Tải bản đầy đủ (.pdf) (625 trang)

phương đông lướt ngoài cửa sổ paul theroux

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 625 trang )


Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ
Paul Theroux
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com





Thông tin ebook:

Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Tên sách: Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ
Nguyên tác: The Great Railway Bazaar
Tác giả: Paul Theroux
Dịch giả: Trần Xuân Thủy
Nhà xuất bản: Thế Giới
Công ty phát hành: Nhã Nam
Số trang: 548
Trọng lượng: 638 g
Hình thức bìa: Mềm


Kích thước: 14 x 20.5 cm
Giá bìa: 110.000
Năm xuất bản: 2012
***
Thực hiện ebook: Hoàng Liêm
Ngày hoàn thành: 11/11/2013
Nơi hoàn thành: Hà Nội
/>



Ebook không mang tính chất thương mại, để chia sẻ
tới các bạn yêu sách ở xa, hoặc không có điều kiện mua sách
giấy. Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ và
tôn trọng nhà xuất bản.


Giới thiệu nội dung:

Với Paul Theroux, những chuyến tàu phương Đông
giống như những phiên chợ hấp dẫn ông với vẻ tràn trề hương
vị và màu sắc, bởi nét bí ẩn, lạ lùng không sao lý giải. Ông đã
lên những chuyến tàu ấy, bốn tháng trời đi khắp châu Á, để vẽ
nên từng mảnh ghép trên bức tranh phương Đông rộng lớn:
Thổ Nhĩ Kỳ với nền văn hóa đặc sắc cùng ẩn ức về giới tính,
Afganistan trong cơn bất ổn, Ấn Độ long lanh đền đài nhưng
nghèo đói và hoang đường, Singapore ngăn nắp đến từng li,
Thái Lan dậy mùi giải trí và tình dục, Nhật Bản tiện nghi nhưng
con người dường như đã thành cỗ máy...

Ông cũng ghé đến Việt Nam, lên con tàu băng qua
đèo Hải Vân, ngỡ ngàng nhận ra trong suốt cuộc hành trình,
đây là vùng đất của những cảnh tượng thiên nhiên thơ mộng
nhất...


Ngòi bút của ông đã khiến châu Á hiện ra như có thể
chạm vào, nếm được, ngửi thấy, và khơi dậy trong ta nỗi thôi
thúc một ngày bỏ xa cuộc sống nhàm nhạt quen thuộc, đeo
hành lý và nhảy lên một con tàu nào đó, để nếm trải mọi thanh

âm của cuộc sống bao la.


Giới thiệu tác giả:

Paul Theroux sinh ngày 10/4/1941 tại Medford,
Massachusetts, Mỹ, trong một gia đình có 7 anh em. Suốt
những năm tháng tuổi trẻ, ông đi nhiều nơi như Italia, Malawi,
Uganda, Singapore, đến năm 30 tuổi mới cùng vợ con định cư


ở London. Nhưng cuộc đời ông đã được phán quyết trong
chính những năm tháng sống và dạy học ở châu Phi đầy sôi
động: ông quyết định trở thành nhà văn, không phải nhà văn
của những bí ẩn nội tâm, mà là nhà văn của những chuyến đi,
của những con người và vùng đất xa xôi.
Năm 1973, ông bắt đầu thực hiện chuyến đi vòng
quanh châu Á để viết Phương Đông lướt ngoài cửa sổ lừng
danh - cuốn du ký đầu tiên những ngay lập tức biến Paul
Theroux thành một tên tuổi lớn. Sau đó ông còn những chuyến
đi và các cuốn du ký nổi tiếng khác như The Old Patagonian
Express, The Happy Isles Of Oceania, Riding the Iron
Rooster, Dark Star Safari, Ghost Train to the Eastern
Star... Ông cũng viết nhiều tiểu thuyết, hai cuốn The
Mosquito Coast và Dr Slaughter đã được dựng thành phim
rất thành công.
Hiện Paul Theroux sống ở cả Hawaii và Cape Cod
thuộc Massachusetts cùng người vợ thứ hai, viết sách và nuôi
ong. Ông đã từng tự mô tả mình: “Nói gọn đời tôi trong bảy
từ, thì đó là: Ngạc nhiên, vui sướng, may mắn, kín đáo, thân

mật, nhiệt thành và người Mỹ”.


