Lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có
vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội
truyền thống đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền
trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải
nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh
và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con
người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc
phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn.
1. Nhận diện lễ hội truyền thống
Lễ hội Chùa Hương
Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội” trong đời sống
con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của
chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm
thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn
những nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống.
Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ
hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển.
Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng
tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ
quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc
rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội
có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và
thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật
chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử.
Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện
đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du
lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ
truyền thống có số lượng nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội),
phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người
ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là
mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ
hội quốc gia. Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ
hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn
giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian…
Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi
cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá
trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá
vỡ. Ví dụ, nếu người Việt và người Tày chưa thực hiện nghi lễ “Hạ điền”, “Lồng tồng” thì việc
gieo hạt đầu mùa sẽ không thể thực hiện, đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi
tai”, đặt tên thì nó chưa thể trở thành con người, một chàng trai đến tuổi trưởng thành mà chưa
trải qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa thể trở thành một thành viên thực sự của cộng đồng,
một đôi nam nữ thanh niên chưa là lễ tơ hồng, lễ trình gia tiên thì không thể trở thành vợ chồng,
một người chết nếu chưa được thày Tào của người Tày chưa đến thực hiện nghi lễ gọi hồn đưa
hồn thì nghi lễ mai táng sẽ không được thực thi. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang
tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định.
Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy
mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến
đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung
xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú
và đa dạng như ngày nay.
So với các loại lễ hội khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trưng cơ bản sau:
- Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang tính thiêng, do vậy nó
thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt,
trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn
xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong
tục, nên nó vẫn thuộc về cái thiêng, như tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là
điển hình.
Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng,
tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời sống thường ngày. Ví dụ, diễn xướng
ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng, diễn xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn
xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xướng mang tính biểu
tượng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội.
Lễ hội Hùng Vương
- Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức hợp, một hiện
tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời
sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội,
các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải
trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại có thể
sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.
- Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng
đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói
cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất
định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ
hội.
Ba đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành vi,
tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự
kiện, các loại Festival...
Lễ hội cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác động bối cảnh
kinh tế - xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ
hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ
có những biểu hiện của ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối
cảnh xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục hồi, bảo tồn và
phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục dựng, làm mất đi các đặc trưng trên của lễ hội cổ
truyền thực chất là làm biến dạng và phá hoại các lễ hội đó.
2. Giá trị của lễ hội cổ truyền
Lễ hội Tịch Điền
Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ
hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu
hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu
của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ
hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:
Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng
xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà
thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng
họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố
kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do
cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công
hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh),
gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng
cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức
mạnh cộng đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”,
“cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và
phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều
kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố
kêt cộng đồng ấy.
Giá trị hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ
đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm
làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con
người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao
giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người
bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa,
với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội
như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên
của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc
cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn
hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức
xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu
của con người ở mọi thời đại.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là
đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người
ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín
ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín
ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời
sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống
trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được
“chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội
nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô
cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi
mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm
thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không
có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.
Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong
dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng,
ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được sống những giờ phút
giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý
đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức
ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống
hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng
liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.
Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn
cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện
các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao
giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh”
của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách
biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và
hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân
công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con
người đã phần nào tách biệt.
Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt”
các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao
tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như
vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá
trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào
xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con
người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra
quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền
là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.
Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn,
làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.
Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một
năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha,
tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người
người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến
đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các
làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng,
múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn:
Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như
thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc
sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?
Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống
của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy,
ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của
cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn
cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm
là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc!
3.Thực trạng hoạt động của các lễ hội truyền thống ở Việt Nam
Lễ hội Quan thế âm
Những hiệu quả không thể phủ nhận:
Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích
cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội; việc ban hành và thực thi các văn
bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội cho đến việc phục hồi và phát huy có
hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Hầu hết các lễ hội quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều được tổ chức các
nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia phần hội phong
phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng
lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, dân
ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân
tộc Việt Nam.
Mặt khác, việc tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền
thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và mỹ tục truyền
thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức
hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời, các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần
giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, làm
nên vẻ đẹp của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo.
Do phát huy vai trò chủ thể của người dân hoạt động lễ hội đã được xã hội hoá rộng rãi, huy
động được nguồn lực lớn từ nhân dân, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua
công đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn
hoá, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần bảo tồn các phong tục, tập quán truyền thống và hoạt
động phúc lợi công cộng.
Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của
hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của cho
các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng đồng trong tham gia
hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng
của các tầng lớp nhân dân.
Với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay việc tổ chức các lễ
hội kết hợp phát triển du lịch là mô hình mới được hình thành những năm gần đây và đang trên
đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn hóa và kinh tế thiết thực như những đánh giá
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch:
“Hoạt động lễ hội đã thực sự trở thành hoạt động văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.
