Tài Chính doanhnghiệp
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Thị LiênHoa
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU
1. Cổ phiếu
1.1 Khái niệm
Cổ phiếu là giấy chứng nhận cấp cho cổ đông để chứng nhận số cổ phần mà cổ
đông đó đã mua ở một Công ty cổ phần, chứng thực về việc đóng góp vào Công ty cổ
phần, đem lại cho người chủ của nó quyền chiếm hữu một phần lợi nhuận dưới hình
thức lợi tức cổ phần và được quyền tham gia quản lý công ty.
Theo Luật Chứng Khoán Việt Nam, cổ phiếu là lọai chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ
chức phát hành.
1.2 Đặc điểm của cổ phiếu
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính
thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
-
Cổ phiếu là chứng khoán vốn do đó không có kỳ hạn và không hoàn vốn.
-
Cổ tức không được xác định trước mà phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của tổ chức
phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh
doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ
phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu
quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
-
Cổ phiếu có mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu
cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ
phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc
rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường
đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược
lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém
hơn cũng có thể bán dễ dàng.
1
-
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính
thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần
thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như
thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
-
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu
không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ
phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
-
Cổ phiếu có tính rủi ro cao phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển của Công
ty cổ phần. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
1.3 Phân loại cổ phiếu
Một Công ty cổ phần có thể phát hành 2 loại cổ phiếu:
a) Cổ phiếu thường
Giấy chứng nhận cổ phần, thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công
ty, quyền sở hữu được bỏ phiếu của công ty và những cổ phiếu này vĩnh viễn tồn tại
cùng với những quãng đời hoạt động của công ty.
Đặc điểm của cổ phiếu thường
- Không có kỳ hạn và không hoànvốn.
- Cổ tức phụ thuộc vào KQSXKD và chính sách chia cổ tức trong từng thời kỳ.
- Cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của tài sản thanh lý khi
công ty phá sản.
- Giá cả biến động.
Trách nhiệm và quyền lợi của cổ đông:
Trách nhiệm
- Phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn, không được rút lại.
- Cổ đông phổ thong chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn theo phần vốn góp.
2
Quyền lợi:
- Quyền có thu nhập: cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận tương ứng với số cổ
phần sở hữu gọi là cổ tức.
- Quyền được chia tài sản thanh lý: trường hợp công ty bị giải thể, cổ đông thường
cũng được chia phần những giá trị tài sản thanh lý.
- Quyền bỏ phiếu: Cổ đông thường có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ
quản lý trong công ty, có quyền tham gia đại hội cổ đông.
- Quyền mua cổ phiếu mới: Cổ đông thường có quyền được mua trước cổ phiếu mới
khi công ty phát hành thêm để tăng vốn.
Lợi tức và rủi ro
Lợi tức của cổ phiếu
- Cổ tức
+ Phụ thuộc vào KQKD và chính sách chia cổ tức của công ty
+ Công ty có thể trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu
- Lợi tức do chênh lệch giá Rủi ro của cổ phiếu
- Rủi ro hệ thống:
- Rủi ro thị trường: xuất hiện do phản ứng của NĐT đối với sự kiện hữu hình hay vô
hình.
- Rủi ro lãi suất: xuất hiện do sự thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ tác động
đến toàn bộ hệ thống chứng khoán
- Rủi ro sức mua: tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư
- Rủi ro không hệ thống: khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng sự thay đổi trong thu
nhập từ cổ phiếu công ty sự không chắc chắn trong khả năng thanh toán của công ty
3
Các nhân tố ảnh hưởng giá cổ phiếu
Nhân tố kinh tế
- Mức thu nhập DN
- Lãi suất thịtrường
- Xu hướng KD
Nhân tố phi kinh tế: thay đổi điều kiện chính trị, cơ cấu quản lý hành chính, điều kiện
tự nhiên, điều kiện văn hóa…
Nhân tố thị trường:
- Biến động thị trường
- Tác động quan hệ cung –cầu
Nhân tố khác: yếu tố tâm lý đầu tư theo phong trào, hành vi tiêu cực trên TTCK.
b) Cổ phiếu ưu đãi:
Thể hiện quyền lợi sở hữu trong một công ty, tuy nhiên những cổ đông nắm loại
cổ phiếu này được hưởng một số ưu đãi hơn so với những cô đông thường
Đặc điểm: giống cổ phiếu thường
- Cũng là chứng khoán vốn, không kỳ hạn, không hoàn vốn.
- Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi cũng là cổ đông đồng sở hữu của công ty.
- Đặc điểm giống trái phiếu:
- Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định một tỷ lệ lãi cố định tính trên mệnh giá.
Phân loại:
Cổ phiếu ưu đãi có lũy kế lãi
Trường hợp công ty làm ăn không có lợi nhuận để trả cổ tức, thì phần còn lại
thiếu năm nay sẽ được tích lũy sang năm sau hay vài năm sau khi công ty có đủ lợi
4
nhuận để trả.
Cổ phiếu ưu đãi không lũy kế lãi
Trường hợp công ty làm ăn không có lợi nhuận để trả cổ tức, thì khoản cổ tức đó
sẽ bị mất luôn. Qua kỳ hoạt động tiếp theo, dù công ty làm ăn có hiệu quả, có lời
cao khoản cổ tức chưa chi trả của kỳ trước cũng không được truy lĩnh chỉ chi trả
khoản cổ tức của kỳ hiện hành.
Cổ phiếu ưu đãi dự phần
Người chủ sở hữu loại cổ phiếu này ngoài việc nhận cổ tức đã công bố có thể
nhận thêm khoản cổ tức đặc biệt, nếu cổ tức của cổ phiếu thường vượt quá một lượng
tiền nhất định.
Cổ phiếu ưu đãi không dự phần
Người chủ sở hữu không được hưởng thêm phần lợi tức nào vào những năm
công ty làm ăn phát đạt vượt mức.
2. Tổng quan về thị trường cổ phiếu
2.1 Khái niệm
Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hóa được giao dịch trao đổi, mua
bán tại đó là các cổ phiếu
2.2 Vai trò của thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị
trường phát triển. Thị trường cổ phiếu là chiếc cầu vô hình nối liền giữa cung và cầu
vốn trong nền kinh tế. Một thị trường cổ phiếu lành mạnh và hoạt động có hiệu quả
sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo sự lành mạnh trong
việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất.
