Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÁC LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.08 KB, 8 trang )

CÂU HỎI MÁC-LÊNIN
Câu 1: Nhận định lần thứ 7 của Đảng: “Mọi chủ trương chính sách của Đảng phải
xuất phát từ thực tại khách quan, tôn trọng quy luật khách quan”, anh/chị hãy sử
dụng kiến thức đã học chứng minh nhận định trên,cho VD minh họa.
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư
tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý luận của
triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ
Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan".Việc tìm
hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng
đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học.
Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất , không thể
hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học
cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách
quan” , “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt
cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức thông
thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định . Phong
tục, tập quán , thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất định đó là thực
tiển xã hội –lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học đời cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là
những tiên đề về kinh tế chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư
tưởng , văn hoá nhân loại cùng với thiên tài của MÁC và Ăngghen .
Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó củng
luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức .
Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất . Với tính độc lập tương đối của
mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người .
Trong nhận thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát huy tính năng động


sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhận thức, tác
động cải tạo thế giới. Quan điểm khách quan trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí.


Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức,
tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui luật khách quan, xa rời hiện
thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất .
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt
bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật
chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các
thành phần kinh tế ….Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã
có hiện tượng nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa ,
nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy
trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với
thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý
luận, do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng
ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của
vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành
động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là
tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây
dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ .
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách
quan của đất nước và phù hợp qui luật . Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện

thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm bắt thông tin
về thực tế khách quan chính xác , đầy đủ trung thực và xử lý các thông tin ấy một cách
khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh
của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới
khách quan .
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức .Đảng ta xác định
"Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách
quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan). Như vậy , từ chủ
nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất và ý thức, củng như từ những kinh nghiệm


thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta đả rút ra bài
học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay,
trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta
không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước đã trãi qua.
Câu 2: Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm toàn diện là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất
cả các mặt, các yếu tố kể cả các mặt khaai trung gian, gián tiếp có lien quan đến sự vật.
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải nghiên cứu nó trong điều
kịện thời gian và không gian nhất định.Phải nghiên cứu quá trình vận động của nó trong
quá khứ hiện tại và dự kiến tương lai.
Cở sở lí luận của 2 quan điểm trên là xuất phát từ nguyên lý về mối quan hệ phổ biến của
các sự vật, hiện tượng trên thế giới.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ
ràng buộc lại với nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau. Mối liên hệ phổ biến chỉ ra tính
phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của TG, đồng thời cũng dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của TG.

Theo Triết học Mác, mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan vốn có của
bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ biến. Xét về nhiều mặt không
gian, thời gian, cấu tạo của các sự vật, hiện tượng hay quá trình nào thì mỗi sự vật, hiện
tượng là một chỉnh thể riêng biêt, song chúng tồn tại không phải trong trạng thái biệt lập
tách rời tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không
có bất kì sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu
tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là
một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và biến đổi lẫn nhau.
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà không có mối
quan hệ, liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội.Đây chính là sự tồn
tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.Trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn
cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt của đời sống xã hội.Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
vốn có của sự liên kết giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa
dạng, phong phú của mối liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ
được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối
liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của


nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những
điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Đòi hỏi trong nhận thức và xử lí các
tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.Đồng
thời chống lại các quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn, cũng như

đánh giá ngang bằng vị trí của các loại quan hệ.Đồng thời trong việc nhận thức và xử lý
các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi
mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp dung
đắn và có hiệu quả xử lý các vấn đề thực tiễn cũng như khắc phục các quan điểm chiết
trung, ngụy biện, không cơ sở, không luận cứ.
Thực tiễn 19 năm đổi mới ở nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính dung đắn
của những quan điểm trên. Chúng ta có thể thấy sự ổn định, đứng vững và từng bước
phát triển của đất nước trước những biến cố của thế giới đặc biệt là sự sụp đổ của Liên
Xô (1991) và các nước Đông Âu đẫ thể hiện rõ tính dung đắn của Đảng và Nhà nước ta
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ là
mô hình XHCN tập trung, bao cấp chứ không phải là CNXH với một tư cách là xã hội
cao hơn CNTB. Nước ta đã có một thời chìm sâu trong cơ chế đó nhưng Đảng và Nhà
nước ta đã đưa đất nước dần thoát khỏi tình trạng nghèo đói, đời sống của người ngày
càng được nâng cao.
Từ những điểm trinh bày trên đây có thể rút ra kết luận, vận dụng quan điểm toàn diện
và quan điểm lịch sử cụ thể là một điều đúng đắn trong sự nghiệp đổi mới đất nước , đưa
đất nước đi lên với mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Câu 3: Chứng minh rõ luận điểm: “ Thực tiễn không có là lí luận là thực tiễn mù
quán. Lí luận không có thực tiễn là lí luận suông”:
“Nói đi đôi với làm” hay “Lý luận gắn liền với thực tiễn” là một trong những nguyên tắc
cơ bản và tổng quát được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo từ lý luận gắn liền với
thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn. Người nói: “ Thực tiễn không có là lí
luận là thực tiễn mù quán. Lí luận không có thực tiễn là lí luận suông”.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản
chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong
các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xa hội loài người.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan



