BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
BÙI THỊ TUYẾT MAI
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NƠM BÌNH DÂN
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CÓ NGUỒN GỐC
TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ NƯƠNG
1
HÀ NỘI – 2015
2
LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô giáo
TS. Nguyễn Thị Nương, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt
quá trình nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, thầy cô giáo tổ
bộ môn Văn học Việt Nam trung đại – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình
giảng dạy cho em nguồn tri thức quý giá trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
tại trường. Xin chân thành cảm ơn phòng sau Đại học, Thư viện trường, Thư viện
Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ và cung
cấp tài liệu cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin gửi lời tri ân tới gia đình, người thân và bạn bè đã ln khích lệ,
động viên, giúp đỡ em trong thời gian học tập và thực hiện luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2015.
Học viên
Bùi Thị Tuyết Mai
3
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết là vấn đề lớn của nền
văn học dân tộc. Trước bối cảnh hội nhập và phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại
ngày nay, tìm về cội nguồn văn hóa dân gian, giá trị truyền thống dân tộc để hiểu
hơn những giá trị hiện tại là xu thế đáng được quan tâm. Là một lĩnh vực đặc biệt
của văn hóa, văn học viết trực tiếp kế thừa và phát triển trên cơ sở những thành tựu
của văn học dân gian. Văn học dân gian là cái nôi thơ ca của nền văn học dân tộc sơ
khai, là ngọn nguồn của văn học nghệ thuật ngôn từ, nuôi dưỡng nền văn học viết
ngay từ khi mới hình thành. Những ngày đầu tiên mới ra đời, văn học viết được
người mẹ văn học dân gian nâng đỡ những bước đi đầu tiên. Sau này, khi đã trưởng
thành và có bước phát triển mới những đứa con văn học vẫn mang trong mình dáng
dấp và hơi thở của mẹ. Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học
viết cung cấp cho chúng ta cơ sở khoa học cần thiết khi nghiên cứu văn học, đồng
thời tôn vinh những giá trị bền vững của văn học truyền thống trong xã hội hiện đại.
1.2. Là một thể loại văn học viết – Truyện Nơm có vị trí quan trọng góp phần
làm nên giá trị của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Có
lịch sử tồn tại trong khoảng bốn thế kỉ và đạt thành tựu rực rỡ nhất ở thế kỉ XVIII,
từ khi hình thành đến khi tạm biệt văn đàn truyện Nơm đã hồn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Chứng kiến một thời đại xã hội phong kiến Việt Nam suy vi, suy tàn,
sụp đổ truyện Nôm phản ánh trọn vẹn tâm tư tình cảm của nhân dân. Đó là những
ước mơ và khát vọng đầy tính nhân văn về cuộc đời và số phận con người. Ra đời
trong bối cảnh thời đại như vậy, truyện Nôm được đánh giá là đứa con được cả hai
bà mẹ văn học dân gian và văn học viết ni dưỡng. Nghiên cứu truyện Nơm chính
là nghiên cứu một minh chứng tiêu biểu cho mối quan hệ giữa văn học dân gian và
văn học viết Việt Nam.
Cùng với truyện Nơm bác học, truyện Nơm bình dân làm giàu thêm di sản
văn hóa tinh thần của người Việt. Truyện Nơm bình dân được đánh giá là bộ phận
văn học quan trọng có mối quan hệ hữu cơ với văn học dân gian. Những tác phẩm
thuộc nhóm truyện này rất gần với truyện cổ dân gian, được đánh giá là chiếc cầu
nối cho sự phát triển, trưởng thành từ văn học dân gian đến văn học viết. Một mặt
5
kế thừa và phát huy những giá trị văn học dân gian trên nhiều phương diện, mặt
khác nhóm truyện này khẳng định vị trí khơng thể xóa bỏ trên tiến trình phát triển
của nền văn học viết dân tộc. Nghiên cứu nhóm truyện Nơm bình dân có nội dung
cốt truyện từ văn học dân gian, chỉ ra những đặc điểm về bản chất thể loại truyện
Nôm là việc chúng ta nên làm. Với dụng ý lựa chọn đối tượng nghiên cứu là các tác
phẩm truyện Nơm bình dân có nguồn gốc cốt truyện từ truyện cổ dân gian, chúng
tôi mong muốn đóng góp một tiếng nói vào vấn đề hiện nay vẫn cịn nhiều tranh
luận, đó là: Truyện Nơm bình dân có phải là văn học dân gian hay khơng? Hay nó
là chiếc cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết?
1.3. Các truyện cổ dân gian : Thạch Sanh, Tấm Cám, Sơn Tinh – Thủy Tinh,
Từ Thức, Dã sử quan trạng Gầu là những tác phẩm hết sức quen thuộc với bạn đọc.
Với kết cấu ngắn gọn, đơn giản, ngôn ngữ văn xuôi rành mạch, nội dung truyện
xoay quanh những vấn đề cơ bản của cuộc sống, các tác phẩm văn học dân gian dễ
nhớ, dễ thuộc. Đến thể loại truyện Nôm, kế thừa nội dung cốt truyện từ các tác
phẩm truyện cổ đã cho ra đời những tác phẩm mang hơi thở mới. Bảo lưu nội dung
cốt truyện cũ, vẫn là những cái tên quen thuộc: Thạch Sanh, Tấm Cám, Từ Thức hay
có biến đổi đơi chút các thành tố trong cách gọi tên như: chàng Chuối, Tống Trân –
Cúc Hoa… nhưng ý thức làm truyện của các tác giả văn học viết trong các tác phẩm
truyện Nơm đã hình thành, ở một số tác phẩm đã biểu hiện rõ nét. Trên hai phương
diện nội dung và nghệ thuật, nghệ sĩ trung đại thể hiện những vượt thoát quan trọng
từ thể loại truyện cổ của văn học dân gian sang truyện Nôm của văn học viết. Trên
cơ sở nghiên cứu năm tác phẩm thuộc nhóm truyện Nơm bình dân có nguồn gốc từ
truyện cổ, chúng tơi mong muốn làm rõ bản chất thể loại của nhóm truyện này,
đồng thời chỉ ra điểm giống và khác nhau cơ bản mang tính chất giao thời giữa văn
học dân gian và văn học viết. Đây là nhiệm vụ quan trọng góp phần tạo có sở khoa
học bền vững cho việc tìm hiểu những vấn đề của thể loại truyện Nơm mà hiện nay
cịn nhiều bỏ ngỏ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu truyện Nôm
Truyện Nôm là thể loại văn học lớn nhận được nhiều sự quan tâm của giới
nghiên cứu văn học. Để có cái nhìn khái quát về lịch sử nghiên cứu thể loại trước khi
6
tập trung vào lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và văn học
dân gian, chúng tôi sơ lược lịch sử nghiên cứu truyện Nôm, gồm ba giai đoạn sau:
Trước năm 1945, đánh giá truyện Nôm: “Truyện là tiểu thuyết bằng văn
vần”, Dương Quảng Hàm viết Việt Nam văn học sử yếu (1941). Đây là một chuyên
luận khảo cứu văn học, lịch sử nước Nam có giá trị lớn đã đánh giá truyện Nơm với
vai trị là một thể loại tự sự viết bằng thể thơ lục bát dân tộc.
Năm 1942, tiếp nối phương thức khảo cứu văn học và lịch sử của Dương Quảng
Hàm, Nguyễn Đổng Chi viết cơng trình Việt Nam cổ văn học sử. Tác giả đã khái quát
đặc điểm của nhiều thể loại văn học trong đó có thể loại truyện Nơm và đưa ra nhiều
nhận xét về thể loại văn học này. Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim – Vân – Kiều
(1943) đã so sánh hai tác phẩm Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều, chỉ ra sự sáng
tạo của tác giả Nguyễn Du và sự độc đáo của thể loại truyện Nôm.