Nhờ công tác chỉ đạo quyết liệt của Bộ và sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn như Thanh
tra Bộ, Cục Văn hóa cơ sở, Cục Di sản Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, trong mùa
lễ hội Xuân 2012 vừa qua, mộ số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức lễ hội đã có những thay
đổi cơ bản như Lễ hội chùa Hương ( Hà Nội), Đền Trần ( Nam Định). . .
Bốn cảnh báo về tổ chức 1ễ hội cổ truyền hiện nay:
Bên cạnh những điều đáng mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện nay, ta vẫn thấy
canh cánh những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do chiến tranh, do quan niệm ấu trĩ,
sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều, nay phục hưng trở lại, do vậy cũng không tránh
được lệch lạc, khiếm khuyết; công tác tổ chức và quản lý lễ hội đã và đang nảy sinh nhiều bất
cập, nhiều hạn chế và tồn tại. Tình hình đó được phản ánh thường xuyên, liên tục trên các
phương tiện thông tin đại chúng, tại nhiều hội nghị, hội thảo cho đến cả nghị trường của Quốc
hội, gây không ít bức xúc trong xã hội. Có thể khái quát thành bốn hiện tượng đáng cảnh báo
như sau:
Đơn điệu hoá lễ hội:
Văn hoá nói chung cũng như lễ hội nói riêng, bản chất của nó là đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng
mỗi vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu người xưa nói “Chiêng làng nào làng ấy
đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Hay người xưa khi nói về những nét riêng của lễ hội từng làng
của Xứ Đoài thì đã có câu ca :
Bơi Đăm, Rước Giá, Hội Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La
Như vậy, mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội
làng mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, hội
làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa dạng của lễ hội, du khách thập
phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa.
Trần tục hoá lễ hội:
Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó mang “tính thiêng”.
Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội nó được biểu hiện ở những hình
thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm, bén rễ từ đời sống hiện thực, trần tục, nhưng bản
thân nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là
ngôn ngữ biểu tượng. Ví dụ, 3 trận đánh giặc Ân của ông Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh
mang tính biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng hoá thành yếu tố “âm” của 28 cô gái. Để nói vận
hành của trời đất liên quan đến canh tác nông nghiệp của người nông dân, thì trong hội vật cầu
hay hội đánh phết, người xưa đã biểu trưng hoá quả cầu hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng
cho mặt trời, được đánh theo hướng đông tây là chuyển động của mặt trời…
Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là
cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục
hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và
như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.
Quan phương hoá lễ hội:
Văn hoá nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì dân.
Đó là cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát vọng tâm linh, thoả mãn nhu cầu
sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền
của, tâm sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân bản, khát
vọng dân chủ của người dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước
kia.
Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn
lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau
đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ
động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà
vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình
thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến
cho du khách hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.
Thương mại hoá lễ hội:
Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hoá lễ hội. Từ xa xưa,
trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn
đặc sản, mà hội chợ Viềng Ở Nam Định và các hội chợ vùng núi là hiện tượng điển hình. Chính
các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hoá, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng
bá các sản phẩm địa phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa
phương. Đó là các hoạt động rất đáng khuyến khích.
Tuy nhiên, cùng với xu hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động
mang tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ hội để thu lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy
hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”,
“khấn vái thuê”, bói toán, đặt các “hòm công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền
như trong lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho... Cũng không phải không có một số “tổ chức” mệnh
danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy hội. Những hoạt
động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức
thấp nhất của đời sống trần tục.
4. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống
Hội Lim
Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, xuất
hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại chúng cho rằng việc tổ chức lễ hội
và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả tai hại và
đề xuất các biện pháp mang tính hành chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người chưa hiểu rõ xu
hướng biến đổi của lễ hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế thị trường nên sốt
ruột đề ra các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có khuynh hướng coi nhẹ
vai trò quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do tổ chức lễ hội. Cả hai luồng
dư luận như vậy đều không đánh giá đúng thực tế. Có thể tham khảo một số giải pháp sau:
1. Về quan điểm:
Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự
kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì thế không nên có quan
điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức
các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực
tiễn trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể của
cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia các quá trình tổ chức lễ hội,
phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả. Đồng thời cũng không coi nhẹ việc quản lý của
nhà nước đối với lễ hội.
2. Đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng biến đổi của 1ễ hội và tổ chức sự kiện nhằm dự báo sát với
thực tiễn của tình hình lễ hội. Trong đó, cũng cần phân loại các loại hình lễ hội theo chức năng,
hoặc theo quy mô lễ hội (như lễ hội cấp thôn làng, lễ hội vùng, lễ hội liên vùng, liên tỉnh). Trong
thực tiễn, nhiều yếu tố tiêu cực, nhiều điểm hạn chế gây tác hại xấu đến đời sống văn hóa là việc
không quản lý chặt chẽ loại hình tổ chức sự kiện mới (có nhiều người gọi là lễ hội hiện đại, lễ hội
du lịch, hoặc festival).
