội ngũ sáng tác văn xuôi Lạng Sơn
Theo chúng tôi hiểu, đội ngũ tác giả văn xuôi Lạng Sơn là những người
đã và đang sống ở Lạng Sơn. Những tác giả ở nơi khác đến nhưng có quá
trình gắn bó với Lạng Sơn và có tác phẩm văn xuôi viết về Lạng Sơn được coi
là tác giả văn xuôi Lạng Sơn.
Từ 1975 đến nay, trải qua quá trình vận động và phát triển, văn xuôi
Lạng Sơn đã đạt được một số thành tựu, góp phần xây dựng nền văn học dân
tộc thiểu số Việt Nam. Do đó, tìm hiểu đội ngũ tác giả văn xuôi Lạng Sơn là
cần thiết, để từ đó có thể xác định được những đóng góp của họ cho sự phát
triển của văn xuôi của tỉnh Lạng Sơn.
Dòng chảy liên tục của văn xuôi Lạng Sơn hôm nay chính là nhờ vào
sự tiếp nối của các thế hệ người cầm bút gắn bó với đất và người xứ Lạng. Sự
phân chia các thế hệ tác giả văn xuôi Lạng Sơn từ sau 1975 chỉ là tương đối.
Đối với đội ngũ tác giả văn xuôi Lạng Sơn từ 1975 đến nay, theo tôi, có thể
hình dung đó là sự tiếp nối của hai thế hệ.
Thế hệ thứ nhất bao gồm những cây bút thành danh sau 1975 và tới giai
đoạn này vẫn góp sức không nhỏ đối với sự phát triển của văn xuôi Lạng Sơn
như: Vy Thị Kim Bình với Niềm vui (Tập truyện ngắn) và Những bông huệ;
Nguyễn Trường Thanh các tiểu thuyết với Kỳ tích Chi Lăng, Hoa trong bão,
Một thời biên ải, Ngôi nhà của cha, Hương ngàn, Hoa bất tử, Phò mã Động
Giáp, Dặm dài ải Bắc...; Hoàng Trung Thu với các tập Tình yêu nơi biên giới,
Biên giới mùa hoa; Ngọc Mai với các tập Đứa con ngoài hôn thú, Sám hối;
Nguyễn Quang Huynh với tập Mũi tên thần; Thùy Dương với tập Huyền
thoại đường bê tông; Trịnh Hà với tập Đất và người biên cương; Trương Thọ
với Những người sống quanh tôi ( Tập truyện, kí), Nguyễn Mạnh Hải với các
tập truyện ngắn Slao Ly , Day dứt... Nhà văn Vy Thị Kim Bình đã được nhận
giải thưởng của Tuần báo Văn nghệ - Hội nhà văn Việt Nam năm 1968 và
giải thưởng Văn học do Hội Nhà văn tặng các tác giả người dân tộc viết về
dân tộc thiểu số năm 1971.
16
Thế hệ thứ hai là những cây bút xuất hiện trong thập niên đầu của thế kỉ
XXI như Vũ Kim Chi với tập Cái nồi mất quai, Trà đắng; Vi Thị Thu Đạm
với Chuyện tình ở bản Nà Lài (Tập truyện kí), Ngọt ngào sương núi (Tập kí);
Nguyễn Thị Quỳnh Nga với ba tập truyện ngắn Hoa sơn cước, Mùa sau sau
đỏ lá, Cúc đắng; Nguyễn Thị Hương Giang với Tiếng hát từ bản Nà Lùng;
Nông Ngọc Bắc với tập truyện, kí Mùa mới; Nguyễn Thị Ngọc Bốn với Dưới
chân Khau Slung ( tập truyện); Lê Tiến Thức với tiểu thuyết Phương Bắc
hoang dã; Vũ Ngọc Chương với các tiểu thuyết Rừng vàng, Khau Slin hùng
vĩ, ...Chu Thanh Hương với tiểu thuyết Hoa bay... Tác phẩm Mùa sau sau đỏ
lá của Nguyễn Thị Quỳnh Nga được giải Trẻ năm 2006 và Chuyện tình ở
bản Nà Lài của tác giả Vi Thị Thu Đạm được giải B văn xuôi (không có giải
A) năm 2007 do Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam
trao tặng. Tiểu thuyết Hoa bay của Chu Thanh Hương đạt giải A cuộc thi viết
tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc
sống” do Bộ Công an và Hội Nhà văn tổ chức. Giải thưởng Văn học Nghệ
thuật Hoàng Văn Thụ lần thứ III năm 2009 tiểu thuyết Khau Slin hùng vĩ cả
Vũ Ngọc Chương đạt giải B, tập truyện ngắn kí Ngọt ngào sương núi của Vi
Thị Thu Đạm đạt giải C, Tập Trà đắng của Vũ Kim Chi đạt giải C...