Sau năm 1945 đến 1954, truyện Nôm đón nhận sự quan tâm chú ý của nhiều
tác giả, các chuyên luận chủ yếu tập trung vào các tác phẩm truyện Nôm cụ thể, tiêu
biểu là chuyên luận Nguyễn Du và Truyện Kiều (1951) của Nguyễn Khoa Bách;
Thử tìm ý nghĩa giá trị “Nhị Độ Mai” của Vân Tân. Truyện Kiều (Nguyễn Du) đỉnh cao của thể loại truyện Nôm vẫn là đối tượng tập trung sự quan tâm tìm hiểu
nhiều nhất của các tác giả.
Từ năm 1954 đến nay, truyện Nôm nhận được sự quan tâm nghiên cứu tồn
diện về mặt lí luận, với hàng loạt các bài viết về các tác phẩm cụ thể và những cơng
trình nghiên cứu chuyên sâu có chất lượng.
Viết về các tác phẩm cụ thể có: Khảo luận về “Truyện Thạch Sanh”, của Hoa
Bằng, tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa, số 16 – 1956; Xung quanh cuốn “Nhị độ
mai”, của Trương Chính, Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa, số 20 – 1956; “Phạm
Tải – Ngọc Hoa”, một truyện Nôm khuyết danh có giá trị của Lê Hồi Nam, Nghiên
cứu Văn học, số 8, 1960; Nguyễn Cảnh và “Truyện Phương Hoa”, của Ninh Viết
Giao, Nghiên cứu Văn học, số 11 – 1961; Một nghi án văn học chung quanh
“Truyện Phan Trần”, của Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, …
Viết về vấn đề chung có: Truyện Nơm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt
của văn học Việt Nam, Bùi Văn Nguyên, Nghiên cứu Văn học, số 7 – 1960; Nhân
vật phụ nữ qua một số truyện Nơm, Đặng Thanh Lê, Tạp chí Văn học, số 2+3- 1968;
7
Những vấn đề xã hội trong truyện Nơm bình dân, Nguyễn Lộc, Tạp chí Văn học, số
4 – 1969; Mối quan hệ giữa truyện Nôm và văn học dân gian, Vũ Tố Hảo, Tạp chí
Văn học, số 4 – 1980;…
Các cơng trình văn học sử có phần viết về truyện Nơm của Lê Hồi Nam và
Lê Trí Viễn trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập III (Hà Nội,1965), Truyện Kiều và
chủ nghĩa hiện thực (1977) của Lê Đình Kỵ. Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, tập II (Hà Nội, 1978), …Ngồi ra truyện
Nơm cịn được viết trong các sách, giáo trình văn học dân gian như: của Đinh Gia
Khánh trong Văn học dân gian, tập I (Hà Nội, 1972), của Cao Huy Đỉnh trong Tìm
hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam (Hà Nội, 1974), của Đỗ Bình Trị trong
Nghiên cứu tiến trình lịch sử của Văn học dân gian Việt Nam (Hà Nội, 1978)…
Càng về sau số lượng cơng trình nghiên cứu truyện Nơm ngày càng dày đặc, đặc
biệt trong khoảng 40 năm trở lại đây, nhiều tác giả dành nhiều công sức khảo cứu
và nghiên cứu tác phẩm truyện Nôm như:
Đặng Thanh Lê với chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979),
Kiều Thu Hoạch với hai chuyên luận Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại
(1992), Truyện Nơm bình dân của người Việt – Lịch sử hình thành và bản chất thể
loại (1996); Trần Đình Sử khẳng định bản chất thể loại của truyện Nơm qua hai
cơng trình Mấy vấn đề thi pháp văn học Việt Nam trung đại (1999) và Thi pháp
Truyện Kiều (2003); Đinh Thị Khang có nhiều bài nghiên cứu trên tạp chí văn học
như: Kết cấu truyện Nơm, Tạp chí văn học số 9, 2002; Quan niệm nghệ thuật về con
người trong truyện Nơm, Tạp chí văn học dân gian số 8, 2003; Nguyễn Thị Nhàn có
cách tiếp cận chuyên sâu về phương diện kết cấu cốt truyện trong cuốn Thi pháp cốt
truyện – Truyện thơ Nôm và Truyện Kiều (2009)…
Như vậy, qua quá trình sơ lược lịch sử nghiên cứu truyện Nơm có thể thấy
truyện Nơm được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên cứu từ trước năm 1945 đến
nay. Trong đó vấn đề bản chất thể loại, phân loại truyện Nôm, kết cấu cốt truyện….
là những vấn đề gây được sự quan tâm, chú ý nhiều nhất. Bản chất thể loại của
truyện Nôm đặc biệt là nhóm truyện Nơm bình dân vẫn là vấn đề hiện nay còn
nhiều tranh luận.
2.2. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và truyện
Nơm bình dân
8
Xoay quanh vấn đề bản chất thể loại nhóm truyện Nơm bình dân, mối quan
hệ giữa văn học dân gian và nhóm truyện này đến nay vẫn cịn làm day dứt nhiều
nhà nghiên cứu văn học. Sau quá trình tìm hiểu và khái quát tài liệu nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy những câu hỏi băn khoăn về vấn đề bản chất thể loại đến nay
vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng, rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm
của mình :
Bùi Văn Ngun trong bài Truyện Nơm khuyết danh, một hiện tượng đặc
biệt của văn học Việt Nam, tập san Nghiên cứu văn học, số 7 – 1960, sau khi khẳng
định truyện Nôm khuyết danh là một hiện tượng phổ biến trong văn học ở nước ta
cũng như nhiều nước lớn trên thế giới, tác giả nhận xét truyện Nơm khuyết danh
chiếm một vị trí quan trọng, là một loại hình đặc biệt của văn học Việt Nam. Nó
gồm những truyện bằng thơ ca, có tác dụng truyền miệng rất lớn. Bùi Văn Nguyên
cho rằng “nó gần với văn học dân gian, mà không phải là văn học dân gian”.
Lê Hoài Nam trong Lịch sử văn học Việt Nam (1965) khi trình bày “Một số
vấn đề chung của truyện Nơm khuyết danh” phát hiện ra tính tập thể, tính truyền
miệng trong q trình sáng tác và lưu truyền loại truyện này. Tác giả cho rằng chính
những tính chất đó “đã làm cho truyện Nơm gần các bộ phận khác của văn học
truyền miệng”. [47, 213] Tuy nhiên Lê Hồi Nam chưa có những khẳng định cụ thể
về bản chất thể loại của nhóm truyện Nơm bình dân.
Năm 1972, Đinh Gia Khánh trong cơng trình “Văn học dân gian” đánh giá:
“Truyện Nơm nói chung là thể loại bắc cầu giữa văn học dân gian và văn học bác
học. Có những truyện gọi là truyện Nơm bình dân gần với văn học dân gian hơn.
Có những truyện thì ở vào khoảng trung gian. Lại có nhiều truyện thì gần với văn
học bác học hơn hoặc hồn tồn có tính chất là tác phẩm văn học bác học. Nhưng
dầu là thuộc loại nào đi nữa thì truyện Nơm cũng khơng thể coi là thuộc văn học
dân gian được.”[27, 272].
Năm 1974, Cao Huy Đỉnh trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam, đã nêu đặc điểm của thể loại truyện Nơm. Ơng cho rằng truyện Nơm “về cơ
bản bảo lưu khn dạng của truyện cổ tích. Bao gồm lai lịch nhân vật, những thử
thách ngày càng khó khăn, những phấn đấu chống lại thế lực tàn ác của thiên nhiên
xã hội, thắng lợi tất yếu, kết thúc có hậu. Tuy nhiên truyện Nôm là một hiện tượng
9
khác với cổ tích do có xu hướng tiểu thuyết hoá dân gian” [13, 23]. Tác giả này
đánh giá truyện Nơm “là chiếc cầu nối giữa hai dịng dân gian và bác học trong
những thế kỉ cận đại.”