hệ với thực tiễn
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực
tiễn giữ vai trò quyết định.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức (lý luận). Thực tiễn còn là tiêu
chuẩn của lý luận .
Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hoá, hiện thực hoá, mới có sức
mạnh cải tạo hiện thực.
Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận song theo CNDV biện chứng, lý luận có sự
tác động trở lại đối với thực tiễn.
Lý luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn,
vì thế, có thể nói, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn là cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả
hợn.
Lý luận CM có vai trò to lớn trong thực tiễn CM. Lênin viết : “Không có lý luận CM thì
không thể có phong trào CM”.
Giữa lý luận và thực tiễn cò sự liên hệ, tác động qua lại tạo điều kiện cho nhau cùng phát
triển.Bởi vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của CN MácLênin.
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng,
giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm :nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh
nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không
coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận, cũng như bệnh giáo điềulà
căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là
"chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn
để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý
luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình
trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn.

Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy rõ phải coi trọng lý luận nhưng không được
cường điệu vai trò của lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt
động cách mạng.Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật của xã hội
loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực.Tuy nhiên, lý luận phải gắn với thực tiễn,
phải được kiểm tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc tổng kết thực
tiễn.Trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta khi đất nước nảy sinh những vấn đềcần
được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên quan điểm, phương pháp luận của CN
Mác - Lênin và TT HCM để xem xét. Hàng lọat các vấn đề từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội... không thể giải quyết chỉ bằng lý luận mà đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện thông


qua thực tiễn, tổng kết thực tiễn, chỉ có như vậy công cuộc xây dựng CNXH của ta mới
giảm bớt chông gai, gập ghềnh.

Câu 4: Trình bày nội dung, quy luật, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Liên hệ sự vận dụng của Đảng CSVN
trong quá trình biến đổi mới của nước ta.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử loài người.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và
phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động
và đối tượng lao động) và người lao động với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động
Các yếu tố của lực lượng sản xuất:
+ Trong các yếu tố của LLSX thì nhân tố người lao động có vai trò quan trọng và quyết
định nhất, là chủ thể của quá trình hoạt động thực tiễn, không chỉ là người chế tạo ra mà
còn là người sử dụng và phát huy phẩm chất của TLSX, từ đó tạo ra của cải vật chất ngày
càng nhiều, qua đó người lao động còn phát triển về thể lực và trí lực lẫn kỹ năng lao
động. Ngày nay trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, vai trò của lao động trí tuệ

ngày càng đóng vai trò quyết định trong sản xuất.
+ Bên cạnh đó yếu tố công cụ lao động cũng có vai trò rất quan trọng trong LLSX,
CCLĐ không ngừng được cải tiến, biến đổi và hoàn thiện trong quá trình sản xuất nhằm
đáp ứng nhu cầu tăng năng suất lao động. Sự thay đổi của CCLĐ làm biến đổi toàn bộ
TLSX, qua đó biến đổi toàn bộ LLSX. Trình độ của CCLĐ chính là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong
lịch sử nhân loại.
+ Ngoài ra ngày nay vai trò của khoa học đối với sự phát triển của sản xuất và của xã hội
ngày càng trở nên quan trọng. KHCN đã thâm nhập sâu vào qúa trình sản xuất và trở
thành “ LLSX trực tiếp”.
Như vậy: LLSX bao gồm trình độ và tính chất. Sự thay đổi trình độ và tính chất của
LLSX trong tiến trình phát triển của xã hội) Kết hợp giữa người lao động (sức LĐ) với tư
liệu SX. Thì người LĐ giữ vai trò quyết định. LLSX chính là nội dung kinh tế kỹ thuật
của quá trình sản xuất xã hội.