Có thể nói, văn xuôi Lạng Sơn bước vào thế kỷ XXI với một đội ngũ
tác giả tương đối hùng hậu và giàu sinh lực. Các thế hệ cầm bút với niềm đam
mê văn chương và tình yêu mãnh liệt dành cho quê hương xứ Lạng chắc chắn
sẽ tạo được những dấu ấn mới trong sự nghiệp văn học nghệ thuật Lạng Sơn
nói chung và sự nghiệp văn xuôi nói riêng.
1.4. Thành tựu về thể loại
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, Lạng Sơn cũng như các
địa phương khác bước vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây
dựng cuộc sống mới. Đặc biệt vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90,
thời kì chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường thì
cơ cấu kinh tế của các tỉnh miền núi nói chung và của Lạng Sơn nói riêng
17
cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Các cây bút đã không ngừng cố gắng,
nỗ lực cho ra đời những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao.
Truyện ngắn và tiểu thuyết có sự tăng nhanh về số lượng. Nếu như
trước 1975 văn xuôi Lạng Sơn chí xuất hiện một số truyện ngắn của Vy Thị
Kim Bình, Hoàng Trung Thu, Nguyễn Mạnh Hải thì từ 1975 đến nay, tiểu
thuyết và truyện ngắn tăng mạnh về số lượng cũng như chất lượng.
1.4.1. Truyện ngắn
Truyện ngắn có: tập truyện Niềm vui (1979) và tập Những bông huệ
(1997) của Vy Thị Kim Bình; Nguyễn Trường Thanh với tập truyện, kí Phò
mã Động Giáp (2010), Dặm dài ải Bắc (2012), Tiếng đàn sơn cước (2013);
Ngọc Mai với tập Đứa con ngoài giá thú (1993), Nguyễn Thị Quỳnh Nga với
3 tập truyện ngắn Hoa sơn cước (2006), Mùa sau sau đỏ lá (2006), Cúc đắng
(2007); Vi Thị Thu Đạm với tập truyện kí Chuyện tình ở bản Nà Lài (2007)
và tập kí Ngọt ngào sương núi (2008); Nguyễn Mạnh Hải với tập Slao Ly
(1999) và tập truyện ngắn Day dứt (2011); Trương Thọ với tập truyện kí
Những người sống quanh tôi (2012); Nguyễn Thị Ngọc Bốn với tập truyện
ngắn Dưới chân Khau Slung (2014) ...
1.4.2. Tiểu thuyết
Tiểu thuyết có: Kỳ tích Chi Lăng (1981,1982), Hoa trong bão (1994),
Tướng không phong hàm (1998), Một thời biên ải (2001), Ngôi nhà của cha
(2007), Hương ngàn (2008), Hoa bất từ (2009) của Nguyễn Trường Thanh;
Khau Slin hùng vĩ ( 2006), Rừng vàng (2007) Cơn lốc bạc (2008) của Vũ
Ngọc Chương; Phương Bắc hoang dã (2013) của Lê Tiến Thức...
18
Tiểu kết chương 1
Lạng Sơn là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa chứa đựng
nhiều sắc thái văn hóa riêng. Từ sau 1975, cùng với sự phát triển, đổi mới của
văn học cả nước, văn xuôi Lạng Sơn ngày càng xuất hiện nhiều tác giả với
những tác phẩm có chất lượng tốt. Nhờ đội ngũ ấy, trong những năm qua, văn
xuôi Lạng Sơn đã không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng tác phẩm
so với các giai đoạn trước đó. Văn xuôi Lạng Sơn đã làm tốt vai trò phản ánh
đời sống và thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người xứ Lạng trong một giai
đoạn lịch sử với nhiều biến động của một tỉnh miền núi biên giới. Với hương
sắc riêng, văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 đang lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp
đa dạng, phong phú cho nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng và văn học dân
tộc nói chung
19
Chương 2
NHỮNG CẢM HỨNG SÁNG TẠO MỚI
TRONG VĂN XUÔI LẠNG SƠN SAU 1975
2.1. Quan niệm về cảm hứng nghệ thuật
Bất cứ một tác phẩm nào đạt đến tính nghệ thuật đều không thể thoát ly
cảm hứng mà phải gắn liền với cảm hứng, thậm chí có thể nói là được khơi
nguồn từ cảm hứng. Đối với tác phẩm văn học, cảm hứng là một trong những
yếu tố quan trọng trong việc hình thành tác phẩm, tạo ra sức mạnh của tác
phẩm, đạt đến hiệu ứng thẩm mĩ.