Thị trường cổ phiếu góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh
tế:
Chức năng cơ bản của thị trường cổ phiếu là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền
5
Kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển cổ phiếu
có giá. Việc mua đi bán lại cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu đã tạo điều kiện di
chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ
ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế, phá
vỡ “tính ỳ” trong đầu tư sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh,
góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế.
Thị trường cổ phiếu là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài
chính, là chất xúc tác quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc
đẩy hoạt động kinh tế.
Thị trường cổ phiếu góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn thông qua
việc buộc các công ty phát hành cổ phiếu ra công chúng theo một tỷ lệ nhất định.
Điều này giúp giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế vào một nhóm nhỏ, song
vẫn tập trung cho phát triển kinh tế. Từ đó tạo sự cạnh tranh công bằng hơn, góp phần
tăng tính hiệu quả và góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Bên cạnh đó, giúp
cho việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã
hội đối với hoạt động của công ty.
Thị trường cổ phiếu tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước
ngoài
Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau,
trong đó có đầu tư vốn thông qua thị trường cổ phiếu. Đây là hình thức đầu tư dễ
dàng và hữu hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường cổ phiếu là nơi mà các nhà
đầu tư có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các
doanh nghiệptrong nước. Hơn nữa, thị trường cổ phiếu thu hút vốn thông qua mua
bán cổ phiếu, từ đó tạo môi tường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường cổ phiếu là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ
biểu của nền kinh tế
Thị trường cổ phiếu phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền kinhtế
quốc gia. Các thị giá cổ phiếu được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản
ánh giá trị phần tài sản có của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thực trạng của doanh
6
nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn mạnh,
có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của cổ phiếu
công ty mới cao và ngược lại.
Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường cổ phiếu còn là phong vũ biểu
của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá
thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá cổ phiếu đã
phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho nhà đầu tư trước diễn biến của các rủi
ro. Thị trường cổ phiếu còn phản ánh rất nhạy cảm trước các chính sách kinh tế vĩ mô,
các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quản lý
thường thông qua thị trường cổ phiếu để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều
tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt
động của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường cổ phiếu cũng có những tác
động tiêu cực sau:
- Thị trường cổ phiếu luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ, một yếu tố có tính toán của nhà
đầu tư. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai
và qua đó thu được lợi nhuận. Sự kiện này càng dễ dàng xãy ra khi có nhiều người
cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một loại cổ phiếu nào đó, dẫn
đến sự khan hiếm hay dư thừa cổ phiếu một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá
cổ phiếu tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị
trường.
- Hoạt động giao dịch nội gián thường xãy ra trên thị trường cổ phiếu. Một các nhân
nào đó lợi dụng việc nắm bắt thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông
tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các thông tin đó cho
giao dịch cổ phiếu nhằm thu lợi bất chính được gọi là giao dịch nội gián. Các giao
dịch nội gián được coi là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn tin nội
gián sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho
riêng mình. Điều này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Như vậy sẽ tác động tiêu cực
đến tích lũy và đầu tư.
- Thị trường cổ phiếu hoạt động trên cơ sở thông tin hòan hảo. Tuy vậy, khi có tin đồn
7
không chính xác hoặc thông tin sai lệch về hoạt động của doanh nghiệp, điều này
tác động đến tâm lý của nhà đầu tư, dẫn đến xu hướng thay đổi đầu tư, ảnh hưởng
đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại cho đại đa số nhà
đầu tư
Như vây, vai trò của thị trường cổ phiếu được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác
nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường cổ phiếu thực sự phát huy hay
bị hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Thị trường sơ cấp (OTC)
•
Giai đoạn 2000-2002
Thực tế cho thấy trong giai đoạn này, trong khi hoạt động của thị trường thứ
cấp diễn ra liên tục và có nhiều giai đoạn khá sôi động thì thị trường sơ cấp lại vận
hành khá chậm chạp và gần như rơi vào tình trạng “đóng băng” kéo dài.
Kể từ khi chính thức ra đời cho đến hết năm 2001 đã có tới 9 công ty niêm yết
trên trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM nhưng tuyệt nhiên không có một công
ty nào trong số này đã từng một lần phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Thị trường
sơ cấp chỉ được khởiđộng vào đầu năm 2002 khi mà HAPACO phát hành một đợt cổ
phiếu với số lượng một triệu cổ phiếu mới. Cho đến năm 2002 thì đã có tới 17 công ty
niêm yết nhưng ngoài HAPACO mới chỉ có REE là công ty thứ 2 được phép phát
hành một đợt cổ phiếu bổ sung với số lượng 7,5 triệu cổ phiếu.
• Giai đoạn 2002-2005
Trước hết, phải nói rằng, chức năng “tạo hàng” đúng là của các CTCK, còn
UBCK Nhà nước (SSC) có làm việc này thì tính chất và phạm vi khác với các CTCK,
mà chủ yếu là thông qua việc đề xuất chính sách khuyến khích niêm yết và hoạt động
tuyên truyền, thuyết phục. Chức năng “tạo hàng” như vậy không phải do SSC tự
nhận, mà đó là một nội dung trong nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thị trường được quy
8
định trong các văn bản pháp quy về tổ chức và hoạt động của SSC kể từ ngày đầu
thành lập. Việt Nam là một trong số rất ít nước và vùng lãnh thổ (như Đài Loan, Ba
Lan) đã thành lập ủy ban chứng khoán trước khi ra đời TTCK. Do vậy, trước khi có
thể thực hiện chức năng quản lý và giám sát thị trường, nhiệm vụ hàng đầu của SSC
là xây dựng và tổ chức thị trường, trong đó, có nhiệm vụ tạo hàng cho thị trường.
Thực tế cho thấy, do những bất cập trong hệ thống luật pháp và cải cách thể
chế của nước ta mà nhiệm vụ tạo hàng của SSC chỉ đạt được những kết quả rất hạn
chế. Mặc dù tiêu chuẩn niêm yết ở TTCK Việt Nam thuộc vào loại đơn giản và dễ
dãi nhất
thế giới, Nhà nước lại dành ưu đãi thuế đáng kể cho các công ty niêm yết,
SSC và các CTCK rất tích cực tiếp xúc, tuyên truyền cho các bộ, ngành, địa phương
và doanh nghiệp, nhưng sau hơn 4 năm hoạt động, TTCK Việt Nam chỉ có 26 công
ty niêm yết. Số lượng các công ty niêm yết còn ít ỏi, chứng tỏ đại đa số doanh nghiệp
chưa thấy lợi ích của việc niêm yết lớn hơn lợi ích của việc không phải công khai,
minh bạch. Thậm chí, có công ty niêm yết cảm thấy mình bị “ra ánh sáng” quá gắt,
trong khi môi trường xung quanh thì tù mù, nhộn nhạo.