Những lời khen tặng của báo chí:

“Một trong 20 cuốn sách du ký hay nhất mọi thời
đại.”
(Nhật báo Telegraph)

“Theroux đã khởi xướng cho cuộc bung nở của thể
loại du ký hiện đại với Phương Đông lướt ngoài cửa sổ,
cuốn sách đạt thành công lớn lao và vang dội, ghi lại cuộc
hành trình dài 40 nghìn cây số xuyên châu Á của ông.”
(Jennifer Schuessler, The New York Times)

“Một trong những cuốn sách thú vị nhất tôi từng
đọc… với những chi tiết cực kỳ hài hước.”
(Angus Wilson, nhà bình luận của tờ Observer)


“Paul Theroux đã mang đến cho chúng ta một chuyến
lãng du tuyệt vời.”
(William Golding, tác giả Chúa Ruồi, Nobel Văn học
1983)

“Theroux đã đóng góp vào sự hồi sinh của thể loại du
ký với Phương Đông lướt ngoài cửa sổ, nâng thể loại thiếu
sinh khí này ra khỏi chốn ẩn mình cô độc, đem cho nó một
giọng chì chiết và gay gắt, đưa nó lang thang qua những trải
nghiệm đa dạng đến kỳ lạ của con người.”

(Jason Goodwin, The New York Times)


Mục Lục

Chương 1.
Chương 2.
Chương 3.
Chương 4.
Chương 5.
Chương 6.
Chương 7.
Chương 8.
Chương 9.
Chương 10.
Chương 11.


Chương 12.
Chương 13.
Chương 14.
Chương 15.
Chương 16.
Chương 17.
Chương 18.
Chương 19.
Chương 20.
Chương 21.
Chương 22.
Chương 23.

Chương 24.
Chương 25.


Chương 26.
Chương 27.
Chương 28.
Chương 29.
Chương 30.


“Tặng những người đã mất, những ai bị đọa đày
Tặng những đồng hữu của tôi trong nỗi buồn viễn
xứ...”

Và tặng anh chị em của tôi, Eugene, Alexander,
Ann-Marie, Mary Joseph, Peter, với tất cả yêu thương.


Chương 1.
Chuyến tàu 15 giờ 30 - từ Luân Đôn đi Paris

Thuở nhỏ, khi sống trong khu vực quanh Boston và
bang Maine, hiếm khi tôi nghe thấy tiếng tàu hỏa đi qua và
cũng chẳng dám mơ ước được ngồi trên tàu. Tiếng còi tàu
khiến người ta mê mẩn: tuyến xe lửa là một phiên chợ hấp dẫn
khó cưỡng, lượn đi ngoằn ngoèo trên muôn nẻo đường, tốc
độ khiến ta phấn chấn hơn và chẳng bao giờ gặp rắc rối gì khi
uống nước. Tàu hỏa có thể đảm bảo an toàn cho bạn ngay cả
ở những nơi kinh khủng nhất - không phải lo lắng, sợ hãi đến

toát mồ hôi rằng máy bay có thể gặp nạn, cũng không có cảm
giác đầy nôn nao khi đi xe buýt đường dài, hoặc cảm giác tê
cứng mà hành khách đi xe hay gặp. Nếu một đoàn tàu hỏa đủ
lớn và thoải mái, thậm chí bạn chẳng cần tới điểm đến, một
góc ghế ngồi là đủ và bạn có thể là một trong những hành
khách luôn chuyển động, lướt đi trên đường ray, không bao
giờ tới đích và cũng không cần phải đến - giống như một
người đàn ông may mắn sống trên đoàn tàu của Ý, vì ông ta
về hưu và được đi miễn phí. Thà được ngồi trong khoang
hạng nhất còn hơn là phải đến đích, như nhà văn Anh quốc