Cùng ý kiến với Cao Huy Đỉnh, Đỗ Bình Trị trong cơng trình Nghiên cứu tiến
trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam (1978) nêu quan điểm: “Truyện Nơm nói
chung là sản phẩm tự nhiên nhất của sự gặp gỡ, của sự giao thoa của hai xu thế lịch
sử, hai quá trình cơ bản trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam – q trình các
nhà thơ tìm tịi con đường dân tộc hóa hình thức văn học và q trình quần chúng
nhân dân khơng ngừng tạo ra thứ văn riêng của mình và khi làm việc này họ đã không
loại bỏ phương thức thu hút, chiếm lĩnh, cải tạo văn học viết.” [63, 123]
Nguyễn Lộc nhận định: “Có thể nói truyện Nơm bình dân là cái cầu nối liền
văn học dân gian với truyện Nôm bác học” [39, 283] và cho rằng những sáng tác
truyện Nôm trong“một chừng mực nào giống như cách sáng tác của truyện cổ
tích.” [39, 283]
Năm 1979, trong Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm Đặng Thanh Lê cũng
nêu quan điểm, coi truyện Nôm là thể loại tiểu thuyết cổ điển Việt Nam. “Truyện
Nôm thể hiện một loại truyện – tiểu thuyết quốc ngữ đối lập với quan niệm chính
thống của nho gia là văn sĩ tải đạo. [35, 12] Đặng Thanh Lê nghiêng hẳn về quan
điểm truyện Nôm thuộc văn học viết. Tuy nhiên tác giả mới chỉ xem xét truyện
Nơm nói chung chứ chưa nhận xét riêng về truyện Nơm bình dân.
Vũ Tố Hảo trong Tạp chí văn học số 4, (1980) có bài viết: Mối quan hệ của
truyện Nơm bình dân và văn học dân gian đã khẳng định một thực tế, hiện nay chưa
có một nhà nghiên cứu nào khẳng định dứt khốt truyện Nơm bình dân là văn học
dân gian. Vũ Tố Hảo đã tiến hành so sánh các bình diện như : Tính truyền miệng,
tính tập thể, tính dị bản, tính diễn xướng, nhận thấy rằng truyện Nơm bình dân
mang đầy đủ tính chất văn học dân gian. Vũ Tố Hảo có xu hướng đưa nó về với địa
hạt của văn học dân gian.
Cùng quan điểm với Vũ Tố Hảo, trong cơng trình Truyện Nơm - lịch sử hình
thành và bản chất thể loại (1993), Kiều Thu Hoạch cũng nhận thấy ở truyện Nơm
bình dân bản chất của sáng tác dân gian và đặt lại vấn đề: “Truyện Nơm bình dân
có đầy đủ phẩm chất của văn học dân gian như tính tập thể, tính truyện miệng mà
10
truyện Nơm bình dân chưa phải là văn học dân gian?” [19, 51] Kiều Thu Hoạch
cho rằng: “Truyện Nơm bình dân về căn bản vẫn là sáng tác Folklo chứ không phải
là sáng tác văn học theo những qui phạm điển nhã. Truyện Nơm bình dân dẫu có
sáng tạo cũng khơng nằm ngồi mấy biện pháp cải biên, chỉnh lí, hoặc lắp ghép
các tình tiết, các mơtip sẵn có trong kho tàng truyện cổ dân gian”.[19,195]
Trần Đình Sử trong cơng trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt
Nam (1999) đánh giá: “Thời trung đại là thời các quốc gia phương Đông như Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên hình thành tồn bộ di sản văn hóa thành văn của
mình”… Văn học dân gian là nền tảng hình thành các thể loại tự sự lớn ở Trung
Quốc, là cơ sở hình thành các tập văn xi chữ Hán trong văn học Việt Nam, các
truyện Nôm và thơ ca của các tác giả” [56, 394]… Tác giả cho rằng truyện Nơm là
một hiện tượng khác với cổ tích do có xu hướng tiểu thuyết hóa truyện kể dân gian
chứ khơng phải“thực chất chỉ là truyện cổ tích diễn lại bằng thơ 6 – 8 mà thôi”.
“các môtip dân gian, yếu tố thần kì, kết thúc có hậu, kết thúc trùng điệp, cả những
diễn đạt trong phong cách lời văn cũng có thể chỉ là phong cách dân gian của sáng
tác hoặc phong cách tư duy của một thời đại. Các dị bản khác nhau của một tác
phẩm cũng chưa đủ để chứng minh rằng cội nguồn và bản chất dân gian của văn
bản ấy, bởi qui luật sáng tác của văn học viết trung đại là cho phép người sao chép
tự do thêm bớt, sửa chữa, rút ngắn một tác phẩm đã có, làm cho người sao chép trở
thành đồng tác giả của tác phẩm và dĩ nhiên tác phẩm có nhiều dị bản.” [56, 396]
Đinh Thị Khang, Nguyễn Thị Nhàn là hai tác giả có cùng quan điểm với Trần
Đình Sử và nghiên cứu sâu vào vấn đề kết cấu cốt truyện.
Đinh Thị Khang nhận định kết cấu cốt truyện của truyện Nơm về cơ bản vẫn
có ba phần Gặp gỡ - Tai biến – Đoàn tụ, ở một số truyện Nơm có thêm phần giới
thiệu nhân vật. Truyện Nơm nói giống kết cấu truyện cổ tích có chăng là ở phần đầu
giới thiệu lai lịch, song lời giới thiệu lai lịch nhân vật đâu chỉ có ở truyện cổ tích.
Có thể bắt gặp những đoạn lời đó trong hàng loạt các tác phẩm khác trong văn học
trung đại (Lĩnh nam chích qi, Nam ơng Mộng lục, Thánh Tơng di thảo, Truyền kì
mạn lục, Truyền kì tân phả…). Bao gồm cả những tác phẩm ghi chép dân gian và
các tác phẩm mang tính chất sáng tác.
11
Nguyễn Thị Nhàn trong Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và truyện Kiều
(2009) mặc dù chú trọng chương II, III phân loại kết cấu truyện Nôm, nhưng qua
chương I: “Tổng quan về truyện thơ Nôm” Nguyễn Thị Nhàn cũng chỉ rõ cơ sở
phân loại truyện Nôm: “Đề tài và nguồn gốc cốt truyện truyện Nôm cũng khá
phong phú, chúng khai thác từ các nguồn khác nhau: từ nguồn văn học dân gian, từ
tiên thoại, phật thoại, từ văn học chữ Hán của Việt Nam, từ văn học Trung Hoa, từ
hiện thực cuộc sống.”.[50, 51]
* Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu:
Về mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và văn học dân gian các nhà
nghiên cứu chia thành ba quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, các tác giả có xu hướng muốn đưa truyện Nơm bình dân
về địa hạt của văn học dân gian, tiêu biểu là ý kiến của Vũ Tố Hảo, Kiều Thu Hoạch…
Một quan điểm khác cho rằng truyện Nôm là một thể loại của văn học viết,
tiêu biểu là ý kiến của Đặng Thanh Lê, Bùi Văn nguyên, Trần Đình Sử, Đinh Thị
Khang, Nguyễn Thị Nhàn…
Quan điểm thứ ba là quan điểm trung gian, các tác giả cho rằng truyện Nôm
là chiếc cầu nối giữa văn học dân gian và văn học bác học tiêu biểu là ý kiến của Lê
Hoài Nam, Cao Huy Đỉnh, Đỗ Bình Trị, Nguyễn Lộc, Đinh Gia Khánh…
Dù ý kiến của các tác giả chưa hoàn toàn thống nhất song về căn bản đều gặp
nhau ở việc khẳng định các phương diện như: đề tài, chủ đề, cốt truyện của dân
gian, yếu tố thần kì, các mơtip, tích cũ, ngôn ngữ, thể loại…sử dụng nhiều trong
truyện Nôm. Với một dung lượng mới, các tác giả truyện Nôm sáng tạo lời đối thoại
dài cho nhân vật, các yếu tố phi cốt truyện, phong phú về nội dung và hiện thực
phản ánh…. Truyện Nơm nói chung và nhóm truyện Nơm bình dân nói riêng đã
chứng tỏ được vai trị, vị trí của một thể loại văn học mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn bao gồm các truyện Nôm:
+ Chàng Chuối truyện, Tam hữu tư thư cục – Hà Nội xuất bản.