Thực vậy, hầu hết các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng
không phải thực hiện công khai thông tin tài chính có kiểm toán và tuân thủ quy
trình phát hành, nhằm bảo vệ lợi ích người đầu tư. Do đó, phần lớn các tổ chức phát
hành cũng chẳng cần đến nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của CTCK và việc phát hành
ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá, của các tổ chức tín dụng cũng
không được gắn với việc niêm yết trên TTCK. Khi đã trở thành công ty đại chúng,
doanh nghiệp cũng chẳng phải công bố thông tin thường xuyên và chịu sự giám sát
của SSC như ở các nước khác. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ tạo hàng của SSC chỉ có
thể là tuyên truyền, vận động các bộ, ngành và doanh nghiệp, chứ không thể áp đặt
mệnh lệnh hành chính; còn chức năng tạo hàng vốn có của các CTCK cũng gặp rất
nhiều khó khăn. Nhằm tiến tới từng bước quản lý việc phát hành chứng khoán ra
công chúng,
Nghị định 144/2003 đã quy định tổ chức phát hành chứng khoán ra công
chúng phải đáp ứng các điều kiện quy định và phải đăng ký với SSC. Phát hành chứng
khoán ra công chúng là việc chào bán một đợt chứng khoán có thể chuyển nhượng
9
được thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành.
Tuy nhiên, quy định trên chỉ có hiệu lực đối với các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp, còn đối tượng lớn nhất là các doanh nghiệp cổ phần hoá và
các tổ chức tín dụng thì lại nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị định 144. Hơn
nữa, các tổ chức phát hành thuộc diện điều chỉnh của Nghị định 144 cũng dễ dàng
lách luật để thoát khỏi sự quản lý của nhà nước, nếu họ phát hành chứng khoán cho
công chúng mà không sử dụng tổ chức trung gian.
Đó là lý do giải thích tại sao cho đến nay, chưa có tổ chức phát hành nào thực
hiện đăng ký với SSC, ngoài các công ty đã niêm yết trên TTCK. Tuy nhiên, do
“phẩm cấp” pháp lý của Nghị định thấp hơn nhiều văn bản pháp lý khác hiện hành,
đồng thời do nhận thức của các bộ, ngành về sự cần thiết quản lý hoạt động phát
hành chứng khoán ra công chúng còn có nhiều điểm chưa thống nhất, nên những hạn
chế nêu trên là điều không tránh khỏi.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, Nghị định
187/2004 vừa được ban hành đã có một bước tiến đáng kể so với Nghị định 64/2002
trước đây trong việc yêu cầu doanh nghiệp công khai một số thông tin chủ yếu cho các
nhà đầu tư trước khi thực hiện việc bán cổ phần. Tuy nhiên, doanh nghiệp thực hiện
cổ phần hoá qua phát hành cổ phiếu cho công chúng không bắt buộc phải kiểm toán
báo cáo tài chính và chuẩn bị bản cáo bạch đầy đủ để công khai cho công chúng,
đồng thời phương thức bán cổ phần ra ngoài doanh nghiệp được quy định chung cho
mọi đối tượng là phương thức đấu giá. Trong những điều kiện đó, các doanh nghiệp
có thể cần đến nghiệp vụ tư vấn và định giá của các CTCK, nhưng sẽ chẳng có nhiều
doanh nghiệp cần đến nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và cũng chẳng có gì đảm bảo là
việc cổ phần hoá sẽ được gắn với niêm yết, vì sau cổ phần hoá, các công ty cổ phần
đại chúng không có nghĩa vụ công bố thông tin thường xuyên nếu không niêm yết.
Như vậy, có thể nói những “lỗ hổng” trong luật pháp điều chỉnh hoạt động
phát hành chứng khoán ra công chúng vẫn còn khá lớn và vượt quá tầm của SSC,
mặc dù với trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ (trước đây) và cho Bộ Tài chính
(hiện nay), SSC đã nhiều lần nêu kiến nghị và đề xuất trong các kế hoạch chiến lược
và đề án tạo hàng. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, SSC đã rà soát và chỉnh sửa
10
các quy định, thủ tục liên quan đến việc xử lý các hồ sơ niêm yết theo hướng đơn
giản hoá.
Tuy nhiên, những cố gắng nêu trên của SSC không thay thế được các giải
pháp về cơ chế, chính sách để có thể thúc đẩy hoạt động tạo hàng và bảo lãnh phát
hành của CTCK như mong muốn. Còn nếu tính đến chuyện hạ thấp hơn nữa tiêu
chuẩn niêm yết thì sẽ khó mà đảm bảo được mục tiêu “duy trì thị trường an toàn và
phát triển ổn định”.
Hơn nữa, đó sẽ là việc làm đi ngược lại yêu cầu của các cam kết hội nhập quốc
tế và liên kết khu vực mà chúng ta đang theo đuổi.
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy, những yếu tố cơ bản đang cản trở
nỗ lực tạo hàng của các CTCK cũng như của SSC là thuộc về môi trường thể chế và
pháp lý còn nhiều bất cập hiện nay, đặc biệt là việc thả nổi các hoạt động và các tổ
chức phát hành chứng khoán ra công chúng. Điều đáng lo ngại hơn nữa là việc thiếu
sự quản lý nhà nước thống nhất đối với hoạt động phát hành chứng khoán đang tạo
thuận lợi cho các hiện tượng thông tin sai lệch, xung đột lợi ích, thậm chí là lừa đảo
trong hoạt động phát hành.
• Giai đoạn 2006- nay
Sự vận động của thị trường OTC trong những năm qua luôn theo sát thị trường
niêm yết. Năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ
phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần 200
đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại với tổng lượng vốn huy
động lên đến gần 40.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của thị trường
chứng khoán, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100
đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo
điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành
cổ phiếu.Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50%
so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
Từ năm 2010 đến đầu năm 2014, thị trường OTC đóng băng tại hầu hết các cổ
phiếu trong bối cảnh thị trường tập trung suy giảm.
11
TTCK tập trung vừa đi qua một năm với rất nhiều thăng trầm khi có ít nhất hai
đợt sụt giảm mạnh vào tháng 5 (Trung Quốc kéo giàn khoan vào biển Đông) và cuối
tháng 11 kéo dài hết tháng 12 (giá dầu giảm mạnh và hiệu ứng từ Thông tư 36/TTNHNN của Ngân hàng Nhà nước). Tuy nhiên, với nhiều NĐT trên TTCK tự do
(OTC), 2014 đã để lại ấn tượng tích cực khi một loạt cổ phiếu lên sàn tăng giá tốt,
mang lại lợi nhuận không nhỏ.
