Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận tìm hiểu về các địa danh ở Tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.23 KB, 16 trang )

Page |1

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐỊA DANH HỌC VIỆT NAM

Tìm hiểu về đặc điểm địa danh của
tỉnh Ninh Bình

SV THỰC HIỆN: Nguyễn Thị Mai Châu
MSSV: K36.809.009

TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2015


Page |2

MỤC LỤC
MỤC LỤC…………………………………………………................................
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..
1.

2.

3.

Phần mở đầu……………………………………………………………..
1.1.
Lí do chọn đề tài…………………………………………………..
1.2.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………..
1.3.


Mục đích nghiên cứu
1.4.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………….
1.5.
Phương pháp nghiên cứu…………………………………………
1.6.
Ý nghĩa của việc nghiêu cứu……………………………………...
Nội dung………………………………………………………………….
2.1.
Giới thiệu sơ lược về địa bàn tỉnh Ninh Bình……………………
2.1.1. Địa lí…………………………………………………………….
2.1.2. Lịch sử - văn hóa………………………………………………
2.2.
Khái niệm địa danh………………………………………………
2.3.
Thống kê và phân loai địa danh…………………………………
2.4.
Đặc điểm địa danh tỉnh Ninh Bình……………………………...
2.4.1. Phương thức đặt tên địa danh………………………………
2.4.1.1.
Phương thức tự tạo……………………………………
2.4.1.2.
Phương thức chuyển hóa……………………………...
2.4.2. Cấu tạo địa danh……………………………………………..
2.4.2.1.
Địa danh có cấu tạo đơn………………………………
2.4.2.2.
Địa danh có cấu tạo phức……………………………..
2.4.3. Các quy luật biến đổi về địa danh……………………………
2.5.

Chọn một số địa danh để giải thích rõ hơn……………………..
2.6.
Kết luận chung về địa danh tỉnh Ninh Bình…………………….
Tài liệu tham khảo………………………………………………………


Page |3

LỜI MỞ ĐẦU

Tìm hiểu về cội nguồn, quê hương , là một trong những nhiệm vụ và cũng là để thể
hiện tình cảm đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình, trở về với quê hương, ta như
được tiếp thêm nguồn sinh khí mới, có thêm động lực,điểm tựa giúp chúng ta vững
bước hơn trong cuộc sống. Mỗi người có một cách suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng
và cách thể hiện tình cảm riêng của mình đối với quê hương, với tôi quá trình làm
tiểu luận này, là một trong những điều kiện thuận lợi để tôi có dịp bày tỏ thái độ, sự
hiểu biết, tình cảm,lòng thành kính, biết ơn đối với mảnh đất quê hương, nơi tôi
sinh ra.
Và tôi xin chân thành cảm ơn tới ThS. Phan Văn Phú,người đã hướng dẫn tôi thực
hiện đề tài này.
Mặc dù tôi có cố gắng, nỗ lực nhung tiểu luận không tránh khỏi những sai sót. Vì
vậy tôi mong sự đóng ghóp ý kiến trân thành của Thầy, các bạn, để tiểu luận có thể
hoàn thiện hơn.


Page |4

1. Phần mở đầu.
1.1.


Lí do chọn đề tài.

Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng và cần thiết.
Nó không chỉ làm sáng tỏ những đặc điểm, quy luật hình thành và phát triển
của địa danh, góp phần nghiên cứu ngôn ngữ một vùng miền, một dân tộc,
một đất nước mà còn liên quan mật thiết nhiều vấn đề khác, đặc biệt là mối
quan hệ giữa ngôn ngữ với sự phát triển văn hoá xã hội.
Nghiên cứu địa danh tỉnh Ninh Bình cũng hướng đến những mục đích và
ý nghĩa được trình bày ở trên, góp phần cho việc tìm hiểu một khía cạnh
ngôn ngữ tại một khu vực lãnh thổ nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Và đặc biệt tôi muốn tìm hiểu kĩ hơn về đặc điểm địa danh tỉnh Ninh
Bình, để hiểu sâu hơn về phương thức đặt tên địa danh,cấu tạo địa danh,các
quy luật biến đổi địa danh nơi đây. Và từ đó có thêm kiến thức để có thể làm
được những bài tiểu luận với quy mô lớn hơn.
1.2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về đặc điểm địa danh tỉnh Ninh Bình.