+ Tấm Cám, Nhà in Vĩnh Thịnh, Hà Nội xuất bản.
+ Khảo luận truyện Thạch Sanh, Hoa Bằng (1957), Nxb Văn – Sử - Địa, Hà Nội.
12
+ Từ Thức (1963), Nxb Văn học Hà Nội.
+ Tống Trân – Cúc Hoa, Quảng Thịnh Đường (1919), Viện sử học.
Chúng tôi sử dụng đồng thời một số bản dịch khác làm tài liệu tham khảo và
cuốn Kho tàng truyện Nôm khuyết danh (tập 1, 2) Bùi Văn Vượng và nhiều người khác
sưu tầm, tuyển chọn và khảo thích, Nxb Văn học Hà Nội để phân tích và đối chiếu.
Chúng tôi lựa chọn đối tượng nghiên cứu dựa trên các tiêu chí sau:
Thứ nhất, năm tác phẩm đều thuộc nhóm truyện Nơm bình dân.
Thứ hai, năm tác phẩm đều có nguồn gốc cốt truyện từ truyện cổ dân gian.
Thứ ba, chúng tơi ưu tiên các tác phẩm có nguồn gốc cốt truyện từ văn học
dân gian được sử dụng giảng dạy trong nhà trường như : Thạch Sanh có nguồn gốc
từ truyện cổ tích Thạch Sanh, chàng Chuối phát triển từ truyền thuyết Sơn Tinh –
Thủy Tinh trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6; Tấm cám có nguồn gốc từ truyện
cổ tích cùng tên trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Với ba tiêu chí cụ thể như
trên, chúng tơi lựa chọn ra những tác phẩm thuộc nhóm truyện gây nhiều tranh luận
nhất, gần nhất với văn học dân gian để làm đối tượng nghiên cứu đề tài: Đặc điểm
nhóm truyện Nơm bình dân qua một số tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu 5 tác phẩm: Chàng Chuối, Thạch Sanh,
Tấm Cám, Từ Thức, Tống Trân – Cúc Hoa, luận văn nghiên cứu dấu ấn dân gian và
đặc điểm văn học của nhóm truyện Nơm bình dân trên hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Chúng tôi chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thể loại trên bình diện kế
thừa dân gian và khả năng phát triển của một thể loại văn học mới. Ngồi đối tượng
là các văn bản truyện Nơm cụ thể, chúng tơi cịn sử dụng các tác phẩm truyện cổ
dân gian là văn bản đối chiếu, so sánh, phục vụ cho việc nghiên cứu liên văn bản.
Tìm hiểu và nghiên cứu bản chất thể loại nhóm truyện Nơm bình dân, chúng
tơi mong muốn giúp người đọc có cái nhìn khái quát về diện mạo, quá trình hình
thành và phát triển . Luận văn sẽ khái quát thành các đơn vị tri thức phục vụ cho
quá trình học tập, nghiên cứu nhóm truyện Nơm bình dân nói riêng và thể loại
truyện Nơm nói chung.
4. Mục đích nghiên cứu
13
Kế thừa kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả và kết quả thu được từ việc
thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp “Dấu ấn dân gian trong truyện thơ Nôm chàng
Chuối (2013), chúng tôi mạnh dạn thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ : “Đặc điểm
truyện Nôm bình dân qua một số các tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian”
với mong muốn:
Luận văn tiếp tục góp phần làm rõ bản chất thể loại của nhóm truyện Nơm
bình dân – phân tích được mối quan hệ giữa văn học dân gian và truyện Nơm bình
dân, vấn đề mà hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện thành công luận văn, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở lựa chọn năm truyện
Nơm bình dân, chúng tơi tiến hành phân tích các tác phẩm trên hai phượng diện nội
dung và nghệ thuật, làm rõ bản chất thể loại của nhóm truyện Nơm bình dân. Sau
khi phân tích, chúng tơi tiến hành tống hợp kết quả để đánh giá và nhận xét cụ thể
trên từng phương diện.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp
vào việc khảo sát, lập bảng thống kê các nội dung sau: Bảng thành ngữ, bảng điển
tích, điển cố, bảng thống kê từ Hán việt, từ cổ và bảng Motip… Những bảng thống
kê giúp chúng tôi đánh giá từ cụ thể đến khái quát những đặc điểm của nhóm truyện
Nơm bình dân, phân loại tác phẩm theo nội dung và trình độ nghệ thuật một cách
khoa học.
5.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu: Chúng tơi so sánh, đối chiếu các tác
phẩm truyện Nơm bình dân với các tác phẩm truyện cổ dân gian để tìm ra nét tương
đồng trong sự kế thừa và đổi mới trong quá trình phát triển của thể loại văn học
sáng tác, lưu trữ bằng chữ viết.
5.4. Phương pháp loại hình: Áp dụng những kiến thức lí luận về đặc trưng
thể loại, về nội dung đề tài, chủ đề các phương diện cốt truyện, nhân vật, ngôn
ngữ…Chúng tôi chỉ ra dấu ấn văn học dân gian và những đặc điểm mới của văn học
thành văn trong các tác phẩm truyện Nơm bình dân.
5.5. Phương pháp liên văn bản: Sử dụng văn bản truyện cổ thuộc văn học
dân gian là đối tượng đối chiếu so sánh trong q trình phân tích các tác phẩm
14
truyện Nôm. Đồng thời sử dụng những tri thức khoa học về nghiên cứu văn học dân
gian phục vụ quá trình phân tích, tìm hiểu thể loại truyện Nơm.
6. Đóng góp của luận văn
Tiếp thu thành quả nghiên cứu của người đi trước, phát triển theo hướng
nghiên cứu tác phẩm cụ thể, kết hợp kết quả nghiên cứu thu được từ khóa luận tốt
nghiệp, chúng tơi mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm rõ bản chất thể loại của
nhóm truyện Nơm bình dân. Luận văn hồn thiện sẽ có những đóng góp cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ dấu ấn dân gian trong sáng tác thuộc nhóm truyện Nơm
bình dân qua năm tác phẩm cụ thể: Chàng Chuối, Thạch Sanh, Tấm Cám, Từ Thức,
Tống Trân – Cúc Hoa trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Thứ hai, chỉ ra đặc điểm văn học viết của nhóm truyện Nơm bình dân trên
hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Qua q trình tìm hiểu, phân tích, đánh giá tác phẩm luận văn chỉ ra những
đặc điểm kế thừa văn học dân gian và những đặc điểm văn học viết của nhóm
truyện Nơm bình dân. Từ đó, luận văn góp phần làm rõ bản chất thể loại của truyện
Nơm bình dân. Chúng tôi hi vọng, luận văn sẽ là một tài liệu có ích, bổ sung tư liệu
cho việc tìm hiểu và nghiên cứu thể loại truyện Nôm, bản chất thể loại của nhóm
truyện Nơm bình dân.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn gồm 3
phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
Phần nội dung triển khai thành ba chương:
Chương 1: Khái quát mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và văn học dân gian
Chương 2: Truyện Nơm bình dân in đậm dấu ấn của văn học dân gian
Chương 3: Truyện Nơm bình dân mang đặc điểm văn học viết
15
CHƯƠNG 1: KHÁI QT MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỆN NƠM
BÌNH DÂN VÀ VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1. Khái quát về thể loại truyện Nôm
1.1.1. Khái niệm truyện Nôm
Thuật ngữ truyện Nôm lâu nay được giới nghiên cứu đưa ra khá nhiều cách
định danh. Ngồi tên gọi ngắn gọn là truyện Nơm cịn có cách gọi khác như: Truyện
thơ Nơm, Truyện thơ, Truyện dài….tuy có khác nhau về số lượng thành tố trong tên gọi
song các nhà nghiên cứu đều giữ lại truyện là thành tố chung. Nghĩa là các tác giả nhấn
mạnh vào phương thức tự sự. Dưới hình thức thơ ca, truyện Nôm được hiểu là tất cả
những sáng tác tự sự trong văn học trung đại được viết chủ yếu bằng chữ Nơm.