Theo số liệu của UBCK, năm 2014 có 21 công ty niêm yết mới trên 2 sàn giao
dịch. Trong đó nhiều tên tuổi lên HNX như: Công ty CP Hóa chất Đức Giang, Công
ty CP Thủy điện Miền Trung, Công ty CP Dịch vụ hàng không sân bay Đà Nẵng…
Trên sàn HoSE là các gương mặt đình đám: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Công ty CP Thế giới Di động, Công ty CP Dây Cáp điện Việt Nam, Công
ty CP Cảng Cát Lái...
Cơ hội trong năm 2015
Nhằm thúc đẩy CPH, tháng 9/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 51/2014/QĐ-Ttg quy định một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký
giao dịch, niêm yết trên TTCK của DNNN. Theo đó, trong thời hạn 90 ngày kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký, DN CPH phải hoàn tất thủ tục đăng ký
công ty đại chúng, đăng ký cổ phiếu để lưu ký tập trung tại VSD và đăng ký giao dịch
trên hệ thống giao dịch UPCoM.
Đối với DN đã chính thức chuyển thành công ty cổ phần trước ngày Quyết định này
có hiệu lực thi hành, đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo người
đại diện phối hợp đôn đốc DN hoàn tất việc thực hiện đăng ký giao dịch và niêm yết.
Như vậy, quy định trên là cơ sở pháp lý, góp phần tạo tiền đề cho các DN cổ phần
hóa thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường tập trung, mở ra cơ hội
cho các NĐT trên thị trường OTC. Trong bối cảnh nhiều cổ phiếu niêm yết lâu năm
có xu hướng “già cỗi”, nhàm chán, việc cổ phiếu lên sàn thời gian gần đây thường
tăng giá cũng tạo nên sức hấp dẫn đáng kể cho NĐT.
12
2. Thị trường thứ cấp
2.1.
Giai đoạn 2000 – 2005: thị trường phát triển chậm.
Trước yêu cầu về đổi mới và phát triển kinh tế phù hợp với các điều kiện kinh
tế chính trị và xã hội trong nước trên cơ sở nhập kinh tế quốc tế ngày 11-7-1998
Chính phủ ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 28/07/2000,
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức thực hiện phiên giao dịch đầu
tiên với 2 mã chứng khoán là REE (Công ty cổ phần cơ điện lạnh) và SAM (Công ty
cổ phần cáp và vật liệu viễn thông) với số vốn là 270 tỷ đồng.
Từ năm 2001 đến năm 2004, thị trường phát triển khá chậm chạp do ít hàng
hóa, số lượng các doanh nghiệp niêm yết nhỏ, không nổi tiếng và không thu hút được
nhà đầu tư trong nước. Ngày 8/3/2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
chính thức đi vào hoạt động. Đây có thể xem là giai đoạn tăng trưởng của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Nó đóng vai trò không nhỏ để nói lên rằng Việt Nam đang đi
trên con đường cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Và đặc biệt
hơn nữa, thị trường Việt Nam đã được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý khi tỷ lệ nắm
giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Về chỉ số VN Index, trong 5 năm đầu tiên VN Indexở mức khá thấp ngoại trừ
cơn sốt vào năm 2001, lúc này chỉ số VN Index cao nhất đạt 571,04 điểm. Tuy nhiên,
chỉ 4 tháng sau ngày đạt kỷ lục đó, các cổ phiếu niêm yết đã mất 70% giá trị, chỉ số
VN Index chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10 năm 2001. Nhìn chung, trong 5
năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của
đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động
xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới
cuộc sống của mỗi người dân. Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước,
tính đến hết năm 2005, số lượng công ty niêm yết là 41 công ty, một con số quá nhỏ
bé so với 3000 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa và 2000 doanh nghiệp sắp được
cổ phần hóa; tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng,
chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường cổ phiếu Việt Nam đạt 4.500
tỷ đồng, thu hút 31.316 tài khoản giao dịch.
13
Năm
20
2
2
2
2
2
500
3
50
8
20
90
20
12
20
16
40
1
0,2
0,
0
Số
lượng tài khoản khách
(%GDP)
2.9
8
8.
3
1,
01
1,
03
2,
14
3,
hàng
08
7
3
5
1
1
Số công
ty
niêm
yết/
Số
lượng công ty chứng
ĐKGD
Mức
khoán vốn hóa thị trường
2.2.
Giai đoạn 2006 – 2007: thị trường chứng khoán Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
cao.
Kể từ năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu khởi sắc và có
bước tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng công ty niêm yết. Tổng số lượng các công ty
niêm yết là 193 công ty, tăng gấp 5 lần so với năm 2005. Tất cả các tổ chức tiến
hành niêm yết trong thời gian này đều đạt được thành công ngoài mong đợi, giá cổ
phiếu liên tục tăng trần. Tại thời điểm ấy, nhiều nhà đầu tư đã có cùng một cảm giác
là bất cứ cổ phiếu nào được mua cũng sẽ đem lại lợi nhuận lớn ngay tức thì. Tất cả
những sự kỳ vọng ấy đã khiến cho khá nhiều tổ chức, doanh nghiệp là công ty cổ
phần cũng bắt đầu rục rịch chuẩn bị cho công cuộc niêm yết chứng khoán vào năm
2007, với mong muốn huy động các nhà đầu tư lớn nhỏ trong và ngoài nước.
Chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh tăng 144%, tại sàn giao dịch Hà
Nội tăng 152,4% . VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa
đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP). Giá trị cổ phiếu do các nhà đầu
tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của
toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là
những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Năm 2006, kỷ lục
mới của VN- Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC-Index là nỗ lực
chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng
trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng mà các
thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Năm 2007, đây là năm có quá nhiều biến động đối với thị trường chứng khoán
Việt Nam, với sự nóng lạnh thất thường của thị trường. Đỉnh điểm là VN-Index đã
14
lên đến 1.170,67 điểm vào ngày ngày 12-3-2007 và kết thúc phiên cuối cùng của
năm 2007 với chỉ số chứng khoán VN-Index dừng lại ở 927,02 điể m. Theo thống kê
của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, ở cả hai sàn chứng khoán Hà Nội và TPHCM,
năm 2007 có khoảng 179 công ty được phép chào bán 2,46 tỉ đơn vị cổ phiếu ra công
chúng, tương ứng với khoảng trên 48 ngàn tỉ đồng, gấp 25 lần so với năm 2006, tổng
số công ty niêm yết trên cả hai sàn là 233 công ty, tăng 31% so với năm 2006. Tính
chung cả hoạt động phát hành, đấu giá trên thị trường chính thức đạt gần 90.000 tỉ
đồng, gấp ba lần so với năm 2006. Tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt gần 500.000 tỉ
đồng, hơn 43% GDP của cả năm 2007; số vốn mà doanh nghiệp huy động thêm
trong năm 2007 hơn 90.000 tỉ đồng.