Nhiều huyện, nhiều tỉnh đua nhau mở các lễ hội, tổ chức các sự kiện như các sự kiện kỷ niệm
năm chẵn thành lập địa phương, ngành. Tổ chức các festival quảng bá du lịch, tổ chức các lễ hội
đón nhận danh hiệu thi đua khá tốn kém...
Nguyên nhân xuất hiện của các loại hình lễ hội, tổ chức sự kiện mới này có những yếu tố tích
cực và cũng có những yếu tố tiêu cực. Ở các tỉnh, các địa phương kinh tế du lịch phát triển yêu
cầu tổ chức các festival, các sự kiện là một nhu cầu đúng và cần thiết. Việc tổ chức các sự kiện
này thực chất là việc quảng bá cho du lịch, giới thiệu về du lịch. Nhiều địa phương sau khi tổ
chức các sự kiện, du lịch phát triển rất mạnh, lượng du khách tăng từ 20 - 30% so với trước khi
tổ chức sự kiện. Trong nền kinh tế thị trường, việc tổ chức các sự kiện quảng bá là một yêu cầu
khách quan cần thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cá nhân (tâm lý thích “chơi trội”, tâm lý
chạy đua “con gà tức nhau tiếng gáy”, tâm lý thích đề cao những giá trị ảo...) nhiều địa phương
đua nhau tổ chức các sự kiện, các lễ kỷ niệm nhưng lại mang danh lễ hội. Thậm chí có nơi du
lịch không phát triển nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn tìm mọi cách đề nghị để được tổ chức năm quốc
gia du lịch rất tốn kém. Hậu quả là kết thúc năm quốc gia du lịch cũng không phát triển hơn,
lượng khách nước ngoài đến thăm tỉnh đó không bằng một phần của lượng du khách đến một
huyện du lịch trọng điểm. Vì vậy, nôn nóng quảng bá, lựa chọn các hình thức tổ chức sự kiện
không phù hợp cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho đời sống văn hóa. Trước thực trạng này,
cần phải quy định rõ về các tiêu chí để tổ chức các sự kiện lớn (ví dụ tỉnh nào có du lịch phát
triển mạnh mới được tổ chức năm du lịch quốc gia, tỉnh nào có điều kiện cơ sở hạ tầng phù hợp
mới được tổ chức các cuộc liên hoan, festival cho toàn vùng, như tổ chức liên hoan phim, tổ
chức festival khu vực).
Đối với loại hình lễ hội mới, tổ chức các sự kiện, festival mới đòi hỏi phải xây dựng quy chế quản
lý riêng, vừa chặt chẽ, khoa học, vừa phù hợp với thực tiễn chứ không cứng nhắc chủ quan theo
ý kiến của nhà quản lý.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 1ịch cần tổng kết thực tiễn, hội thảo tranh thủ ý kiến của các
chuyên gia, các nhà khoa học để ban hành bản quy chế quản lý lễ hội thay cho quy chế quản lý
lễ hội năm 2001 đã có nhiều điểm bất cập (có những yêu cầu cấm nhưng hầu hết các lễ hội vẫn
cứ thực hiện, như các dịch vụ gọi hồn, giải hạn, trừ tà, xem số... Việc đốt đồ mã cũng vậy, hầu
hết các lễ hội liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng vẫn đều thực hiện). Vậy những thực trạng này
cần được quản lý ra sao? Ngay về thời gian tổ chức lễ hộỉ, trong quy định của quy chế sẽ không
phù hợp với những lễ hội mang tính chất quảng bá du lịch. Vì hạn chế thời gian đối với loại hình
festival du lịch hoặc tổ chức sự kiện quảng bá du lịch sẽ dẫn đến việc hạn chế kéo dài thời gian
lưu trú của du khách, không phù hợp với lợi ích của nhà tổ chức. Hiện nay cơ quan quản lý nhà
nước đã có một số văn bản mang tính quy phạm pháp luật như: Quy chế thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ban hành theo quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25
tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ hoặc Thông tư số 04/2011 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Các văn bản này bước đầu đã đề cập những vấn đề quản lý mới nhưng riêng về lễ hội vẫn còn
nhiều yếu tố bất cập, chưa quản lý được các tình huống, chưa hướng dẫn các chế tài xử phạt
hoặc một số điểm còn bất cập, không đi vào thực tiễn. Cần phân biệt giữa lễ hội cổ truyền đang
biến đổi và các loại lễ hội mới, các sự kiện festival mới hình thành và du nhập để có các quy định
quản lý phù hợp.
4. Về đào tạo nguồn nhân 1ực và tổ chức bộ máy quản 1ý 1ễ hội: Hệ thống các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật du lịch các tỉnh cần có chương trình giảng dạy về việc tổ
chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo các cán bộ quản lý văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ
hội, xử lý đúng các tình huống xảy ra trong công tác quản lý ở địa phương.
Cục Văn hóa cơ sở cần thành lập phòng quản lý lễ hội và tổ chức sự kiện. Các Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đều có tổ hoặc chuyên viên chuyên về quản lý lễ hội và việc tổ chức các sự kiện.