Trước những vấn đề của hiện thực đời sống, nhà văn khi phản ánh vào
tác phẩm bao giờ cũng thông qua đó gửi gắm, thể hiện thái độ tình cảm, có
khi là tán thành, ngợi ca, cũng có khi là phê phán... Nói một cách khác, đó
chính là cảm hứng tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng được coi là trạng thái
tâm lý then chốt và bao trùm trong sáng tác của nhà văn: “Như cầu bộc lộ,
giải thoát tình cảm cộng với năng lực tưởng tượng dẫn đến trạng thái sẵn
sàng sáng tạo của nhà văn được gọi là cảm hứng” [50-307]. Trong Lí luận
văn học do Phương Lựu chủ biên, có viết: “ Nội dung tư tưởng tác phẩm văn
học không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng dưng lạnh lùng, mà gắn liền với các
cảm xúc mãnh liệt” [50-268]; “Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư
tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động” [50-268]; Cảm hứng
được coi là một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học. Cảm hứng không
cho phép nhà văn thể hiện thể hiện cảm xúc một cách bằng phẳng, nhạt nhẽo.
Nội dung của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm bao giờ cũng là một
tình cảm xã hội đã được ý thức. Đó có thể là những tình cảm khẳng định như
ngợi ca, vui sướng, biết ơn, tin tưởng, yêu thương, đau xót... Đó có thể những
tình cảm phủ định, phê phán các hiện tượng tiêu cực xấu... Các tình cảm đó
gợi lên bởi các hiện tượng xã hội được phản ánh trong tác phẩm tạo thành nội
dung cảm hứng của tác phẩm.
20
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, G.N.Pospelov viết: “ Sự lí
giải, đánh giá sâu sắc và chân thật – lịch sử đối với các tính cách được miêu
tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm
hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn” [63-141].
Khi nhà văn thực sự xúc động, thực sự ấn tượng cái đối tượng được miêu tả
kia, tạo thành một dòng cảm xúc mạnh mẽ không thể giữ lại, thôi thúc nhà
văn phải viết ra. Khi đó, cái gọi là cảm hứng mới thực sự có ý nghĩa.
Hêghen cho rằng: “Cảm hứng được hình thành từ hoạt động của hư
cấu và sự hoàn thành ý định về mặt kĩ thuật xét ở bản thân nó với tính cách
trạng thái tâm hồn của nghệ sĩ” [56-279]. Từ đó ông đưa ra khái niệm “Cảm
hứng thực sự, do đó nảy sinh khi có một nội dung đã được quy định. Nội dung
này được hư cấu chiếm hữu để cấp cho nó một biểu hiện nghệ thuật và cảm
hứng chính là hoạt động tích cực ở trong thế giới bên trong”[56-298].
Còn Biêlinxki thì cho rằng: “Trong những tác phẩm nghệ thuật – tư
tưởng là cảm hứng chủ đạo của chúng, cảm hứng chủ đạo là gì? Đó là sự
thâm nhập say mê, ham thích một tư tưởng nào đó” [44-39]. Có thể thấy, ông
nhấn mạnh tư tưởng làm nên sức sống của tác phẩm, quyết định quá trình
sáng tạo của nhà văn. Khrapchenkô tán thành quan niệm của Biêlinxki và ông
cũng bổ sung: “ Tư tưởng sáng tạo của nhà văn trong ý thức của anh ta
thường gắn liền với những khái niệm về số phận nhân vật, với sự thụ cảm
cuộc sống dưới hình thức cảm xúc... Sự dồi dào về mặt cảm xúc của tác phẩm
nghệ thuật là đặc điểm hữu cơ của tái tạo hiện thực bằng hình tượng, là sự
thể hiện tư tưởng sáng tạo” [44-38]. Như vậy, Biêlinxki gắn cảm hứng sáng
tạo với hình tượng nhân vật và hình thức cảm xúc của nhà văn.
Giáo sư Trần Đình Sử cũng khẳng định: “Cảm hứng là một tình cảm
mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động. Là
niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện
tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là
sự phê phán tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường” [51-52].
21
Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học đã tổng hợp những quan niệm
của các nhà nghiên cứu mĩ học và văn học để đưa ra một khái niệm tổng quát
về cảm hứng chủ đạo: “Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt
say đắm, xuyên suốt của tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác
định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của người tiếp
nhận... Cảm hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh
thần nhất định thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố nội dung của tác phẩm.
Đây là mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định cái nguyên
tắc thế giới quan của mình trong đó” [30-39].