2.3.
Giai đoạn 2008 – 2009: Bong bóng chứng khoán tan vỡ.
Năm 2008, những chỉ tiêu vĩ mô của Việt Nam bắt đầu phản ánh biểu hiện suy
thoái đầu tiên: GDP giảm, lạm phát và thất nghiệp tăng, chính sách thắt chặt tiền tệ
của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối
với các khoản đầu tư vào TTCK, đã làm cho thị trường giảm điểm mạnh. Năm 2008
đánh dấu thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục chạm đáy với một chuỗi các
phiên giao dịch giảm điểm liên tiếp, đáy mới thiết là 286,85 điểm vào ngày
10/12/2008. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về khả năng nhà đầu tư nước
ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua
việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm. Giá trị vốn hóa thị trường
đạt 29.775 tỷ đồng, chiếm 14,7% GDP. Như vậy chỉ sau một năm giá trị vốn hóa thị
trường đã bốc hơi 270 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, lượng cung tiếp tục được bổ
sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các
DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các doanh
nghiệp đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp...
phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng TTCK thừa "hàng". Cả
năm 2008 có 338 công ty niêm yết, trong đó có 89 cổ phiếu niêm yết mới. Tổng khối
lượng niêm yết năm 2008 đạt 8 tỷ đơn vị, cao gấp 1,7 lần so với năm 2007.
15
Hình 1: Diễn biến của VN Index từ năm 2006 - 2008
Năm 2009, chịu sự ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị
trường chứng khoán Việt Nam đã sụt giảm mạnh. Những tháng đầu năm 2009, thị
trường đã thiết lập mức đáy thấp nhất trong nhiều năm qua tại ngưỡng 235,50 điểm
(ngày 24/2/2009). Tuy nhiên, sau đó thị trường dần hồi phục bởi sự nỗ lực của Chính
phủ trong việc đưa ra các gói kích cầu vào thị trường trong nước, nhờ đó một lượng
tiền lớn đã được “bơm” trực tiếp cho ngân hàng để khơi thông ách tắc vốn cho các
doanh nghiệp. Từ mức đáy 235,50 điể m, thị trường đã đảo chiều tăng mạnh, đến
tháng 11, VN-Index đã đạt trên 600 điểm. Đây là mức tăng trưởng mà ít người nghĩ
tới có thể đạt được trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới. Mốc điểm này
khiến các nhà đầu tư lạc quan, tin tưởng vào sự đi lên của thị trường này. Nhưng
niềm tin của giới đầu tư không được kéo dài lâu khi đến cuối tháng 11, đầu tháng 12,
thị trường lại giảm mạnh hơn 20% (VN- Index đạt 434,87 điểm vào ngày 17/12) so
với mức đỉnh của năm 2009.
Kết thúc năm 2009, số lượng công ty niêm yết tăng hơn 30%, đạt 447 công ty,
mức vốn hóa toàn thị trường thị trường chứng khoán Việt Nam là 620 nghìn tỷ
16
đồng. So với thời điểm cuối năm 2008 là 225 nghìn tỷ đồng, mức vốn hóa đã tăng
gần 3 lần; Số lượng công ty niêm yết tăng hơn 30%, đạt 447 công ty, số lượng các nhà
đầu tư tăng hơn 50% so với năm 2008, đạt 739.000 tài khoản; Giá trị danh mục của
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán tính đến tháng 12/2009 đạt gần
6,6 tỷ USD, tăng gần 1,5 tỷ USD.
Hình 2: Sự tăng điểm của VN Index trong năm 2009
2.4.
Giai đoạn 2010 – 2011: Thị trường trong thời gian điều chỉnh, chuẩn bị cho sự
phát triển bền vững.
Năm 2010, đánh dấu chặng đường 10 năm của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Thị trường đã có những phát triển vượt bậc: đạt gấp 2 lần so với kế hoạch
ban đầu về quy mô vốn hóa, số lượng công ty niêm yết tăng gấp 10 lần. Thị trường
cũng đã trở thành kênh huy động vốn cho doanh nghiệp với 110.000 tỷ đồng, tăng
3 lần so với năm 2009 và tăng 4 lần so với năm 2008.
Tuy nhiên, chính sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ không nhất
quán, đồng thời thị trường chịu tác động bởi nguồn cung lớn của các cổ phiếu niêm
yết mới và phát hành thêm (năm 2010 đạt kỷ lục lên sàn niêm yết khi có thêm 81
cổ phiếu niêm yết trên HOSE, 110 cổ phiếu niêm yết trên HNX), trong khi nhu cầu
của thị trường bị siết chặt bởi các quy định của chính phủ mà điển hình là Thông
tư 13 và Thông tư 19 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng đã gây ra việc thoái vốn ồ ạt của các ngân hàng khỏi các hoạt động
17
cho vay đầu tư chứng khoán nhằm đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn
mới làm cho các khoản đầu tư vào chứng khoán bị sụt giảm.
Nhìn lại cả năm 2010, thị trường chứng khoán có khoảng 6-8 tháng giảm
điểm hoặc đi ngang. Các chỉ số nhiều lần kiểm tra mốc đáy của năm. VN Index hai
lần giảm về mức đáy 420 điểm, trong khi HNX Index giảm thấp nhất trong vòng 18
tháng xuống 97,44 điểm. Giá trị giao dịch từ chỗ giao dịch trên cả 2 sàn ở mức
3.000-4.000 tỉ đồng/phiên, mức trung bình chung của năm 2010 chỉ còn dưới 1.000
tỉ đồng/phiên. Kết thúc năm 2010, thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong
số ít thị trường không tăng trưởng ở Châu Á và chịu sự suy giảm đi ngược lại với
xu hướng chung của thế giới.