Mục đích nghiên cứu.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm hiểu thêm về các địa danh trên vùng đất
Ninh Bình, cũng như hiểu thêm con người văn hóa nơi đây, và sự đa dạng
của tên goi địa danh trên đất nước Việt Nam xinh đẹp.
1.4.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.4.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam.
1.3.

Một số luận án Tiến sĩ của các tác giả: Lê Trung Hoa với Những đặc
điểm chính của địa danh ở thành phố HCM (1990), Nguyễn Kiên Trường

(1996) với Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng (sơ bộ so sánh
với một số vùng khác), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2004) củaTừ Thu
Mai, Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) củaTrần Văn
Dũng…


Page |5

Ngoài ra còn có Những vấn đề địa danh học Việt Nam (2000) của
Nguyễn Văn Âu, Sổ tay địa danh Việt Nam (1995) củaĐinh Xuân Vịnh, Sổ
tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn Dược- Trung Hải, Từ điển bách
khoa địa danh Hải Phòng (1998) Ngô Đăng Lợi (chủ biên), Từ điển địa danh
thành phố Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh (2003) củaLê Trung Hoa Nguyễn Đình Tư.
1.4.2.

Vấn đề nghiên cứu địa danh ở tỉnh Ninh Bình.

Nghiên cứu địa danh học ở Ninh Bình cũng đã có nhiều công trình, tiêu
biểu như : Di tích và danh thắng Ninh Bình, Lã Đăng Bật - Phạm Đình
Nhân, Trung tâm UNESCO, 2002; Cố đô Hoa Lư, Lã Đăng Bật, NXb
VHDT, 2005, Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, Phạm Tử Mẫn, Nxb
Chính trị quốc gia, 2001; Địa chí Ninh Bình, Viện khoa học xã hội và
UBND tỉnh Ninh Bình, 2009.
1.5.

Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp liệt kê, tổng hợp và quy nạp.

Ngoài ra tôi cũng sử dụng những thao tác nghiên cứu của các khoa học
thuộc các ngành khác như Lịch sử học, Địa lý học, Văn hoá học… để có

được những kiến giải ban đầu về nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh.
Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
-Ý nghĩa thực tiễn: làm bài tiểu luận cuối kì cho môn Địa Danh học; thêm
kiến thức hiểu biết cho bản thân, mở rộng kiến thức, hiểu một cách rõ ràng hơn
về đề tài một điều mà tôi muốn tìm hiểu từ lâu.
- ý nghĩa khoa học: ghóp thêm một phần tài liệu nhỏ cho những ai muốn tìm
hiểu về đặc điểm địa danh tỉnh Ninh Bình.
1.6.

2. Nội dung.
2.1.

Giới thiệu sơ lược về đặc điểm địa danh tỉnh Ninh Bình.
2.1.1. Vị trí địa lí, địa hình.

Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ
sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng
Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung.


Page |6
1.
2.
3.
4.

Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam,
Phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy,
Phía tây giáp Thanh Hóa,
Phía nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ).


Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía
nam.
Địa hình: Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng,
Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía
tây bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Đỉnh
Mây Bạc thuộc rừng Cúc Phương với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất
Ninh Bình.Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim
Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp.
Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4
khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng
văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn.
Khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di
sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài
18 km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m.
Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự
trữ sinh quyển thế giới. Hiện 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn
Mờ.
2.1.2.

Lịch sử và văn hóa.

Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn
Lang. Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau
thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên.
Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi
hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đổi tên gọi Trường Châu thành Trường An.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long,
và Ninh Bình nằm trong phủ Trường An. Nhưng đến cuối đời Lý có lúc gọi
là châu Đại Hoàng Giang .

Đầu đời Trần đổi là lộ Trường Yên. Đời Trần Thuận Tông, năm Quang
Thắng 10 (1397) đổi trấn Trường Yên làm trấn Thiên Quan.
Thời thuộc Minh lấy lại tên cũ là châu Trường Yên thuộc phủ Kiến
Bình.