Truyện Nơm là loại hình tác phẩm tự sự, phản ánh cuộc sống xã hội thông
qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hồn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật
bằng một cốt truyện với hệ thống biến cố, sự kiện.[47, 112]
Truyện Nôm là thể loại đặc biệt của văn học trung đại, được tạo nên nhờ sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn học nói và văn học viết, giữa chất dân gian và chất
bác học. Trải qua nhiều thế kỉ, đến nay truyện Nôm vẫn khơng ngừng khẳng định
được vị thế của mình trên dịng chảy văn học trung đại nói riêng và bản đồ văn học
dân tộc Việt Nam nói chung. Truyện Nơm trở thành đối tượng khảo sát, tìm hiểu
của hàng trăm cơng trình nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu quan tâm và đánh giá
truyện Nôm là hiện tượng văn học khá phức tạp từ quá trình hình thành, phát triển
đến phương thức lưu hành và đặc biệt là vấn đề bản chất thể loại.
1.1.2. Vấn đề phân loại truyện Nôm
Hiện nay, phân loại truyện Nơm dựa trên nhiều tiêu chí, căn cứ vào thực tế
nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy có hai cách phân loại cơ bản sau :
Thứ nhất, dựa vào tiêu chí có tên hoặc khơng có tên tác giả ghi trên văn bản,
truyện Nôm chia thành hai loại: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh
(truyện Nôm vô danh). Thuật ngữ này được sử dụng nhiều trong những năm của thập
niên 60, chủ yếu ở giai đoạn nghiên cứu ban đầu, tiêu biểu cho cách phân loại này là: Bùi
Văn Ngun, Lê Hồi Nam….Cách phân loại này có ưu điểm phân chia truyện Nơm
thành hai nhóm truyện phù hợp với đặc điểm tồn tại của văn bản trong thực tiễn. Tuy
nhiên, nó có hạn chế nhất định. Cách phân chia khuyết danh và hữu danh nghiêng về
16
hình thức thuần túy mang tính võ đốn, thiếu chính xác, ý nghĩa khoa học chưa thực sự
rõ ràng. Nhiều tác phẩm từng được coi là khuyết danh như: Quan Âm Thị Kính, Phương
Hoa…đã tìm được tác giả sau một thời gian hoặc có khả năng dự đốn về tác giả.
Thứ hai, căn cứ vào số lượng tác phẩm đã được phiên âm giới thiệu và trình
độ nội dung, nghệ thuật trong từng tác phẩm, các tác giả có khuynh hướng phân loại
truyện Nơm thành hai nhóm: truyện Nơm bình dân và truyện Nơm bác học. Một
nhóm có tính chất quần chúng nhiều hơn, một nhóm lại gần với văn học bác học
hơn. Các tác giả đồng tình với cách phân loại này gồm: Dương Quảng Hàm,
Nguyễn Lộc, Trần Đình Sử, Cao Huy Đỉnh, Kiều Thu Hoạch…Ngồi ra cịn có
cách phân loại cụ thể hơn, lấy tiêu chí là nguồn gốc đề tài chia thành các nhóm
truyện có nguồn gốc: Từ nguồn văn học dân gian; từ tiên thoại, phật thoại; từ văn
học chữ Hán của Việt Nam; từ văn học Trung Hoa; từ hiện thực cuộc sống.
Như vậy, vấn đề phân loại truyện Nơm hiện nay vẫn chưa có một kết luận
cuối cùng. Việc phân chia thành truyện Nôm khuyết danh, truyện Nơm hữu danh
hay truyện Nơm bình dân và truyện Nơm bác học cũng chỉ mang tính chất tương
đối. Cả hai cách phân loại đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, do vậy không
nên tuyệt đối hóa một cách phân loại nào.
1.2. Truyện Nơm bình dân
1.2.1. Tìm hiểu khái niệm
Đỗ Đức Hiểu trong Lược thảo văn học sử Việt Nam (1957), Bùi văn Nguyên
trong “Truyện Nôm khuyết danh một hiện tượng đặc biệt” (Số 7,1960) chủ yếu sử
dụng thuật ngữ truyện Nôm khuyết danh và hữu danh để phân biệt hai nhóm truyện
Nơm. Tuy nhiên, sau đó Lê Hồi Nam đã sử dụng tiêu chí “tính quần chúng” để
phân biệt thành hai nhóm “truyện có tính chất quần chúng nhiều” và “truyện có tính
chất quần chúng ít”.
Thuật ngữ truyện Nơm bình dân được sử dụng sớm nhất có lẽ từ Dương Quảng
Hàm, trong sách Việt Nam văn học sử yếu (1941). Ông đã đưa ra đánh giá coi truyện
Nôm là tiểu thuyết viết bằng văn vần. Các truyện Nôm của ta viết theo hai thể: 1. Lục
bát, 2. Biến thể lục bát. Ông cho rằng thể lục bát biến thể thường được dùng để viết các
truyện có tính chất bình dân như Quan Thế Âm, Phạm Cơng – Cúc Hoa, Lý
cơng…..Tuy nhiên tác giả chưa có những kiến giải cặn kẽ cho thuật ngữ này.
17
Trong giáo trình “Văn học dân gian” (1972), Đinh Gia Khánh viết: “Truyện
Nơm nói chung là loại tác phẩm bắc cầu giữa văn học dân gian và văn học bác
học. Có những truyện gọi là truyện Nơm bình dân thì gần gũi với văn học dân gian
hơn. Có những truyện thì vào khoảng trung gian. [29, 272].
Nguyễn Lộc trong cơng trình “Văn học Việt nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa
đầu thế kỉ XIX” (1978) đã sử dụng thuật ngữ truyện Nơm bình dân như một thuật
ngữ khoa học chính thống. Ơng viết: “Thực tế kho tàng truyện Nơm của ta tồn tại
song song hai loại truyện cần được nghiên cứu như hai chủng loại của một thể
thống nhất. Một loại là truyện Nôm kiểu Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc
Hoa, Phương Hoa, Lý Cơng, Hồng Trừu…Một loại là những truyện Nôm kiểu
Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ Kính Tân Trang, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Truyện Tây
Sương…loại trước có thể gọi là truyện Nơm bình dân, loại dưới có thể gọi là truyện
Nơm bác học.”
Truyện Nơm bình dân là những truyện hầu hết khuyết danh và thường viết
dựa theo truyện cổ dân gian, viết bằng thơ lục bát. Tác giả của nó là những tri thức
bình dân, tư tưởng gần gũi với nhân dân.”[14, 372]
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của truyện Nơm bình dân
1.2.2.1. Đặc điểm nội dung
Truyện Nơm bình dân có nội dung phong phú, đa dạng xoay quanh số phận
con người trong cuộc sống.