Năm 2011, thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung đã trải qua một giai đoạn
đầy khó khăn và thách thức. Tính trong năm 2011, sàn HOSE chào đón thêm 25
doanh nghiệp mới niêm yết, thấp hơn gần một nửa so với năm 2010, đặc biệt trong
tháng 12/2011, có thêm 4 doanh nghiệp niêm yết mới như CTCP Cao su Bến
Thành (Beruco), CTCP Công nghệ Tiên Phong…, một số doanh nghiệp khác đã
hoàn tất thủ tục, nhưng chưa chọn ngày chính thức lên sàn.
Trên thực tế, tình hình thị trường không thuận lợi là một "rào cản" lớn đối
với các doanh nghiệp có kế hoạch lên sàn. Hầu hết doanh nghiệp đều muốn lựa
chọn thời điểm tốt để lên sàn, xuất phát từ mong muốn, giá cổ phiếu cũng là một
phần thương hiệu của doanh nghiệp. Giá phản ánh "sức khỏe" doanh nghiệp, nên
nếu lên sàn vào thời điểm không thích hợp, không những giá cổ phiếu bị xác định
thấp, sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng.
Tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, trong năm 2011, HNX tiếp đón thêm
29 mã mới niêm yết, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối lớn
như Tổng CTCP Bảo hiểm bưu điện Việt Nam (vốn điều lệ 450 tỷ đồng), CTCP
Vận tải dầu khí Cửu Long (vốn điều lệ 230 tỷ đồng), CTCP Tập đoàn FLC (vốn
điều lệ 170 tỷ đồng)
Tổng số lượng doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội có
giảm hơn năm 2010, nhưng các doanh nghiệp chào sàn tương đối đều đặn. Đến
cuối tháng11/2011, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã nhận được hồ sơ đăng ký
18
niêm yết của 4 doanh nghiệp là CTCP Dược phẩm Trung ương - Mediplantex
(vốn điều lệ
50 tỷ đồng), CTCP Du lịch Dầu khí Sapa (vốn điều lệ 100 tỷ đồng),
CTCP Sông Đà 7.02 (vốn điều lệ 60 tỷ đồng) và CTCP Đầu tư và phát triển năng
lượng Việt Nam (vốn điều lệ 56,25 tỷ đồng).
Tính toán sơ bộ, có hơn 20 doanh nghiệp đã nộp hồ sơ niêm yết, đang chờ Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội chấp thuận. Nhiều doanh nghiệp đã nộp hồ sơ lên Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội từ năm 2010, nhưng vì điều kiện thị trường không
thuận lợi, các doanh nghiệp vẫn đang hoãn niêm yết.
Tính đến cuối năm 2011, đã có 708 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả
hai Sở giao dịch chứng khoán, với tổng số lượng chứng khoán niêm yết đạt 26,82
tỷ đơn vị. Việc có nhiều cổ phiếu tham gia niêm yết sẽ làm cho thị trường phong
phú về hàng hoá và nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh việc
chú trọng đưa nhiều doanh nghiệp lên niêm yết, các thành viên thị trường đang
mong chờ chất lượng tốt hơn của các doanh nghiệp, nhất là khi gần đây, nhiều
doanh nghiệp niêm yết trên 2 Sở rơi vào tình trạng thua lỗ, mất hết vốn chủ sở hữu,
gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư. Ngoài ra, năm 2011 còn xuất hiện hàng loạt các
vụ việc về vi phạm quy định công bố thông tin trong đó 3 công ty đầu tiên bị hủy
niêm yết là DVD, VTA, FPC. Cũng trong thời gian này, có 4 công ty bị cảnh báo
do vi phạm về công bố thông tin và 575 công ty niêm yết bị nhắc nhở bằng văn bản
và công bố vi phạm trên website của Uỷ ban chứng khoán.
Chỉ số VN Index năm 2011 giảm hơn 25% so với cuối năm 2010. Giá trị vốn hóa
của các công ty niêm yết trên sàn giảm 137 ngàn tỷ đồng, còn lại 537 ngàn tỷ đồng
vào cuối năm 2011, bằng khoảng 20% GDP. Quy mô giao dịch cũng bị thu hẹp
đáng kể. Khối lượng giao dịch bình quân đạt gần 34 triệu chứng khoán/phiên,
tương ứng với giá trị giao dịch 650 tỷ đồng, giảm 29% về khối lượng và 57% về
giá trị so với năm 2010. Tốc độ luân chuyển chứng khoán bình quân về giá trị chỉ
đạt trên 28,68%, là mức thấp nhất trong những năm gần đây. Cùng với sự sụt giảm
của chỉ số, trong năm 2011, thanh khoản của thị trường cũng giảm trầm trọng với
doanh số giao dịch giảm hơn 50% so với năm 2010. Trên hai sàn giao dịch có tới
hơn 50% số mã cổ phiếu có giá trị dưới mệnh giá, hàng loạt chứng khoán có giá
19
chỉ trên dưới 2.000 đồng/cổ phiếu, thậm chí thị trường Việt Nam năm 2011 cũng
đã ghi nhận cổ phiếu có mức giá thấp nhất trong lịch sử với chỉ 600 đồng/cổ phiếu
(VKP)
Với mục tiêu hướng tới một thị trường chứng khoán phát triển bền vững,
tháng 04/2011, Ủy ban chứng khoán Nhà nước lấy ý kiến dự thảo lần 2 Nghị định
“Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Chứng khoán” trong đó đáng chú ý là việc nâng điều
kiện niêm yết tại 2 Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội.
Theo dự thảo, điều kiện để công ty được niêm yết như sau: là công ty cổ phần có
vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 120 tỷ đồng trở lên (HoSE) và
30 tỷ đồng Việt Nam trở lên (HNX), hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính
đến thời điểm đăng ký niêm yết là 2 năm (HoSE) và 1 năm (HNX) và nhiều điều
kiện về năng lực hoạt động kinh doanh doanh nghiệp như: kinh doanh của 2 năm
trước (đối với HNX là năm liền trước) khi niêm yết phải có lãi, tỷ lệ lợi nhuận sau
thuế trên vốn chủ sở hữu năm gần nhất tối thiểu là 5%, tối thiếu 20% cổ phiếu có
quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 300 cổ đông (đối với HNX là 15% cổ phiếu
có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông) không phải cổ đông lớn
nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Nếu những quy định trên được thông qua
sẽ góp phần sàng lọc lại các tổ chức niêm yết trên sàn chứng khoán, đảm bảo được
chất lượng cổ phiếu trên sàn và là điều kiện để thực hiện tái cấu trúc thị trường
chứng khoán Việt Nam, mang lại một thị trường thực sự lành mạnh và minh bạch
trong giao dịch.