Như vậy, cảm hứng nghệ thuật là tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, say
đắm, thể hiện tư tưởng khát vọng chân thành, cháy bỏng của nhà văn về đối
tượng hướng đến trong tác phẩm. Cảm hứng gắn liền với những lý tưởng cao
đẹp của nhà văn về cuộc sống và con người. Nó khơi thông miền cảm xúc qua
mỗi trái tim người đọc, đọng lại một tình cảm sâu xa, khơi thông nguồn trí
tuệ, giúp nhận thức đối tượng trên nhiều phương diện.
Do những khác biệt cốt yếu của bản thân cuộc sống được nhận thức,
cảm hứng có thể có những biến thể khác nhau: Cảm hứng anh hùng, cảm
hứng lãng mạn, cảm hứng ngợi ca, cảm hứng châm biến phê phán, cảm hứng
hài hước... Các biến thể ấy vừa mang những đặc trưng riêng đồng thời cũng
có mối quan hệ bổ sung và tương hỗ cho nhau. Trong từng tác phẩm, cảm
hứng này có thể trở thành một phương diện của cảm hứng kia. Tất cả các
dạng cảm hứng đều nảy sinh trong ý thức con người, đều là sự ý thức về mặt
tư tưởng và sự đánh giá về mặt cảm xúc chân thực và sâu sắc về những gì
đang diễn ra, tồn tại trong thực tế.
2.2. Những cảm hứng sáng tạo mới trong văn xuôi Lạng Sơn sau 1975
Lạng Sơn là nơi đã trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, cũng là
nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, nhiều cư dân ở các tỉnh miền xuôi
lên lập nghiệp và đang tồn tại nhiều tín ngưỡng dân gian cùng với một nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nơi đây, núi non hùng vĩ, phong cảnh và khí
22
hậu tuyệt vời với một vùng văn hóa đa sắc tộc phong phú, độc đáo trở thành
nguồn cảm hứng lớn cho văn học, đã tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo mạnh
mẽ cho các nhà văn, nhà thơ. Cảm hứng nghệ thuật luôn gắn bó chặt chẽ với
tư tưởng tình cảm của nhà văn. Tìm hiểu văn xuôi Lạng Sơn sau 1975 đến
nay, chúng tôi thấy cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm là: Cảm hứng ngợi
ca thiên nhiên, cảm hứng ca ngợi, trân trọng, đề cao những phẩm chất và khát
vọng tốt đẹp của người miền núi; cảm hứng phê phán những hạn chế, tiêu cực
trong đời sống; cảm hứng nhận thức tìm kiếm bản thể con người; cảm hứng
về đời sống văn hóa.
2.2.1. Cảm hứng ngợi ca thiên nhiên
Đã từ bao đời nay thiên nhiên luôn là người bạn gần gũi của con người
trong cuộc sống, là đối tượng miêu tả không thể thiếu trong văn học nghệ
thuật, là mạch nguồn cảm hứng tạo nên tác phẩm văn chương. Thiên nhiên
bao gồm cả con người và cuộc sống. Mọi cái đẹp và sáng tạo, thực ra chỉ ẩn
dấu trong tự nhiên. Trần Nhân Tông – vị vua anh hùng trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên – Mông khi lên thị sát vùng núi Lạng Sơn đã viết
những bài: Đăng Bản Sơn Đài, Sơn phòng mãn hứng, Lạng Châu Văn Cảnh.
Nguyễn Trung Ngạn thì chú ý đến quang cảnh: “Xóm núi trăng lòng ran tiếng
mõ – Nương đồi mưa ngớt rộn màu xanh”; Nguyễn Du thì nhận ra cái tình
thiên nhiên gắn bó trên thành Lạng: “Mây và đá Đoàn thành như đợi nhau
trong buổi chiều tà” (Đoàn thành vân thạch tịnh tương hậu); Ngô Thì Nhậm
có ý thơ rất phóng khoáng, lên đỉnh Mẫu Tử sơn, ông “phóng tầm mắt nhìn
suốt bảy châu Xứ Lạng và khoan thai đón làn gió từ vạn dặm thổi rung chòm
râu đắc ý của mình” (Thất châu mãn nhãn vô di địa, vạn lý hồn nhiên hữu cốc
phong); Nguyễn Tông Khuê mô tả vẻ hùng tráng của đất nước ở đây vừa sinh
động, vừa đẹp mơ màng: “Núi dăng, cờ lộng, lung linh nguyệt – Trống rộn
còn vang bát ngát rừng”...
Những cảnh đẹp thiên nhiên đầy thơ mộng, hùng vĩ của xứ Lạng cùng
với cuộc sống thanh bình của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn
23