QHSX: là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan
hệ sản xuất bao gồm ba mặt là quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ trong tổ chức và quản
lý quá trình sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Ba quan hệ này
thống nhất biện chứng với nhau, trong đó: quan hệ sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết
định đối với quan hệ tổ chức quản lý SX và quan hệ phân phối sản phẩm. QHSX là hình
thức kinh tế xã hội của quá trình sản xuất xã hội.
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX: Trong PTSX thì LLSX và QHSX tồn
tại gắn liền với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, trong đó LLSX là nội dung còn
QHSX là hình thức. LLSX thì thường xuyên biến đổi, QHSX thì ổn định tương đối.
Chính sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX trong một PTSX nhất định đã tạo
nên quy luật cơ bản, phổ biến của sự vận động phát triển của xã hội:
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Cụ thể như sau:
+ LLSX quyết định QHSX: Khi phương thức sản xuất mới ra đời, QHSX được xây dựng
phù hợp với trình độ phát triển hiện có của LLSX, tuy nhiên do LLSX không ngừng phát

triển đến trình độ nhất định, khi đó QHSX không còn phù hợp với LLSX. QHSX giờ đây
đã trở thành “Xiềng xích” kìm hãm, ngăn cản sự phát triển của LLSX. Do nhu cầu khách
quan của sự phát triển tất yếu dẫn tới sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của LLSX. Sự thay thế QHSX này cũng đồng nghĩa với việc thay
thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới. (Sự tương quan giữa
LlSX và QHSX thay đổi: từ chổ phù hợp dẫn đến bất phù hợp, dẫn đến mâu thuẫn, dẫn
đến giải quyết mâu thuẫn)
Ngày nay, cuộc cách mạng kinh tế xảy ra xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng QHSX
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX. Do người lao động thì không ngừng
lao động sản xuất, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra, yêu cầu trình độ phát triển
của LLSX phải cao hơn, khi đó QHSX cũ không còn phú hợp (mâu thuẫn), để giải quyết
mâu thuẩn này phải thông qua cuộc cách mạng kinh tế, dẫn tới mâu thuẩn giai cấp, cách
mạng xã hội xảy ra (lượng đổi, chất đổi). LLSX quyết định QHSX.
+ QHSX tác động đến LLSX: Do QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
LLSX, hơn nữa QHSX quy định mục đích của sản xuất, chi phối trực tiếp đến hoạt động
và lợi ích của người tham gia sản xuất, đến thái độ của người lao động, đến tổ chức và
phân công lao động xã hội,…nên nó có thể tác động đến sự phát triển của LLSX. Khi
QHSX phù hợp với trình độ phát triển (tính chất) của LLSX thì nó thúc đẩy LLSX phát
triển, ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên sự kì hãm đó chỉ
mang tính tạm thời, vì vai trò quyết định thuộc về LLSX, vì vậy sự kìm hãm đó cũng sẽ
bị xóa bỏ bằng cách thay thế bởi QHSX mới phù hợpvới trình độ phát triển của LLSX.
Tuy nhiên quá trình thay thế này không diễn ra một cách đơn giản, tự giác mà nó phụ


thuộc vào năng lực tự giác của con người. Trong xã hội có giai cấp quá trình này diễn ra
thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta:
Nước ta là nước có nền kinh tế kém phát triển, LLSX đa dạng khác nhau, do vậy ta phải
xây một QHSX đa dạng phù hợp LLSX đa dạng đó như: Xây dựng nền kinh tế nhiều

thành phần, mỗi thành phần kinh tế ứng với một quan hệ sở hữu, một kiểu tổ chức, quản
lý,…như thế nào cho phù hợp với sự đa dạng của LLSX.
LLSX nước ta đa dạng, thấp kém, nên muốn có một xã hội mới phải tạo ra LLSX mới, do
vậy phải thực hiện CNH, HĐH để phát triển LLSX ở trình độ nhất định. Chủ trương của
Đảng ta, lấy giáo dục đào tạo, phát triển công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển
LLSX và không ngừng điều chỉnh QHSX phù hợp với LLSX để kích thích cho sự phát
triển LLSX ở nước ta (cứ qua mỗi kỳ Đại hội Đảng ta đều điều chỉnh lại QHSX sao cho
phù hợp với LLSX trong tình hình thực tiễn. Vừa qua, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
XI) cũng đã xác định điều đó.



×