Michael Frayn đã từng biến đổi lời của McLuhan: “Cuộc hành
[1]
trình chính là cái đích.” Nhưng tôi đã chọn châu Á và rất
vui khi nhận ra rằng cuộc hành trình này sẽ kéo dài nửa vòng
trái đất.
Châu Á hiện ra bên ngoài cửa sổ còn tôi lướt đi xuyên
lục địa này trên những chuyến tàu tốc hành hướng về phương
Đông, đầy háo hức với những phiên chợ ngay bên trong tàu,
cũng như những phiên chợ mà tàu chúng tôi đã hú còi đi qua.
Bất cứ cái gì cũng có thể xảy ra trên tàu: một bữa ăn ngon,
một bữa nhậu say sưa, chuyến thăm của những tay bài bạc,
một vụ tằng tịu, một giấc ngủ đêm ngon lành, những màn độc
thoại của kẻ xa lạ nào đó có bố cục như những truyện ngắn
Nga. Ngay từ đầu tôi đã có chủ ý sẽ lên bất kỳ chuyến tàu
nào đập vào mắt mình miễn là đi từ ga Victoria ở London tới
nhà ga trung tâm Tokyo, để rẽ qua Simla, lượn qua đèo
Khyber và đi qua đoạn nối giữa đường ray Ấn Độ và
[2]

Ceylon , hoặc đi chuyến tốc hành Mandalay, Mũi tên vàng
Malaysia, những chuyến tàu ở Việt Nam và những tuyến
đường sắt có tên hấp dẫn như Tốc hành Phương Đông, Ngôi
Sao Phương Bắc, Xuyên Siberia.
Tôi tìm kiếm những chuyến tàu, tôi gặp những hành
khách.
Người đầu tiên là Duffill, tôi nhớ ông ta vì tên của ông


sau này đã được Molesworth, và sau đó là tôi, dùng như một
động từ. Ông ta đứng ngay phía trước tôi trong khi xếp hàng
ở thềm chờ số 7 tại ga Victoria, “Khu vực khởi hành đi lục
địa.” Duffill đã có tuổi, mặc bộ đồ quá rộng so với khổ người,
chắc hẳn vì vội vàng quá nên ông ta đã mặc nhầm quần áo,
hoặc cũng có thể ông ta vừa xuất viện. Ông ta bước đi, giẫm
đến nát gấu quần, tay cầm những gói đồ có hình thù kỳ quặc,
được bọc bằng giấy nâu và buộc dây xung quanh - trông
giống hành lý của một kẻ đánh bom cẩu thả hơn là một du
khách can đảm. Mấy tờ giấy ghi tên gài ở hành lý bay phất
phơ khi bị kéo đi, trên đó ghi tên ông ta là R. Duffill, địa chỉ ở
khách sạn Splendid Palas, Istanbul. Vậy là chúng tôi có thể
sẽ đi cùng nhau. Một bà góa chua ngoa đeo tấm khăn mạng
có thể còn hấp dẫn hơn, và nếu bà ta mang theo một cái túi
đựng đầy rượu gin cùng một khoản thừa kế thì lại càng tuyệt.
Nhưng chẳng có bà góa nào cả, chỉ có những người đi bộ
đường dài trở về Lục địa với những túi đồ mua từ tiệm
Harrods, những người bán hàng, những cô gái Pháp cùng mấy
người bạn chanh chua và những cặp vợ chồng người Anh tóc
muối tiêu đang chuẩn bị lên tàu, tay ôm cả đống tiểu thuyết, có
vẻ như đang sắp bước vào những cuộc phiêu lưu tình ái văn

chương tốn kém. Không ai đi xa hơn Ljubjana. Duffill đến
Istanbul - tôi tự hỏi lý do nào khiến ông ta đến đó. Tôi chỉ đi
có một mình. Tôi chẳng kiên định tin vào điều gì, cũng không
có nghề ngỗng - chẳng ai để ý đến việc tôi cứ im lặng, hôn vợ
rồi lên tàu một mình vào lúc 15 giờ 30.