Chủ đề tình u, hơn nhân và quyền sống hạnh phúc của con người chiếm tỉ
lệ cao trong truyện Nơm bình dân. Khát vọng hạnh phúc lứa đôi và sự thắng lợi của
tình u tự do vượt ra khỏi khn khổ đạo đức chính thống. Khát vọng cơng lí
mạnh mẽ thúc đẩy quá trình đấu tranh bảo vệ hạnh phúc, bảo vệ phẩm chất, giá trị
con người…Truyện Nơm bình dân quan tâm lí giải số phận nhân vật. Những chàng
trai, cơ gái tự do gặp gỡ, trải qua nhiều trở ngại, luôn được các lực lượng trung gian
giúp đỡ, cuối cùng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Truyện Nơm bình dân thể
hiện ước mơ về quyền sống của con người, đó là giá trị nhân văn cao cả mà thể loại
tự sự bằng thơ đem lại.
Hiện thực xã hội trong truyện Nôm phức tạp hơn so với các thể loại văn học
dân gian. Con người truyện Nôm đứng trước nhiều vấn đề xã hội liên quan trực tiếp
đến quyền sống. Đặc biệt giai đoạn thế kỉ XVIII- nửa đấu thế kỉ XIX, khi phong
18
trào đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, tư
tưởng nhân văn phát triển đã tác động trực tiếp đến quan điểm thẩm mĩ của những
tác giả truyện Nôm. Điều này đã đem đến một nét mới trong khuynh hướng nhận
thức về vấn đề con người, xã hội và cuộc sống. Nhân vật trong truyện Nơm có khát
vọng được giải phóng mạnh mẽ. Ảnh hưởng quan niệm truyền thống của nhân dân,
độc giả truyện Nơm bình dân ln đón nhận từ thể loại này một kết thúc có hậu.
Trên hành trình đi tìm lời giải về mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và
văn học dân gian, các tác phẩm trở nên “quen” mà “ lạ”. “Quen” bởi ta đã từng gặp
nó trong thể loại truyện cổ dân gian, “lạ” bởi khả năng sáng tạo đem đến một sức
sống mới, một hơi thở mới cho thể loại. Truyện Nơm bình dân in đậm dấu ấn của
dân gian là điều không thể phủ nhận, giống như người con giống cha mẹ sinh thành
ra mình, đồng thời nó thể hiện những đặc điểm mới của văn học viết, nét tiến bộ
tích cực của thể loại tự sự bằng thơ.
1.2.2.2. Đặc điểm nghệ thuật
Truyện Nơm bình dân mang những đặc điểm nghệ thuật chung của thể loại
truyện Nơm:
Về kết cấu, truyện Nơm bình dân về cơ bản xây dựng theo mơ hình ổn định
của kết cấu cốt truyện truyền thống, bao gồm ba sự kiện cơ bản: Gặp gỡ- Tai biếnĐoàn tụ. Tùy thuộc vào từng tác phẩm mà kết cấu này có những biến đổi linh hoạt.
Truyện Nơm bình dân tập trung chủ yếu vào sự kiện tai biến, đó là sự kiện chính
của nhóm truyện này.
Nhân vật trong truyện Nơm bình dân là kiểu nhân vật loại hình. Hệ thống
nhân vật khá phong phú bao gồm: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật
trung gian. Nhân vật trong truyện Nôm bình dân là nhân vật được xây dựng theo
khn mẫu định sẵn. Nhân vật chú trọng miêu tả hành động, bộc lộ, hồn thiện tính
cách qua ngơn ngữ và ở một số tác phẩm bắt đầu chú ý miêu tả thế giới nội tâm
nhân vật.
Về ngôn ngữ, sự ra đời của truyện Nơm gắn liền với hình thức diễn Nơm,
diễn ca. Thể thơ lục bát được lựa chọn là phương tiện diễn đạt chính. Truyện Nơm
bình dân góp phần bổ sung và hoàn thiện chức năng của thể thơ lục bát, ngơn ngữ
phong phú có sự kết hợp giữa phong cách bình dân và phong cách bác học.
19
Truyện Nơm bình dân gần gũi với quần chúng nhân dân, là hiện tượng văn
học đặc biệt có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân nhiều thế kỉ.Vì
vậy, nhóm truyện này đến nay vẫn ln là đối tượng hấp dẫn của nhiều cơng trình
nghiên cứu.
1.3. Giới thiệu một số quan niệm về mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và
văn học dân gian
Truyện Nơm bình dân và văn học dân gian có mối quan hệ gắn bó, mật thiết.
Văn học dân gian cung cấp cho truyện Nơm bình dân nguồn đề tài, chủ đề phong
phú, cung cấp phương tiện, cách thức diễn đạt. Văn học dân gian có ảnh hưởng lớn
tới sự hình thành và phát triển của thể loại truyện Nôm. Kế thừa và phát huy những
thế mạnh của văn học dân gian, truyện Nơm bình dân ngày càng hồn chỉnh nội
dung và nghệ thuật. Truyện Nơm bình dân in đậm dấu ấn dân gian, có thể lí giải đặc
điểm này với những lí do sau:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và văn học dân gian nằm
trong mối quan hệ tổng thể giữa văn học dân gian và nhiều thể loại văn học viết của
nền văn học trung đại. Ngoài thể loại truyện Nôm các thể loại văn học như: Thơ
Nơm Đường luật, Truyện truyền kì, Hát nói… cũng tiếp nhận ảnh hưởng của văn
hóa, văn học dân gian. Đây là mối quan hệ mang tính qui luật của văn học dân tộc.
Thứ hai, mối quan hệ giữa truyện Nôm bình dân và văn học dân gian khẳng
định sự vận động tích cực, liên tục khơng đứt đoạn của các thể loại trong văn học trung
đại. Truyện Nơm nói chung và truyện Nơm bình dân nói riêng đánh dấu bước chuyển
mình quan trọng từ văn học dân gian truyền miệng sang nền văn học thành văn sáng
tác và lưu giữ bằng chữ viết. Truyện Nôm là gạch nối giữa văn học dân gian và văn
học viết. Đánh giá đúng vai trị, vị trí và bản chất thể loại của truyện Nôm tạo điều kiện
cho chúng ta nghiên cứu các tác phẩm theo định hướng khách quan, khoa học.
Khi tiến hành nghiên cứu tác phẩm truyện Nơm bình dân cụ thể cần đặt nó
trong mối tương quan với các thể loại văn học dân gian, đặc trưng của văn hóa dân
gian. Cách soi chiếu này tạo ra hiệu quả nghiên cứu khách quan về. Sự kế thừa và phát
triển của thể loại truyện Nôm đánh dấu sự khác biệt về bản chất giữa sáng tác văn học
đơn thuần để kể, để ngâm và văn học sáng tác còn để đọc, lưu hành bằng văn bản.
20
Bàn về mối quan hệ giữa văn học dân gian và truyện Nơm bình dân, chúng
tơi nhận thấy hiện nay có ba quan điểm chính. Trong đó, có hai quan điểm mang
tính tranh luận, cịn một quan điểm cịn lại mang tính chất trung gian, coi truyện
Nơm là chiếc cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết.
Quan điểm thứ nhất, các tác giả cho rằng truyện Nôm bình dân mang đầy đủ
những đặc điểm của văn chương truyền miệng, là con đẻ của nhân dân lao động nên
trả nó về với địa hạt của văn học dân gian. Tiểu biểu cho quan điểm này là: Kiều
Thu Hoạch, Vũ Tố Hảo…
Quan điểm thứ hai, các tác giả cho rằng cho rằng truyện Nơm bình dân là
một thể loại văn học viết, mang dấu ấn văn học dân gian do nó có nguồn gốc xuất
thân từ văn học dân gian. Tiêu biểu cho quan điểm này là: Đặng Thanh Lê, Bùi Văn
Nguyên, Trần Đình Sử, Đinh Thị khang, Nguyễn Thị Nhàn…..