Page |7

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam
Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng
8 năm 1991. Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1.386,77 km², dân số
787.877 người, gồm 2 thị xã Ninh Bình (tỉnh lị), Tam Điệp và 5 huyện: Gia
Viễn, Hoa Lư, Hoàng Long, Kim Sơn, Tam Điệp. Ngày 23 tháng 11
năm1993, huyện Hoàng Long đổi lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4
tháng 7 năm 1994, huyện Tam Điệp đổi lại tên cũ là huyện Yên Mô và tái
lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam Điệp cũ và 9 xã của
huyện Kim Sơn. Ngày 7 tháng 2 năm 2007, chuyển thị xã Ninh Bình
thành thành phố Ninh Bình.
Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng
bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa
Ninh Bình tương đối năng động, phát triển trên nền tảng văn minh châu thổ
sông Hồng. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ
rất sớm
Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn
với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu
ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá
trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất
này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích
lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông.
2.2.

Khái niệm địa danh.
Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các đối
tượng tự nhiên và kinh tế xã hội, các đơn vị hành chính và các vùng lãnh
thổ. Trước một địa danh , ta có thể đặt một danh từ chung chỉ tiểu loại danh
đó ..vd: sông Hồng, đền Vua lê Đại Hành., sông Vân..
Đia danh học có thể chia làm nhiều ngành nhỏ: thủy danh học, sơn
danh học, phương danh học, phố danh học….
Địa danh học không chỉ liên quan tới ngôn ngữ học mà còn liên quan
tới địa lí học, lịch sử học, dân tộc học…
2.3.
Thống kê và phân loai địa danh.
Địa bàn tỉnh Ninh Bình có rất nhiều địa danh lớn nhỏ, nhưng tôi chỉ
lấy những địa danh phổ biến và được nhiều người biết đến để sử dụng phân
loại để thấy được đặc điểm về địa danh ở nơi đây.
Bảng : thống kê và phân loại địa danh tỉnh Ninh Bình
Đối tượng tự nhiên

Đối tượng lao động- xã hội


Page |8

Sơn danh

Lâm danh

Thủy danh

Hành chính


Công trình
xây dựng

Núi Cánh
diều
Động Vân
trình

VQG Cúc
Phương
Khu bảo tồn
TN Vân
Long
Quần Thể
danh thắng
Tràng An

Sông Hồng

TP.Ninh Bình

Cố đô Hoa Lư

Sông Bôi

TP. Tam Điệp

Chùa Bái
Đính


Sông Vân

Huyện Gia
Viễn

Nhà thờ Phát
Diệm

Núi Kì lân

Biển Kim
Sơn

Huyện Hoa


Đền vua Đinh
Tiên Hoàng

Núi Thúy

Sông Đáy

Huyện Kim
Sơn

Đền vua Lê
Đại hành

Huyện Nho

quan

Thành Hoa


Tam cốc –
bích động
Động
người xưa

Cầu Ninh
Bình
Chùa Bích
Động
Chợ Rồng
Phân loai bảng ở trên ta có các bảng dưới đây

Bảng thống kê phân loại địa danh tự nhiên và đối tượng lao động
xã hội

∑=29

Địa danh tự nhiên

Tỉ lệ

14/29

Địa danh chỉ đối tượng lao
động- xã hội.

15/29

Tỉ lệ %

48.2%

51.8%


Page |9


Bảng thống kê phương thức đặt tên địa danh.

∑=29

Phương thức tự tạo

Phương thức chuyển hóa

Tỉ lệ

23/29

6/29

Tỉ lệ%

79,3%


20.7%



Bảng thống kê cấu tạo địa danh.

∑=29

Địa danh có cấu tạo đơn

Địa danh có cấu tạo phức

Tỉ lệ

6/29

23/29

Tỉ lệ %

20,6%

79.4%

Đặc điểm địa danh tỉnh Ninh Bình.
2.4.1. Phương thức đặt tên địa danh.
2.4.1.1.
Phương thức tự tạo
 Dựa vào đặc điểm của chính bản thân đối tượng để đặt tên.
Gọi theo hình dáng đối tượng : dựa vào biểu tượng – hình ảnh quan sát được

để đặt tên, như là núi Cánh Diều (Núi Cánh Diều có ba ngọn, ngọn giữa cao,
hai ngọn tả hữu chĩa ra như hai cánh chim, vì vậy còn có tên gọi là Diên Xỉ
Sơn ( “Diên” là Diều hâu, “Xỉ” là cánh chim) - Con chim diều hâu liệng).
Hay là núi Kì Lân (Núi tên là Kỳ Lân vì có hình đầu con lân nhìn về phía
Bắc. Núi cao trên 50 m và phía Bắc sườn núi hõm vào tạo thành một cái hàm
con lân. Xung quanh là những vách núi nhấp nhô, cây cối mọc xanh um như
bờm và râu của con lân.)
Gọi theo màu sắc của đối tượng : sông Hồng ( vì nước sông có màu đỏ nặng
phù sa )….
Gọi theo vật liệu xây dựng đối tượng : cầu ngói ( cầu có mái che làm bằng
gạch ngói).
2.4.