Chuyến tàu rầm rầm đi qua Clapham. Tôi cho rằng
chuyến đi này nửa giống một chuyến bay nửa giống một cuộc
rượt đuổi, nhưng đến khi chúng tôi đi ngang qua những dãy
nhà gạch, những bãi than và các mảnh vườn sau chật hẹp của
khu ngoại ô phía Nam London, rồi đi qua sân trường trung
học Dulwich - bọn trẻ đang uể oải tập thể dục trong khi cổ
vẫn thắt cà vạt - tôi thả mình theo nhịp chuyển động của tàu và
quên hẳn những cột báo đã đọc suốt từ sáng; VỤ BÉ
KRISTEN: MỘT PHỤ NỮ BỊ BUỘC TỘI và KẾ HOẠCH
GIẢI THOÁT BÉ GÁI 9 TUỔI BỊ ĐÂM - MỘT TIỂU
THUYẾT GIA KHÔNG NÊU TÊN MẤT TÍCH, đại khái
vậy. Kế đó, sau khi đi qua một dãy những ngôi nhà sát vách
rồi chui vào một đường hầm và sau một vài phút chìm trong
bóng tối, chúng tôi bước vào một khung cảnh tuyệt vời, những
cánh đồng bát ngát, đàn bò đang gặm cỏ, những người nông
dân mặc áo khoác xanh đang cho gia súc ăn. Chúng tôi trồi
lên bề mặt London, một thành phố u ám ẩm ướt nằm phía
dưới mặt đất. Ở Sevenoaks có một đường hầm khác, ngoài
cửa sổ một bên tàu hiện ra một bức tranh đồng quê kiểu
khác, những chú ngựa gõ gõ móng trên cánh đồng, đàn cừu
đang quỳ xuống, lũ quạ đậu trên nóc nhà máy sấy, hình ảnh
thoáng qua của dãy nhà lắp ghép. Từ cửa sổ bên kia hiện ra
nông trang kiểu thời vua James I với khá nhiều bò cái. Đó

chính là xứ Anh (England): giao thoa giữa ngoại ô và nông
thôn. Đôi khi những ngã tư trên các con đường làng cũng bị


cả một dãy dài xe ô tô nối đuôi nhau đến trăm mét gây tắc
nghẽn. Khách đi trên tàu khó chịu khi chứng kiến cảnh ách tắc
này và thường lẩm bẩm “Dừng lại đi, lũ dở hơi!”
Bầu trời cũ kỹ. Mấy cậu bé học sinh, mặc áo khoác
màu xanh sẫm, tay cầm gậy cricket và cặp sách, tất tụt xộc
xệch, đang cười đùa tinh nghịch bên thềm ga tại Tonbridge.
Chúng tôi vượt qua bọn trẻ, chẳng mấy chốc không còn nghe
thấy tiếng cười của chúng nữa. Chúng tôi không dừng lại, kể
cả khi đi qua ga lớn. Ngồi trong khoang ăn, tôi ung dung ngắm
cảnh bên một hộp trà cũ nát, trong khi đó, ông Duffill ngồi
khom lưng, mắt không rời những túi đồ, tay khuấy trà bằng
dụng cụ ép lưỡi của bác sĩ. Chúng tôi qua những cánh đồng
vùng Kent, nơi mang dáng dấp lộn xộn của miền Địa Trung
Hải vào tháng Chín; qua một khu cắm trại của người Digan,
mười bốn chiếc xe lưu động cũ rích, mỗi chiếc đều có một
đống rác lù lù ở ngay phía cửa trước; qua một nông trang và
cách đó khoảng mười hai mét, là một điền trang chung quanh
treo rất nhiều loại quần áo thú vị: loại quần ngắn chỉ quá đầu
gối, quần chẽn dài, xu chiêng đen có khuy bấm, những dây
treo mũ và tất, tất cả cấu thành một thông điệp phức tạp, như
kiểu cờ hiệu của những ngôi nhà ủ dột này.
Việc chúng tôi đi liên tục không dừng tạo cảm giác
rằng chuyến tàu này đang vội vã vì một mục đích nào đó.
Chúng tôi phóng tới bờ biển để vượt qua eo biển. Nhưng đó
là một màn kịch giả. Ngồi bên bàn của mình, Duffill gọi tách