Đánh giá khái quát, chúng ta nhận thấy hai quan điểm này khác nhau, tuy
nhiên nó lại xuất phát trên cơ sở những đặc điểm chung về mặt thể loại. Truyện
Nơm nói chung và truyện Nơm bình dân nói nói riêng có nguồn gốc đề tài, chủ đề
đa dạng, phong phú. Một trong những nguồn gốc quan trọng của thể loại này chính
là lấy đề tài, chủ đề từ văn học dân gian. Do vậy, truyện Nơm bình dân in đậm dấu
ấn của văn học dân gian là điều tất yếu. Tùy thuộc nội dung từng tác phẩm và khả
năng sáng tạo của tác giả mà đặc điểm văn học viết và dấu ấn dân gian ở mỗi tác
phẩm có mức độ đậm nhạt khác nhau.
Trong phạm vi một luận văn, chúng tơi khơng có tham vọng kiến giải hết tất
cả những quan điểm về mối quan hệ giữa truyện Nơm bình dân và văn học dân
gian, mà chỉ phân tích và kiến giải hai quan điểm tiêu biểu:
Quan điểm thứ nhất, coi truyện Nơm bình dân là văn học dân gian của Kiều
Thu Hoạch. Kiều Thu Hoạch cho rằng truyện Nơm chủ yếu được tìm hiểu trong các
cơng trình văn học sử. Khuynh hướng chung chủ yếu của người viết văn học sử coi
truyện Nôm là những tác phẩm văn học viết, đặt nó vào trong giai đoạn lịch sử nhất
định để xem xét, đánh giá cùng với tác giả, tác phẩm thời kì đó. Kiều Thu Hoạch cho
rằng, cách làm này là bỏ tất cả truyện Nôm vào trong cùng “một rọ”, việc chỉ xem
truyện Nôm như một đối tượng nghiên cứu văn học mà không coi nó là đối tượng của
Folkore học cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến những nhận định và những
luận điểm có phần thiếu khách quan, khơng đúng với bản chất thể loại.
21
Kiều Thu Hoạch cho biết “Tình trạng đó tất yếu dẫn đến hệ quả lưỡng phân
khá phức tạp, đó là chưa một tác giả nào thừa nhận truyện Nôm là sáng tác văn học
dân gian, song cũng chưa tác giả nào phủ nhận những đặc điểm văn học dân gian của
truyện Nôm”. Kiều Thu Hoạch nhận định, văn học dân gian gồm hai bộ phận lớn:
“Văn học dân gian truyền miệng không ghi chép và bộ phận văn học dân gian được
ghi chép lại thành văn bản. Truyện Nôm thuộc bộ phận thứ hai”. Truyện Nôm sáng tác
để kể chứ không phải để viết. Tác giả đã đưa truyện Nôm bình dân sang hẳn địa hạt
của văn học dân gian, là đối tượng của Flklore học trong suốt quá trình nghiên cứu.
Quan điểm thứ hai khác với quan điểm của Kiều Thu Hoạch, Trần Đình Sử
trong cơng trình “Thi pháp văn học trung đại” khẳng định truyện thơ Nôm là một
thể loại văn học viết. Ông cho rằng so với truyện dân gian cần thấy rõ cái khác, cái
mới của truyện Nơm chứ khơng nên chỉ nhìn thấy cái giống. Theo Trần Đình Sử
việc chuyển truyện Nơm bình dân sang hẳn địa hạt của văn học dân gian như quan
điểm của Kiều Thu Hoạch còn là “vấn đề phải xem xét”. Truyện Nôm là sản phẩm
sáng tạo kết hợp cốt truyện có sẵn và khả năng tự sự của thơ lục bát. Nó sáng tác để
kể nhưng cũng để xem. Có nhu cầu xem mới có nhu cầu khắc bán. Ý thức văn học
viết thể hiện rõ qua từ ngữ trong tác phẩm. Hơn nữa truyện thơ là một thể loại văn
học mới, không đơn giản chỉ là đem truyện cổ tích kể lại bằng thơ lục bát mà là
sáng tác thành một dung lượng mới. Theo Trần Đình Sử: “Một số ý kiến cho rằng
truyện Nôm về cơ bản vẫn bảo lưu khn dạng truyện cổ tích thậm chí một truyện
Nơm là một truyện cổ tích khơng hơn khơng kém chỉ diễn đạt lại bằng thơ 6-8 mà
thôi. Phần “bảo lưu” là có thật vì đó là cơ sở dân gian của truyện Nơm. Nhưng như
vậy thì tại sao khơng kể truyện cổ tích bằng miệng mà phải diễn đạt lại thành 6-8?
Nếu sáng tác truyện Nôm để kể là chính, lấy kể làm tiêu chí xác định thể loại và
tính chất dân gian thì tại sao từ kể miệng lại có nhu cầu kể viết bằng văn vần dài
hơi, một lối kể rắc rối, phức tạp, dễ dàng bộc lộ chỗ yếu kém, vụng về trong hành
văn mà hẳn người bình dân cũng thấy là vụng? Vấn đề là hình thức “viết” phải
đem lại cái gì mới cho cảm nhận và thưởng thức.” [56,395].Về bản chất Trần Đình
Sử cho rằng truyện Nôm là một thể loại văn học viết trung đại. “Các motip truyện
dân gian, yếu tố thần kì, kết thúc có hậu, kết cấu trùng điệp và cả cơng thức diễn
đạt trong lời văn cũng có thể chỉ là phong cách dân gian của sáng tác hoặc phong
cách tư duy của một thời đại. Các dị bản khác nhau của cùng một tác phẩm cũng
22
chưa đủ để chứng minh rằng cội nguồn và bản chất dân gian của văn bản ấy, bởi
qui luật sáng tác của văn học viết thời trung đại là cho phép người chép tự do thêm
bớt, sửa chữa rút ngắn, kéo dài một tác phẩm đã có, làm cho người sao chép trở
thành đồng tác giả của tác phẩm và dĩ nhiên tác phẩm có nhiều dị bản.[56, 396]
Như vậy, với hai góc nhìn Kiều Thu Hoạch, Trần Đình Sử đã đưa ra hai quan
điểm khác nhau. Đây là hai tác giả tiêu biểu có quan điểm rõ ràng về bản chất thể
loại của truyện Nơm cịn một số các nhà nghiên cứu khác có nhận định mang tính
lưỡng phân, coi truyện Nơm bình dân là chiếc cầu nối giữa văn học dân gian và văn
học viết. Cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề này hiện nay chưa đến hồi kết.
Khơng phủ nhận quan điểm nào, chúng tơi có quan điểm truyện Nơm nói
chung và truyện Nơm bình dân nói riêng là thể loại văn học viết, nó có tính chất bắc
cầu giữa văn học dân gian và văn học thành văn. Khả năng kế thừa các thành tựu
của văn học dân gian vào trong sáng tác truyện Nôm đã chi phối tính chất giao thoa,
cầu nối của thể loại. Đặc biệt, trong hai nhóm truyện Nơm bình dân và truyện Nơm
bác học thì truyện Nơm bình dân gần hơn với quần chúng nhân dân.
Nhằm làm rõ bản chất thể loại của truyện Nơm bình dân, đóng góp một tiếng nói
quan trọng vào vấn đề đang cịn nhiều tranh luận trên, chúng tơi nghiên cứu bản chất thể
loại nhóm truyện Nơm bình dân qua năm tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian
gồm: chàng Chuối, Thạch Sanh, Tấm Cám, Từ Thức, Tống Trân – Cúc Hoa. Phân tích
và kiến giải thông qua tác phẩm cụ thể, trong phạm vi của một luận văn, chúng tôi đánh
giá bản chất thể loại trên cả hai góc nhìn từ văn học dân gian và từ tư cách của một thể
loại văn học mới, qua đó làm rõ quan điểm: Truyện Nơm bình dân là thể loại văn học
viết, có tính chất bắc cầu giữa văn học dân gian và văn học bác học. Chúng tôi hi vọng
hướng nghiên cứu tác phẩm cụ thể sẽ đưa ra những đáng giá khoa học xác đáng.