-

-


P a g e | 10

-Gọi tên theo biến cố lịch sử hay nhân danh sự vật có liên quan trực tiếp tới
đối tượng : động Người xưa, Đền vua Đinh Tiên Hoàng, Đền vua Lê Đại
Hành.


Ghép các yếu tố Hán -Việt để đặt tên.

- Hầu như cách này đều mang ý ngĩa tốt đẹp như là Tân, An, Bình ,
Long, Phú,Thạnh… Vân Long, Tràng an, Ninh Bình, Gia Viễn , Kim Sơn,
Phát Diệm , Bích Động, Hoa Lư…….

+Ninh Bình: phẳng lặng , yên ổn, yên tĩnh..
+Chùa Bích Động: vốn được hình thành từ năm 1428, đầu thời Hậu
Lê với quy mô là một ngôi chùa nhỏ ở trên đỉnh núi. Năm 1705, có hai vị
hoà thượng Trí Kiên và Trí Thể quê huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định gặp
nhau kết nghĩa làm anh em. Hai nhà sư đều có lòng mộ đạo, muốn đi nhiều
nơi để truyền bá đạo Phật và xây dựng các ngôi chùa. Đến đây, thấy núi Bích
Động có địa thế tuyệt đẹp và đã có chùa, nên hai nhà sư quyết định dừng
chân, tự mình sửa sang chùa cũ, đi quyên giáo xây dựng lại thành 3 ngôi
chùa: Hạ, Trung và Thượng để tu hành……. Năm Giáp Ngọ 1774,
chúa Trịnh Sâm đã đến thăm chùa, nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước,
đồng ruộng, cây cối đều xanh tươi, chùa như hội tụ nền xanh chùa nên đã
đặt tên cho chùa là Bích Động.
+Động Vân Trình: có nghĩa là ngọn núi có mây vờn ở cửa đông.
+Cố đô Hoa Lư: Về tên gọi Hoa Lư, các nhà nghiên cứu hán nôm
khẳng định rằng: Hoa Lư là một danh từ riêng chỉ một vùng đất chứ không
phải tên người, tên vật hay thần linh. Hiện vẫn tồn tại rất nhiều cách hiểu
khác nhau về danh xưng này.Nhưng có rất nhiều giải thích có lí .
• Chữ hoa viết là hoa (花) nghĩa ở đây hiểu là bông hoa và Chữ (花)
"lư" còn đọc là "lô" hay "lau" là: bông lau . "Hoa lư" (花花) với nghĩa


là hoa lau.
Theo cách viết Hoa Lư (花花) thì chữ Lư (花) mang nghĩa là cổng
làng, được viết bằng chữ (花) bên ngoài chữ lữ (花) bên trong. Vì thế
cho nên chữ Lư ở đây có người hiểu là cổng làng….


P a g e | 11

+Nhà Thờ Phát Diệm: Nơi phát sinh ra cái đẹp ("Diễm" và "Diệm"

cùng âm, nghĩa là đẹp, ngày nay gọi là Phát Diệm)………
2.4.1.2.

Phương thức chuyển hóa.

Các địa danh theo phương thức chuyển hóa:





Chuyển hóa trong nội bộ địa danh : tỉnh Ninh Bình -> Tp. Ninh Bình ,
Cố Đô Hoa Lư-> huyện Hoa Lư, huyện Tam Điệp-> Tp.Tam Điệp
Địa danh hành chính chuyển sang công trình Xây dựng như là Cố đô Hoa
Lư -> thành Hoa Lư.
Địa danh vùng chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng : Tỉnh Ninh
Bình-> chợ Ninh Bình.
Địa danh hành chính sang địa hình chỉ thiên nhiên Huyện Kim Sơn ->
biển Kim Sơn.