Kinh nghiệm thực tiễn ở các địa phương đã chỉ rõ vấn đề tổ chức lễ hội thành công hay không,
hạn chế được những tiêu cực hay không đều phụ thuộc phần lớn ở ban tổ chức. Ban tổ chức lễ
hội (và tổ chức các sự kiện) đóng một vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong tổ chức
lễ hội, vì thế dù là lễ hội của thôn làng cho đến lễ hội quốc gia đều cần phải có ban tổ chức. Tuy
nhiên ban tổ chức cũng cần đề cao vai trò tự quản của người dân, tôn trọng cộng đồng, thu hút
được toàn dân tham gia vào việc tổ chức, quản lý lễ hội. Tránh tình trạng coi việc tổ chức lễ hội
là nhiệm vụ của các cấp chính quyền hoặc nhiệm vụ của ban tổ chức mà quên mất vai trò chủ
chốt của người dân địa phương.
5. Cục Văn hóa cơ sở, Hội Di sản, Hội Văn nghệ Dân gian, Viện Khoa học xã hội…cần tổ chức
nhiều hội thảo khoa học để bàn về quản lý lễ hội hiệu quả. Trong điều kiện các lễ hội đều có xu
hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời sống đương đại hoặc xuất hiện nhiều loại hình mới chưa
có trong xã hội truyền thống thì yêu cầu nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận về lễ hội là một
yêu cầu cấp bách.
Tựu trung, lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt, có sức sống từ ngàn đời nay,
chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội. Lễ hội đã đáp ứng nhu cầu thiết tha của dân tộc
ta trong quá khứ và trong hiện tại, giúp cho con người vượt qua tính vị kỷ cá nhân hướng về
đoàn kết cộng đồng, với đầy đủ sự sáng tạo và nhằm hưởng thụ văn hóa, lễ hội chứa đựng
nhiều dấu ấn về bản sắc văn hóa của dân tộc và điểm tối thượng của lễ hội cổ truyền là hướng
con người đến tinh thần yêu nước.Việc nhận thức, đánh giá đúng lễ hội truyền thống, việc bảo
tồn và phát huy lễ hội truyền thống là vô cùng cần thiết, để giá trị lễ hội luôn là một biểu trưng
hình thái xã hội mang đậm giá trị văn hóa dân tộc Việt.
Các lễ hội chính ở Tây Ninh
Đối tượng suy tôn: Linh Sơn Thánh Mẫu Đặc điểm: Hội xuân Núi Bà không chỉ là sự tự
do tín ngưỡng tôn giáo mà còn biểu hiện đậm đà bản sắc dân tộc.
Các lễ hội chính ở Tây Ninh
Lễ
hội
núi
Bà
Đen
Thời
gian:
15/1
âm
lịchĐịa
điểm:
thị
xã
ây
Ninh,
tỉnh
Tây
Ninh.Đối
tượng
suy
tôn: Linh Sơn Thánh MẫuĐặc điểm: Hội xuân Núi Bà không chỉ là sự tự do tín ngưỡng t
n
giáo
mà
còn
biểu
hiện
ậ
Hàng năm cứ ngày mùng 4 Tết nguyên đán, hàng nghìn người dân người từ
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và một số tỉnh miền Tây lại đổ
về hội Xuân chùa Bà nằm trên lưng chừng núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh để
thành kính dâng hương, cầu tài lộc.
Núi Bà Đen thuộc xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh cách trung tâm thị xã chừng
11km về phía Tây Bắc, khu di tích danh thắng núi Bà gắn với nhiều truyền
thuyết, tín ngưỡng dân gian được đánh giá là vùng đất tâm linh vào hàng bậc
nhất của vùng đất Nam Bộ.
Nơi đây có nhiều hang động, đền đài, am miếu thờ nhiều vị thần linh, tiên, thánh,
Phật. Trong đó vị thần chính là Bà Đen được sắc phong Linh Sơn Thánh Mẫu.
Hàng năm tại núi Bà Đen có hai lễ hội được nhiều người biết đến, đó là hội Xuân
núi Bà diễn ra từ đêm 18 và ngày 19 tháng Giêng Âm lịch, hội Vía Bà được tổ
chức từ ngày 4-6/5 Âm lịch.
Lễ hội Bà Đen hàng năm thu hút một lượng lớn du khách
Từ năm 2013, núi Bà Đen khai trương hệ thống cáp treo mới hiện đại và sức
chứa tới 8 người/cabin (cáp treo cũ 2 người/cabin) và hai hệ thống cáp treo này
chạy song song, nên người dân không còn phải chờ đợi lâu như trước để lên
cáp treo.
Hội Vía Bà khởi đầu bằng lễ Mộc Dục (tắm tượng) được tiến hành vào lúc 0 giờ
ngày 4 Tết tại điện thờ với ghi thức trang nghiêm. Người bên ngoài không được
tham dự và cửa điện được đóng kín, đèn nến cũng tắt gần hết.