1.4. Giới thiệu tình hình văn bản và tóm tắt cốt truyện 5 tác phẩm: chàng
Chuối, Thạch Sanh, Tấm Cám, Từ Thức, Tống Trân – Cúc Hoa
1.4.1. Chàng Chuối
* Tình hình văn bản: Ngồi văn bản “Truyện Chàng Chuối” trong cuốn Kho
tàng truyện Nôm khuyết danh (Tập 2), Bùi Văn Vượng Chủ biên, Nxb Văn học,
chúng ta cịn có thể tìm đọc các dị bản khác.
+ Chàng Chuối tân truyện, ký hiệu AB.84, Thư viện nghiên cứu Hán Nôm.
23
+ Chàng Chuối (1929), Kim Huệ dịch.
+ Chàng Chuối truyện, Tam hữu tu thư cục – Hà Nội xuất bản.
*Nội dung tóm tắt: Hùng Vương tuổi cao nhưng chưa có người trao quyền,
đi săn bắn tình cờ gặp tiên nữ. Tiên nữ được đưa về kinh. Chẳng bao lâu nhà vua có
hồng tử nối ngơi. Ít lâu sau sinh thêm một con gái đặt tên là Mị Nương. Tới tuổi
xuân thì, có hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh đều muốn lấy Mị Nương làm vợ, vua
cha giao hẹn, chàng nào đem đồ sính lễ đến trước sẽ được kén làm con rể. Hôm sau,
Sơn Tinh nhanh chân hơn nên cưới được Mị Nương và đưa vợ về non Tản. Thủy
Tinh đến chậm nổi giận kéo quân giao chiến cùng Sơn Tinh. Thủy Tinh yếu thế
phải hồi binh, đóng quân tại cửa Hát giang, Thủy Tinh gặp một thôn nữ tuổi vừa đôi
bảy nhan sắc dịu dàng, chàng cảm mến rồi xe duyên. Cùng lúc đó Sơn Tinh kéo
đến, Thủy Tinh lui quân. Trước khi giã biệt vợ, chàng căn dặn nàng hãy gắng sinh
con và ni dưỡng, sau đó Thủy Tinh trở về sông nước. Người phụ nữ đến kì sinh
ra một con cá chuối, có chữ vương trên đầu. Nàng chăm sóc và yêu thương con. Ba
tháng sau, Chuối trút lốt thành một trang nam tử mặc long cổn, đai cân rạng vẻ, đầu
đội mũ triều thiên, tự xưng với mẹ về dịng dõi thủy tộc của mình.
Quan họ Lý sinh ba con gái xinh đẹp. Tình cờ gặp gỡ, chàng Chuối tương tư
cô út. Chàng xin mẹ đi cầu hơn tiểu thư họ Lý cho mình. Người mẹ sợ nhân dun
khơng thành vì chênh lệch gia cảnh. Chàng Chuối năn nỉ, mẹ chàng tới của họ Lý giãi
bày tâm nguyện con trai. Tướng công truyền ba con gái ra hỏi ý họ. Hai cô chị khước
từ, cô em út Lý Dung ưng thuận. Để có tiền của lo hôn lễ, chàng Chuối về thủy phủ
và được cha chu cấp cho nhiều của cải. Đám cưới của họ linh đình. Họ sống với nhau
hạnh phúc. Đêm đến chàng Chuối trút lốt cá, ban ngày sợ lộ thân phận lại bước chân
vào chậu nước. Nhân ngày hội Vu Lan nàng út và chàng Chuối trút lốt đi chơi. Hai cô
chị thấy người tuấn tú bèn buông lời cợt ghẹo. Họ đem câu chuyện chàng Chuối để
khoe với Lý Dung. Cơ em nói cho hai người biết đó chính là chồng mình, họ khơng
tin. Lý Dung hẹn hai người đến nhà nàng. Hai cô chị chứng kiến em rể trút lốt cá trở
thành nam nhi bên cạnh em út. Họ sửng sốt và sinh lịng ghen tỵ.
Tướng cơng tâu lên nhà vua câu chuyện thật của con rể. Chàng Chuối được vua
gọi về triều, phong cho làm đại tướng cầm quân đi dẹp giặc. Ở nhà hai cô chị mưu toan
cướp chồng của em. Họ rủ Lý Dung đi tắm ghềnh sâu rồi đẩy nàng xuống nước. Lý
24
Dung được cứu thốt và được đón xuống thủy cung. Chàng Chuối thắng giặc trở về
thăm vua cha nơi thủy phủ, vợ chồng chàng gặp nhau và chàng hiểu rõ tâm địa hai
cô chị. Chàng Chuối giấu vợ vào một chiếc hịm đưa về trần gian. Đơng đủ cả nhà
hai cơ chị mừng rỡ mở hịm q ấy, cơ út bước ra chào hai chị. Kẻ xấu bẽ mặt rủ
nhau trốn lên ngàn rồi bị thiên lôi trừng phạt.
Vợ chồng chàng Chuối sau đó được ban phước lộc. Chàng được sắc phong thái
tử, Lý Dung được phong cung phi. Họ hạnh phúc bên nhau trọn đời.
1.4.2. Thạch Sanh
* Tình hình văn bản: Văn bản truyện Thạch Sanh hiện cịn có ba bản đáng
chú ý, đó là:
A. Thạch Sanh tân truyện, nguyên văn bằng chữ Nôm, khắc in năm Duy Tân, Nhâm tý
(1912) ký hiệu Thư viện Hán Nôm AB.221.
B. Thạch Sanh truyện, do Xuân Lan phiên âm ra quốc ngữ, từ bản chữ Nôm trên, nhà
in Văn Minh, Hà Nội – Hải Phòng, in lần thứ hai, năm 1916.
C. Thạch Sanh – Lý Thông, do Đặng Lễ Nghi theo “Bổn cũ diện chánh”, Đinh Thái
Sơn xuất bản, Sài Gòn 1907.
Bản B là bản phổ biến ở miền Bắc, còn bản C là bản phổ biến miền Nam
trước đây. Cả hai bản đều giống nhau về cốt truyện, nhân vật, tình tiết, nhưng ngơn
ngữ văn chương thì khác hẳn nhau. Truyện Nơm Thạch Sanh gồm 1821 câu lục bát.
*Nội dung tóm tắt:
Vợ chồng Thạch Nghĩa ở quận Cao Bình làm nghề đốn củi đốn than, Hai ơng
bà già nhưng chưa có con nối dõi. Ngọc Hồng thương tình cho thái tử xuống đầu
thai. Khi Thạch Sanh ra đời thì cha mất, lên bảy tuổi thì mẹ cũng qua đời. Từ đó,
Thạch Sanh sống côi cút bên gốc đa làm nghề cũ của bố để tự nuôi thân. Năm 13
tuổi, Thạch Sanh được tiên ông Lý Tĩnh xuống trần truyền dạy phép thuật.
Tên lái rượu là Lý Thông đi qua gốc đa, thấy Thạch Sanh liền ngỏ lời kết
nghĩa anh em. Thạch Sanh về sống cùng với mẹ con Lý Thông. Trong vùng có một
con chằn tinh hồnh hành dữ dội, hằng năm theo lệ phải nộp cho nó một chàng trai
trẻ thì dân mới được yên. Năm ấy đến lượt Lý Thơng phải đi nộp mình tại miếu
chằn tinh. Lý Thơng đánh lừa Thạch Sanh đi thay. Khi tới miếu Thạch Sanh gặp
chằn tinh, hai bên giở pháp thuật đánh nhau, cuối cùng Thạch Sanh giết được chằn
tinh, thu được cung tên bằng vàng và chặt đầu chằn tinh mang về… Lý Thông trông
25