Phương thức đặt tên địa danh theo phương thức tự tạo
chiếm nhiều nhất ở tỉnh Ninh Bình. Địa danh ở đây thường gắn với đối
tượng, có quan hệ chặt chẽ với đối tượng hoặc địa danh với tên gọi có
nghĩa, tên gọi là yếu tố Hán-Việt ghép lại , do ở đây trải qua nhiều thời đại
lịch sử,văn hóa có bề dày lịch sử .
2.4.2. Cấu
2.4.2.1.

tạo địa danh.
Địa danh có cấu tạo đơn


+ Địa danh thuần Việt , có thể các địa danh sau đây có thể vốn là
danh từ,động từ và tính từ , nhưng chung lại thì đều chuyển thành danh từ.
Danh từ: Thúy,Vân => Sông Vân, Núi Thúy.
Tính từ: Hồng => Sông Hồng
Động từ : Bôi( bồi đắp phù sa) => Sông Bôi





+ địa danh không thuần Việt, địa danh theo gốc Hán : Rồng..
2.4.2.2.

Địa danh có cấu tạo phức.

+ Địa danh thuần Việt


Cấu trúc theo kiểu danh từ + danh từ: Núi Cánh Diều..


P a g e | 12



Danh từ + danh từ +danh từ: Đền Vua Lê Đại Hành,Đền Vua Đinh
Tiên Hoàng.
Cấu trúc danh từ + tính từ: động Người xưa…….


+ Địa danh Hán – Việt: Động Vân Trình, Tam Cốc- Bích Động,
Cúc Phương, Vân Long, Tràng An, Gia Viễn,Kim Sơn, Nho Quan,Hoa Lư,
Bái Đính, Phát Diệm.
Địa danh theo cấu tạo phức chiếm đa số ở tỉnh Ninh Bình.
2.4.3.

Nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh

Nguồn gốc tên địa danh ở đây thường là gắn liên với nguyện vọng , ý
chí của mình , nhân dân ở một vùng bao giờ cũng gắn bó với địa phương
mình , tự hào về mảnh đất nơi mình sinh ra và tồn tại nên muốn cho địa
phương mình được tốt đẹp, ấm no, hạnh phúc :Ninh Bình( yên bình, phẳng
lặng. Nhưng trong đó từ< Ninh> là từ gốc , được tách ra từ cụm Hà Nam
Ninh), Tràng An( bình an), Gia Viễn, Nho Quan,Kim Sơn….
Địa danh thường biến đổi, rút gọn cho dễ đọc ,dễ nhớ như là sông
Vân( Sông Vân là tên gọi tắt của sông Vân Sàng- một chi lưu của sông Đáy),
hay là núi Thúy(có tên gọi là Dục Thúy Sơn), đền Vua Đinh Tiên Hoàng,
đền Vua Lê Đại Hành( đền Vua Đinh Vua Lê)..
Một số hiện tượng địa lí , nhất là các sông ngòi thường xuất hiện tên của
từng đoạn , về sau mới thống nhất thành tên chung , như là con Sông Hồng :
trên suốt chiều dài có tới 50 tên gọi khác nhau ( Nguyên, Thao, Nhị….) và
sau đã thống nhất tên gọi chung là sông Hồng …



Địa danh của tỉnh Ninh Bình chủ yếu theo phương thức tự tạo và và cấu tạo
địa danh theo kiểu có cấu tạo phức…
Một số yếu tố ảnh hưởng tới tên địa danh của Ninh Bình.
 Yếu tố lịch sử: Ninh Bình trải qua nhiều triều đại, chứng kiến nhiều sự
kiện lịch sử ( bị giặc phương Bắc đô hộ hàng ngàn nam nên tên gọi

các địa danh thường sử dụng các yếu tố hán Việt) nên taị nơi đây
mang nhiều dấu ấn lịch sử qua các địa danh như cố đô Hoa Lư, …,
hay người ta xây dựng lên nhiều đền,chùa.. để nhớ ơn công lao vĩ đại:
đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Vua Lê Thánh Tông…


P a g e | 13

Yếu tố địa lí :Địa hình đa dạng,gồm 3 dạng địa hình:đồi núi, đồng
bằng, bán sơn nguyên, song nước..địa hình đá vôi với nhiều hang
động, núi, đa dạng hình thù(núi cánh diều, hang bích động, núi Kì
lân…), sông nước: có con Sông Hồng lớn và nhiều con sông khác, có
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa , động thức vật phong phú đa dạng( Vqg
Cúc Phương, khu dự trữ sinh quyển quốc gia )..  nhiều địa danh
núi,hang,sông đa dạng tên gọi.
2.5.
Chọn các địa danh để giải thích rõ hơn.
2.5.1. Sông Hồng.