Có 6 phụ nữ trung niên trong đó có ba ni cô của nhà chùa sẽ cử hành nghi thức
tắm tượng. Khi nghi thức tắm và thay áo cho tượng Bà vừa kết thúc, các phụ nữ
lại thắp nhang vái lạy Bà, lúc này nhang đèn trong điện cũng được thắp lên và
các cửa điện mở ra cho khách hành hương vào lễ bái.
Rất nhiều du khách tới núi Bà Đen để cầu nguyện
Trong suốt ngày này tại Điện Bà diễn ra các nghi thức lễ hội dân gian gồm hát
bóng rối chào mời, hát chặp bóng tuồng hài “Địa Nàng,” múa dâng bông, dâng
mâm ngủ sắc, múa đồ chơi (múa lu, múa lục bình, múa bông huệ…).
Ngày 5 Tết là ngày lễ vía chính thức của Bà cũng là ngày hội núi Bà. Nghi lễ
quan trọng nhất là “Trình thập cúng” dâng lên Bà 10 món gồm hương, đèn, hoa
quả, trà bánh, rượu… Trong ngày này các vị sư thay nhau tụng kinh liên tục
trước bàn thờ Bà.
Những nghi thức trong lễ hội núi Bà vừa có tính chất trang nghiêm của lễ thức
Phật giáo, vừa mang sắc thái tươi vui rộn ràng của tín ngưỡng dân gian, chuyển
tải một cách dung dị những ước mong của đại chúng về một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc… thể hiện rõ nét đặc trưng của nền văn hóa dân gian Nam Bộ.
TỔNG QUAN THÀNH PHỐ TÂY NINH
Điều
kiện
tự
nhiên.
- Vị trí địa lý.
Thành phố Tây Ninh là trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh biên giới phía
Tây Nam của Tổ quốc, với tổng diện tích tự nhiên sau khi được điều chỉnh ranh giới
theo Nghị định 46/2001/NĐ-CP, ngày 10/8/2001 của Chính phủ là 13.736.58 ha.
Hiện nay là 14.000.000 ha, chiếm 3.41% diện tích tự nhiên của tỉnh, có toạ độ từ
106012’00’’-106012’31” kinh độ đông và 11017’21”-11033” vĩ độ bắc.
+ Phía
Bắc
giáp
huyện
Tân Biên
và
Tân
Châu.
+
Phía
Nam
giáp
huyện
Hòa
Thành.
+
Phía
Đông
giáp
huyện
Dương
Minh
Châu.
+
Phía
Tây
giáp
huyện
Châu
Thành.
Địa
hình,
diện
mạo.
Tây Ninh có dáng địa hình nghiên dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, độ cao
trung bình từ 8-10m, với đặc trưng ở phía Bắc có núi Bà Đen cao 986m, còn lại địa
hình tương đối bằng phẳng, rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng
cũng
như
phát
triển
sản
xuất
nông
nghiệp.
Khí
hậu,
thời
tiết.
Thành phố Tây Ninh có khí hậu đặc trưng vùng Đông nam bộ, thời tiết tương đối ôn
hoà, mang tính chất nhiệt đới gió mùa, có lượng bức xạ cao và được phân bố đồng
đều trong năm. Thời tiết được chia làm 02 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5
đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Thủy
văn.
Thành phố có rạch Tây Ninh chảy qua với nguồn nước được cung cấp chủ yếu từ hệ
thống các suối Trà Phí, Lâm Vồ, suối Đà và một phần nhỏ từ hệ thống sông Vàm Cỏ
Đông, chế độ nước phân hoá theo mùa, dồi dào về mùa mưa, cạn kệt về mùa khô,
gây nên tình trạng ngập úng và khô hạn, nhất là khu vực phía bắc Thị xã, ảnh hưởng
không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân các xã Bình Minh, Tân Bình,
Thạnh
Tân….
Các
nguồn
tài
nguyên.
Tài
nguyên
đất.
Thành
phố
Tây
Ninh
có
những
nhóm
đất
sau:
Nhóm đất xám:
Đất xám đọng mùn gley, đất xám gley, đất xám mùn, đất xám có tầng kết vón đá
ong,
đất
xám
có
tầng
loang
lổ
Nhóm
đất
đỏ
vàng
phát
triển
trên
đá
granit
Nhóm
đất
phèn
thuỷ
văn
Tài
nguyên
nước
Nhìn chung chế độ thuỷ văn của thành phố Tây Ninh khá phong phú, dồi dào cả về
nguồn
nước
mặt
và
nước
ngầm.
Tài
nguyên
rừng,
thảm
thực
vật
Toàn Thành phố có 1047 ha đất lâm nghiệp có rừng, bao gồm 120 ha rừng tự nhiên,
467 ha rừng trồng và 460 ha đất khoanh nuôi tái sinh, trong đó chủ yếu là rừng
mang tính chất đặc dụng (chiếm tới 98.98% tổng diện tích rừng) được khoanh định
khá
rõ
ở
khu
vực
xã
Thạnh
Tân
(núi
Bà
Đen).