Hình 3: Biến động của VN Index từ năm 2000 - 2011
20
2.5.
Giai đoạn 2011 đến nay:
Quy mô của thị trường cổ phiếu.
Năm 2011: Thời khắc cuối cùng trong năm 2011 đã điểm trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, nói theo cách ví von, thì đây là “năm thiên tai đại hạn” của thị
trường.
Trong năm qua, các nhà đầu tư trên thị trường đã liên tiếp phải gánh chịu những
“cơn lốc xoáy”, tại nhiều thời điểm hầu hết các chuyên gia cùng thống nhất đưa ra
nhận định về mức giá cổ phiếu niêm yết đã quá rẻ.
- Tuy nhiên, càng bắt đáy nhà đầu tư càng thua lỗ và cuối cùng là "chạy càng
nhanh càng tốt." Đến thời điểm này, hầu hết các nhà đầu tư đều nghiệm ra rằng có
lẽ tốt hơn cả là “ngồi chơi xơi nước”, gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và hiệu quả
gấp nhiều lần so với việc "nhảy vào, nhảy ra" trên thị trường chứng khoán.
- Thêm vào đó, mặc dù giá hàng loạt cổ phiếu đã chạm sàn do tâm lý thị trường và
áp lực bán bắt buộc, song việc dồn ứ một lượng lớn cổ phiếu không tìm được người
21
mua khiến tình hình càng thêm trầm trọng, VN-Index lao từ mức đỉnh 522 điểm
(9/2) về vùng đáy 383 điểm (12/8), giảm 139 điểm (- 27%), nhưng HNX-Index còn
thảm hại hơn khi không có lực đỡ từ nhóm các cổ phiếu vốn hóa lớn như người bà
con phía Nam, chỉ số này rơi tự do từ đỉnh 114 điểm (31/12) về vùng đáy 65 điểm,
giảm 49 điểm (-43%).
- Những ngày cuối cùng của năm 2011, thị trường chứng khoán chứng kiến mức
đáy sâu nhất trong lịch sử của HNX-Index tại mức 56 điểm (27/12) và giảm 50%
so với mức đỉnh trong năm và VN-Index cũng chính thức ghi nhận mức đáy 347
điểm (27/12) và giảm 34% so với mức đỉnh trong năm. Về quy mô giao dịch thị
trường cả năm, tổng khối lượng giao chứng khoán giao dịch trên Sở giao dịch
Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) đạt 8.303 triệu đơn vị, giá trị tương ứng 160.395
tỷ đồng, tại Sở Hà Nội (HNX) là 7.944 triệu cổ phiếu, giá trị tương ứng 95.847 tỷ
đồng. Kết thúc phiên giao dịch khép lại năm 2011, thị trường bất ngờ khởi sắc với
việc VN-Index tăng 1,04 điểm (+0,30%), đóng cửa tại mốc 351 điểm. Chỉ số HNXIndex tăng mạnh 1,13 điểm, (+1,96%) chốt tại mốc 58,74 điểm.
Năm 2012:TTCK Việt Nam đi qua năm 2012 nhiều sóng gió với những
cung bậc cảm xúc thăng trầm đan xen nhau: Từ hồ hởi, hưng phấn trong màu xanh
mơn man điểm xuyết sắc hồng tím trong gần 5 tháng đầu năm đến buồn rầu, ảm
đạm kéo dài xen lẫn hoang mang, lo sợ trước một số tin đồn trong suốt những
tháng giao dịch sau đó, và rồi lại nhen nhóm niềm tin và hy vọng trong tháng cuối
cùng của năm trước những tín hiệu về việc Chính phủ sẽ có chính sách giải quyết
những “điểm nghẽn” lớn trong nền kinh tế như nợ xấu ngân hàng, phá băng thị
trường BĐS, hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…
Nhìn tổng thể diễn biến thị trường trong suốt một năm qua, có thể nhận thấy TTCK
Việt Nam đã đi trọn một chu kỳ hình Sin: có lên có xuống, có đáy có đỉnh, có khi
rạo rực với những cảm xúc thăng hoa nhưng cũng đã từng có lúc u ám, hoảng loạn.
Đã có người từng ví von diễn biến của TTCK Việt Nam năm 2012 như kịch bản
của một bộ phim Holywood: mở màn đầy cao trào, diễn biến kịch tính và một kết
thúc có hậu. Vẫn biết đó là quy luật muôn thủa của thị trường, nhưng theo nhận
22
định của nhiều chuyên gia, 2012 được coi là một năm nhiều khó khăn nhất trong
lịch sử hơn 12 năm hoạt động của TTCK Việt Nam.
Đã 5 năm kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, TTCK thế
giới và trong nước cùng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Tuy nhiên, thống kê
của CtyCK Kim Eng cho thấy: trong khi hầu hết các TTCK trên thế giới và trong
khu vực như Indonesia, Thái Lan, Philippines... vượt qua đỉnh ở tháng 5 và tăng
trưởng trở lại thời gian sau đó khi mà những nhà lãnh đạo ở châu Âu tìm ra giải
pháp tạm thời cho những vấn đề của họ và Mỹ đưa ra gói nới lỏng định lượng lần 3
(QE3) thì TTCK Việt Nam lại không đi theo xu hướng này. Nếu chỉ nhìn thoáng
qua con số sụt giảm tới 600 điểm của chỉ số VN Index trong năm 2008 so sánh với
mức tăng tổng cộng 63,73 điểm (18,3%) của chỉ số này trong cả năm 2012 thì
không ít người sẽ nghĩ rằng TTCK Việt Nam đã tăng trưởng hơn rất nhiều so với 5
năm trước. Nhưng khi xét về giá trị cổ phiếu mới thấy sự trải nghiệm lớn hơn rất
nhiều. Nếu như trong năm 2008, thị trường điều chỉnh sau những đợt tăng điểm
quá nóng để trả về giá trị thực cho các mã cổ phiếu trên thị trường, thì đến năm
2012, có tới 80% mã cổ phiếu có giá trị dưới mệnh giá, trong đó ghi nhận những
mã cổ phiếu với giá trị giao dịch chỉ còn 200 đồng/cổ phiếu (SME) - mức thấp nhất
trong lịch sử TTCK Việt Nam.