Sông Hồng là con sông lớn nhất miền Bắc nước ta. Dòng sông lớn
bắt nguồn từ hồ Đại Lý ở chân dãy Ngụy Sơn thuộc huyện Nhị Đô, tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc. Dòng sông chảy theo hướng Tây Bắc _ Đông Nam
và thực sự vào nước ta từ thị xã Lào Cai , qua Thủ Đô Hà Nội rồi đổ ra
biển theo cửa chính – Bà Lạt. Do đó phần lớn chiều dài con sông cũng như
diện tích thuộc địa phận Trung Quốc(55% và 52%).
Về mặt địa danh, sông Hồng có thể coi là một trường hợp điển hình
của điạ danh Việt Nam . Ở đây có nhiều từ dùng chỉ sông như: giang,
nặm , thủy, hà …song quan trọng hơn là tên goi của sông . Sông Hồng
chắc là con sông có nhiều tên gọi vào loại nhất thế giới (50 tên gọi khác

nhau), đặc trưng từng đoạn, từng ngôn ngữ dân tộc, từng giai đoạn lịch sử.
+ Đoạn sông ở Trung Quốc ( từ nguồn đến Lào Cai) co 7 tên gọi :
Diệp Du, Tây Nhĩ , Hoti, Nguyên,…
+ Đoạn Từ Lao Cai tới Việt Trì có 10 tên gọi : Lê Xá, Quy Hóa, Tây
Đạo, Văn Lang, Thao, Tao, Đào…
+Đoạn từ Việt Trì đến cửa Ba Lạt có tới 30 tên goi khác nhau : Lô,
Việt Trì, Mê Linh, ..và nhất là Hồng..
Về tên gọi , nhiều người cho rằng quân Pháp sang nước ta xâm lược
đã dùng tên Flouve Rouge để chỉ cho cả dòng sông với màu nước đỏ nặng
phù sa , rồi sau đó người Việt mới dịch ra âm hán Việt và tên Nôm. Tuy
nhiên thì có nhiều truyền thuyết và tài liệu cổ trong lich sử cho thấy tên địa
danh sông Hồng – Hồng Hà đã được dùng từ lâu.., nhưng trong nhiều thế


P a g e | 14

kỉ gần đây lại ít sử dụng.. .
2.5.2. Núi cánh Diều.
Núi Cánh Diều, là di tích lịch sử văn hóa nằm ở phía đông thành phố Ninh
Bình, thuộc địa phận phường Thanh Bình. Cũng giống như núi Non Nước,
núi Ngọc Mỹ Nhân nằm gần bên sông Đáy. Ở trung tâm thành phố, trông
núi có 3 đỉnh, đỉnh giữa cao, hai đỉnh tả hữu chĩa ra như cánh chim. Bên
núi có chùa Cánh Diều và đền Thánh Cả thờthần Thiên Tôn, xung quanh
núi có nhiều hang động u minh, dưới núi có sông ngầm xuyên thủy.
Về tên gọi: Tên gọi đó gắn liền với truyền thuyết về sự hoá thân của Cao
Biền - một tướng giỏi, đồng thời là một pháp sư đời Đường (Trung Quốc)
sang cai trị nước ta. Ông thường cưỡi diều giấy đi dò phá long mạch nước
Nam. Khi bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cao tay cùng nhân dân ở
đây dùng tên bắn. Cao Biền bị trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một
hòn núi, từ đó mang tên là Núi Cánh Diều.. Núi Cánh Diều có ba ngọn,

ngọn giữa cao, hai ngọn tả hữu chĩa ra như hai cánh chim, vì vậy còn có
tên gọi là Diên Xỉ Sơn ( “Diên” là Diều hâu, “Xỉ” là cánh chim) - Con
chim diều hâu liệng.
2.5.2.

Núi Kì Lân.

Núi Kỳ Lân là một hòn đảo núi nằm ở vị trí trung tâm thành phố Ninh
Bình thuộc địa phận phường Tân Thành, cạnh quốc lộ 1A và đại lộ Tràng
An nối trung tâm thành phố đi các khu du lịch Tràng An- Hoa Lư - chùa
Bái Đính.


P a g e | 15



×