Tài
nguyên
khoáng
sản
Hiện tại, trên địa bàn Thành phố không có nguồn tài nguyên khoáng sản nào đang
được khai thác, song theo kết quả điều tra, khảo sát cho thấy ở khu vực núi Bà Đen
thuộc xã thạnh Tân có nguồn khoáng sản đá granit khá phong phú.
Tài
nguyên
nhân
văn
Trên địa bàn Thành phố hiện có 08 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm dân
tộc Kinh, Khơme, Chăm, Hoa, Tàmun, Mường, Tày, Nùng. Trong đó, chủ yếu là đồng
bào dân tộc Kinh.
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
•
•
Thành phố Tây Ninh hiện có 13 di tích lịch sử và kiến trúc cổ. Trong đó 03 di tích cấp
Quốc gia và 10 di tích cấp Tỉnh đã được công nhận như sau:
Các di tích được công nhận cấp Quốc gia:
- Núi Bà Đen - Ninh Sơn, thành phố Tây Ninh được công nhận theo Quyết định số
100/VH-QĐ
ngày
21/1/1989
của
Bộ
Văn
hóa-Thông
tin
- Đình Hiệp Ninh - khu phố 4, phường 2, thành phố Tây Ninh được công nhận theo
Quyết định số 1430/QĐ-BT ngày 12/10/1993 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin
*
Về
Nguồn
gốc:
Tiền thân ngôi đình được nhân dân "THÁI BÌNH THÔN" xây cất trong thời kỳ thuộc
huyện Tân Ninh, thờ những ngườI có công khai phá vùng đất Tân Ninh xưa. Đây là
vùng đất mà năm Minh Mạng thứ V đặt tên thêm phủ Tây Ninh, lãnh 2 huyện Tân
Ninh và Quang Hóa. Đó là 2 Trung tâm chính trị đặt lỵ sở tại thị xã Tây Ninh và Cẩm
Giang ngày nay. Vùng đất này ghi nhận lịch sử thời kỳ mở đất thứ ba trên địa hạt
Tây Ninh (An Tịnh; khu vực Cẩm Giang, Long Thành và khu vực thị xã). Ngôi đình
hiện nay được tu sửa vào năm 1901. Vua Khải Định sắc phong Thành hoàng bổn
cảnh cho đình vào ngày 18 tháng 3 năm 1917. Liên tiếp trong các năm 1923, 1926,
1927 và 1928 đình được trùng tu sửa chữa nhỏ. Đến năm 1943 được xây thêm cổng
chính.
*
Về
Kiến
trúc:
Kiến trúc đình vẫn theo hình chữ tam, gồm tiền đình, hậu đình và nhà khách. Phần
chính diện có 5 gian, có gác chuông, gác trống. Tường vách 2 bên xây cao chạy dài
suốt 50m. Kiến trúc nội thất gồm có 16 cây cột gỗ tròn, đường kính 30cm và 8 cây
cột gạch ốp sát tường, cùng với hệ thống vì kèo, khung xuyên, đòn tay… đỡ mái ngói
âm dương tạo nên một không gian nội thất rộng rãi vững chắc.
Kiến trúc nội thất kết hợp với trưng bày, bài trí đồ thờ tự như hoành phi, câu đối, bài
vị, khảm thờ…toát lên sự cung kính, biết ơn những vị thần được thờ.
Đình Hiệp Ninh là một trong những nơi còn lưu giữ được nhiều hiện vật, đồ thờ tự quí
giá, có giá trị về nghệ thuật và tư tưởng cao như: hàng chục hoành phi đại tự, khảm
thờ Thành hoàng bổn cảnh, nghi thờ Thành hoàng bổn xứ, trang thờ đương kim thiên
tử, thiên vị, kiệu thỉnh sắc, các hàng tự khí, bát bửu, phủ việc; các ban thờ tả, hữu
ban, các vị cận vệ thần, tiền hiền, hậu hiền và các bô lão có công xây dựng làng xã,
cùng 15 bộ câu đối (liễn), chiêng, trống, bộ rùa, đôi hạc. Đặc biệt có sắc phong và
mão thần của vua Khải Định ban ngày 18 tháng 3 năm 1917.
Những đồ thờ tự này làm bằng loại gỗ quí hiếm, được chạm khắc tinh xảo như: cây
cảnh, long, ly, quy, phụng với nhiều họa tiết trang trí sơn son thếp vàng hết sức lộng
lẫy.
Trong Cách mạng tháng tám năm 1945, đình Hiệp Ninh đã từng là nơi tập trung
luyện tập chuẩn bị cướp chính quyền tỉnh Tây Ninh của lực lượng Thanh niên tiền
phong. Trong những năm 1957-1959 nơi đây là điểm liên lạc hoạt động bí mật của
Tỉnh
ủy
và
Thị
xã
ủy
Tây
Ninh.
Ngày 12 tháng 10 năm 1993, tại quyết số 1340/QĐ-BT của Bộ Văn hóa Thông tin đã
công nhận xếp hạng đình Hiệp Ninh là Di tích lịch sử-văn hóa.