Trước bối cảnh đó, cơ quan quản lý đã thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những
khuyết tật nội tại trong cấu trúc thị trường. Ngoài những nguyên nhân như nợ xấu
ngân hàng, BĐS đóng băng, hàng tồn kho tăng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn... thì có nguyên nhân quan trọng là những
tồn tại trong bản thân thị trường. Lúc thị trường khó khăn nhất sẽ là lúc những tồn
tại và yếu kém của thị trường được bộc lộ rõ nhất. Tất cả những vấn đề bất cập
nhất, nhức nhối nhất của thị trường đã được động chạm tới để tìm ra phương cách
xử lý như: quá nhiều CtyCK, quản trị rủi ro yếu, chất lượng nhân lực người hành
nghề kinh doanh chứng khoán, chất lượng hàng hóa trên TTCK... Và thời gian này
cũng là dịp để cơ quản quản lý nhìn lại quá trình vận hành thị trường thời gian qua,
đồng thời phân tích sâu những cơ hội và thách thức cũng như cân nhắc các yếu tố
cần thiết để TTCK vận hành ổn định và hiệu quả trong dài hạn.
23
Năm 2013:
TTCK Việt Nam năm 2013 đã có những diễn biến khả quan nhờ vào những tín hiệu
ổn định kinh tế vĩ mô; các giải pháp vĩ mô đã dần phát huy tác dụng và các giải
pháp tích cực trong lĩnh vực chứng khoán, cụ thể như sau:
Diễn biến chỉ số giá thị trường: Tính đến ngày cuối của năm 31/12/2013, chỉ số VN
- Index đứng ở 505 điểm, tăng 23%; HN - Index đứng ở mức 67 điểm, tăng 15% so
với cuối năm 2012. TTCK Việt Nam được đánh giá là một trong trong số 10 nước
có mức độ phục hồi mạnh nhất và có mức tăng cao so với các thị trường trên thế
giới.
- Mức vốn hóa thị trường: Mức vốn hóa vào khoảng 964 nghìn tỷ đồng (tăng 199
nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2012), tương đương 31% GDP.
- Giá trị giao dịch: Việc kéo dài thời gian giao dịch, áp dụng lệnh thị trường, nới
biên độ giao dịch, điều chỉnh tỷ lệ giao dịch ký quỹ từ 40/60 lên 50/50 cũng đã hỗ
trợ giúp tăng thanh khoản thị trường. Quy mô giao dịch bình quân mỗi phiên đạt
2.578 tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2012, tuy nhiên, chủ yếu là nhờ giao dịch trái
phiếu chính phủ (TPCP), bình quân mỗi phiên đạt 1.257 tỷ đồng/ phiên, tăng 90%,
(riêng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đạt 1.322 tỷ đồng, tăng nhẹ 1,5% so với năm 2012).
- Hoạt động niêm yết và huy động vốn: Tính chung đến cuối năm 2013, trên 2 sàn
có 683 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá
là 361 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với năm 2012.
- Hoạt động của các công ty niêm yết: Trong 6 tháng đầu năm 2013, các doanh
nghiệp nói chung vẫn gặp nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh sụt giảm cả về
doanh thu và lợi nhuận so với cùng kỳ năm 2012 (số công ty có lỗ lũy kế vẫn
chiếm tỷ lệ 21%, tăng so với mức 17% cùng kỳ năm trước; tổng doanh thu giảm
1,2%; lợi nhuận sau thuế giảm 6%). Trong quý III/2013 thì tổng doanh thu toàn thị
trường tăng khoảng 4,4%, hàng tồn kho giảm 4,5%, chi phí tài chính giảm 24,3%
nhưng tổng lợi nhuận sau thuế vẫn giảm hơn 5% so với quý II/2013.
Nếu tính 9 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 thì tổng doanh thu
của các công ty niêm yết tăng khoảng 17 nghìn tỷ đồng (2,9%), tổng lợi nhuận sau
thuế tăng 19,1 %; chi phí tài chính giảm 12%; tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
24
(ROE) tăng 8,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ công ty có lỗ lũy kế ở mức 20%, vẫn tương
đương năm 2012; hàng tồn kho tăng 3,6% so vơi cùng kỳ năm 2012. Điều này cho
thấy các công ty làm ăn có lãi thì tiếp tục có kết quả khả quan, còn các công ty đã
bị lỗ thì tiếp tục lỗ nhiều hơn. Nếu so với các doanh nghiệp chưa niêm yết, các
công ty niêm yết vẫn có khả năng lợi nhuận cao hơn.
- Hoạt động đầu tư: số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt khoảng 1,27 triệu tài khoản,
trong đó số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài tăng lên. Trong 7 tháng đầu
năm, dòng vốn nước ngoài vào thuần đạt 175 triệu USD, tăng 25% so với cùng kỳ
năm ngoái và có hiện tượng rút ra khỏi thị trường trong tháng 8 và tháng 9. Tính từ
đầu năm, dòng vốn nước ngoài ra thuần là 15 triệu USD, tuy nhiên, tổng dòng vốn
nước ngoài luân chuyển đến nay đạt 4,4 tỷ USD, tăng 54% so với cùng kỳ năm
ngoái và giá trị danh mục tăng khoảng 3,8 tỷ USD so với cuối năm 2012.
Tình hình TTCK Việt Nam có dấu hiệu khả quan trong những tháng đầu năm 2013
do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI) đã có xu hướng ổn định, đến tháng 11
tăng 5,5% so với cuối năm 2012; chỉ số sản xuất công nghiệp đã tăng 5,6% so với
cùng kỳ năm ngoái; nhập siêu được kiểm soát ở mức thấp 96 triệu USD trong 11
tháng đầu năm.
Hai là, mặt bằng lãi suất có chiều hướng giảm dần; tăng trưởng tín dụng có
cải thiện;
Ba là, thị trường ngoại hối trong xu thế ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng.
Bốn là, dòng vốn FDI đạt khoảng 20,8 tỷ USD, tăng 54,2% so với cùng kỳ
năm ngoái; quy mô dòng vốn đầu tư gián tiếp tăng.
Năm là, các giải pháp đối với thị trường như giảm thuế với chuyển nhượng
chứng khoán, kéo dài thời gian giao dịch, áp dụng lệnh thị trường, nới biên độ giao
dịch, điều chỉnh tỷ lệ giao dịch ký quỹ từ 40/60 lên 50/50;
Sáu là, công tác tái cấu trúc TTCK được đẩy mạnh, đặc biệt là vấn đề sắp
xếp lại các tổ chức kinh doanh chứng khoán và việc ban hành các quy định mới về
quỹ mở, triển khai giao dịch ETF đã tạo điều kiện thu hút dòng vốn đầu tư nước
ngoài, nhất là các tổ chức đầu tư nước ngoài.
25