trà thứ hai. Đoàn tàu đen sì từ Ashford lù lù hiện ra từ xa rồi
đi vụt qua và chúng tôi đi qua vùng đồng cỏ trập trùng ở vùng
lầy Romney Marsh, tiến thẳng tới Folkestone. Vào thời điểm
đó, tôi đã bỏ lại nước Anh ở sau lưng. Những hành khách
khác cũng vậy. Tôi quay trở lại toa của mình, lắng nghe những
giọng ca Ý cao vút và có thêm tự tin khi chắc chắn rằng chúng
tôi đang ở rìa nước Anh. Vài người Nigeria, một nhóm bộ tứ
luôn lắc lư đầu - hai người đội mũ Homburg, một người quấn
khăn trên đầu và một người đội mái tóc giả hình tổ ong - họ
hát tiếng Yoruba, có vẻ như đang bật ra từng từ, mấp máy
môi để hoàn thành từng âm tiết. Mỗi người lại nói theo giọng
riêng của mình, khiến những người Anh càu nhàu khó chịu và
ngoảnh mặt đi hướng khác.
“Ôi, nhìn này,” một người phụ nữ thốt lên khi mở chiếc
khăn tay trên đùi ra.
“Thật khéo léo và gọn gàng,” một người đàn ông ngồi
bên cửa sổ nói.
“Hoa tươi đấy,” người phụ nữ nhẹ nhàng lấy khăn bịt
lên mũi và quay đi hướng khác xì mũi.
Người đàn ông nói: “Ủy ban nghĩa trang chiến tranh
chăm sóc hoa đấy.”
“Họ làm tốt quá.”


Một người nhỏ thó mang những gói đồ bọc giấy báo
buộc dây chằng chịt bước dọc trên lối đi, cùi chỏ đập vào cửa
sổ hành lang. Đó là ông Duffill.
Người phụ nữ Nigeria vươn người về phía trước để
đọc tấm biển nhà ga “Frockystoon”. Giọng phát âm sai có vẻ

như một lời châm biếm và người phụ nữ này trông chẳng ấn
[3]
tượng chút nào giống như quý bà Glencora
của nhà văn
Trollope (bà ta mong muốn được nhìn thấy Folkestone hơn tất
thảy).
Cơn gió màu xám chì gờn gợn mưa phùn từ bến cảng
thổi vào mắt tôi. Tôi nheo mắt lại vì gặp phải cái lạnh khi đợt
giá lạnh đầu tiên của tháng Chín tấp đến London, nó khuấy lên
trong tôi hình ảnh những cây cọ và cái nóng êm dịu ở Ceylon.
Cũng chính cái lạnh này khiến cuộc ra đi trở nên thật dễ dàng,
ra đi là một cách chữa bệnh: “Anh uống thuốc kháng sinh
chưa?” “Không, tôi nghĩ mình sẽ đi Ấn Độ.” Tôi mang túi lên
phà và bước thẳng vào một quán bar. Có hai người đàn ông
đứng tuổi đứng ở đó. Một người đang gõ gõ đồng florin lên
mặt quầy để thu hút sự chú ý của người phục vụ.
“Reggie dạo này quắt queo quá,” người đầu tiên nói.
“Ông nghĩ thế à?” người thứ hai hỏi.


×