- Đình Thái Bình - khu phố 4, phường 1, thành phố Tây Ninh được công nhận theo
Quyết định số 3211/QĐ-BT ngày 12/12/1994 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin
Các di tích được công nhận cấp Tỉnh:
- Cơ sở Tỉnh uỷ Tây Ninh - khu phố 4, phường 2, thành phố Tây Ninh được công
nhận theo Quyết định số 139/QĐ-CT ngày 27/9/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây
Ninh.
* Về nguồn gốc tên gọi:
Trong giai đoạn cách mạng (1954-1960) cơ sở chỉ đạo bí mật của Tỉnh ủy Tây Ninh
đặt tại nhà ông Nguyễn Văn Đạt ở ấp Thái Phú, nay là khu phố 4, thuộc phường II,
thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Thời kỳ này với cương vị là Tỉnh ủy viên, đồng chí
Hoàng Lê Kha được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ phụ trách quân sự làm trưởng phân ban
Tỉnh ủy đồng thời phụ trách lãnh đạo địa bàn Thị xã-Châu Thành và là người “Cán bộ
nằm vùng” tại ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Đạt, nên ngôi nhà của ông đã trở thành
di tích được gọi là cơ sở tỉnh ủy Tây Ninh.
* Về khảo tả di tích:
Cơ Sở Tỉnh ủy Tây Ninh là ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Đạt nằm ở ấp Thái Phú, nay
là khu phố 4, thuộc phường II, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Từ di tích lịch sử
văn hóa đình Hiệp Ninh, rẽ trái 50m là đến căn cứ. Đây là khu vực dân cư đông đúc
của Thị xã, nên vị trí vừa mang yếu tố bí mật, bất ngờ, nhưng lại là nơi an toàn, bởi
có lòng dân che chở. Chính vì thế, nên Tỉnh ủy Tây Ninh đã chọn nhà ông Nguyễn
Văn Đạt làm cơ sở để đồng chí Hoàng Lê Kha trực tiếp “Nằm vùng” hoạt động.
Ngôi nhà cũ khi xưa là cơ sở làm bằng cây, tre, mái lợp tranh (sau lợp thiếc), vách
đất trộn rơm. Nhà kiến trúc theo kiểu nhà ở dân dụng của người Nam Bộ có 3 gian, 2
mái, gian chính giữa là thờ tổ tiên, gian bên trái là nơi có “Hầm bí mật” đào sâu
xuống lòng đất, phía trên hầm bí mật là bộ ván để nằm cũng là để ngụy trang. Theo
gia chủ kể lại thì cặp bàn thờ tổ tiên phía bên phải có vách ngăn nơi để làm việc của
đồng chí Hoàng Lê Kha.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam nói chung và Tây Ninh nói
riêng, hầm bí mật được mệnh danh là áo giáp sắt nằm trong rừng người, lòng dân,
nó là điều kiện tiên quyết bảo đảm an toàn cho cán bộ hoạt động cách mạng. Sáng
kiến và mưu trí của đồng bào là vô tận nên hầm bí mật có đủ loại: hầm dưới dất,
hầm dưới giếng, hầm dưới nước, hầm trong tù, trong bồ lúa, trên máng xối, trên nóc
nhà… Chiếc hầm bí mật tại nhà ông Nguyễn Văn Đạt là cơ sở Tỉnh ủy tại thị xã, cơ sở
của đồng chí Hoàng Lê Kha là loại hầm trong lòng đất, hầm được đào dưới nền nhà
và đặt ván lên trên. Đây cũng là hình thức bí mật để che mắt quân thù.
- Đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo - khu phố 3, phường 3, thành phố Tây Ninh
được công nhận theo Quyết định số 267/QĐ-CT ngày 27/12/2001 của Chủ tịch UBND
tỉnh Tây Ninh
* Về Nguồn gốc
Nguồn gốc của ngôi đền xuất phát từ bộ phận người Việt Nam sinh sống ở huyện
Mimốt, Kômpông Chàm, Camphuchia. Mặc dù sống trên đất khách, quê người nhưng
cộng đồng người Việt tại đây luôn hướng về cội nguồn dân tộc. Đầu những năm 20
của thế kỷ XX, cộng đồng người Việt ở đây đã lập nên ngôi đền thờ Đức thánh Trần
Hưng Đạo-vị anh hùng dân tộc, đã thu hút khá đông người Việt ở Mimốt đến cầu an,
làm ăn thịnh vượng. Những tập tục và lễ hội dân tộc được bảo lưu gìn giữ rất tốt.
Đến năm 1970, Lon Non-Xirich Matắc được hỗ trợ của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài
Gòn đã âm mưu đảo chính lật đổ quốc vương Sihanúc. Cuộc chiến tranh Đông dương
bùng nổ, một bộ phận lớn cộng đồng người Việt ở Campuchia bị trục xuất về nước.
Trong số đó, có bộ phận người Việt ở Mimốt chuyển về Tây Ninh định cư sinh sống.
Số người này cùng nhân dân vùng thị xã Tây Ninh xây dựng nên ngôi đền đức Thánh
Trần phỏng theo kiểu nhà ở Bắc bộ (giống như đền thờ Trần Hưng Đạo ở Mimốt),
cùng với sắc phong và tượng đức Thánh Trần để thờ cúng.
* Về Kiến Trúc:
Ngôi đền được xây dựng có 5 gian, cột gỗ tròn, xây tường gạch 3 phía, phía trước
cửa gỗ, mái lợp ngói. Ở gian chính giữa trưng bày bức đại tự, hai đôi liễn (câu đối).
Trung tâm thờ tượng Trần Hưng Đạo, một gian thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 14 tháng 8 năm 1941(âm lịch) vua Bảo Đại (năm thứ 14) đã sắc phong:
"Vâng mệnh tưởng nhớ vị thần phò dân giúp nước Trần Hưng Đạo. Xin thần linh ứng
giúp dân sở tại vun trồng tại xứ Mimốt Cao Miên - nay vua ban chiếu mệnh thứ dân
lập đền thờ lớn. Mong thần phù hộ, bảo vệ là dân của nước ta.
Sắc ban tuyệt đối tuân lệnh".
Ngôi đền được nhân dân địa phương thường xuyên bảo vệ và tu sửa. Đây là ngôi đền
thờ Trần Hưng Đạo duy nhất ở tỉnh Tây Ninh.
- Khu chứng tích cầu Quan - khu phố 2, phường 2, thành phố Tây Ninh được công
nhận theo Quyết định số 268/QĐ-CT ngày 27/12/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây
Ninh
- Miếu Quan thánh Đế Quân - khu phố 4, phường 2, thành phố Tây Ninh được
công nhận theo Quyết định số 271/QĐ-CT ngày 27/12/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh
Tây Ninh
* Về Nguồn gốc:
Người Hoa Phước Kiến (Quảng Đông, Trung Quốc) trong quá trình lưu tán di chuyển
qua nhiều địa điểm ở đàng trong và cùng người Việt tụ cư ở thị xã Tây Ninh vào
khoảng cuốI thế kỷ XVIII.
Cùng với những phong tục của người Hoa được bảo lưu- Người Hoa Tây Ninh lập thờ
Quan Đế mà người Việt thường gọi là chùa Ông.
Quan Công là một nhân vật trong thời Tam Quốc (Ngô, Ngụy, Thục) ở Trung Quốc và
được xem là người "VẠN CỔ NHẤT NHÂN" tượng trưng cho "ĐỨC-TRÍ-DŨNG" và được
người Hoa tôn sùng lập miếu thờ nhiều nơi.
* Về Kiến trúc:
Miếu Quan Đế thành phố Tây Ninh xây dựng theo kiến trúc cổ, truyền thống Trung
Hoa. Toàn bộ công trình kiến trúc khép kín theo hình chữ Quốc, dài 23m, rộng 20m
(chu vi 86m). Mặt cắt dọc hình chữ nhị. Ở giữa có sân nắng (giếng trời- theo quan
niệm của người Hoa). Cột gỗ tròn, vách gạch, mái lợp ngói âm dương và ngói mũi hài
sơn màu vàng, đỏ.
Chính giữa miếu thờ tượng Quan Công 0,5m, theo tư thế một tay vuốt râu, một tay
cầm quyển sách -Hai bên tả, hữu thờ tượng Châu Xương và Quan Bình. Hai gian bên
thờ mẹ sinh, mẹ Độ và thần tài.
Gian chính được bài trí trang nghiêm và lộng lẫy bởi các đồ tự, bát bửu, lư hương và
các mảng chạm khắc đều có tuổi trên 100năm.
Sân vườn trước miếu rộng, có hồ bán nguyệt, trồng sen và nhiều cây cảnh quý hiếm.
Hằng năm vào ngày rằm tháng giêng và ngày 26 tháng 4 âm lịch tổ chức cúng lễ.
Đông đảo cộng đồng người Hoa ở Tây Ninh đến cúng bái.
- Chùa Khơme-Khedon: Khedon, xã Thạnh Tân, thành phố Tây Ninh được công
nhận theo Quyết định số 117/QĐ-CT ngày 29/4/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây
Ninh
- Thiên Hậu Miếu - Khu phố 4, phường 2, thành phố Tây Ninh được công nhận theo
Quyết định số 125/QĐ-CT ngày 29/4/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh
- Khám đường Tây Ninh (Trại giam) - Khu phố 3, phường 2, thành phố Tây Ninh
được công nhận theo Quyết định số 126/QĐ-CT ngày 29/4/2002 của Chủ tịch UBND
tỉnh Tây Ninh
- Chùa Phước Lâm - Khu phố 2, phường 1, thành phố Tây Ninh được công nhận
theo Quyết định số 245/QĐ-CT ngày 22/11/2005 của UBND tỉnh Tây Ninh
- Căn cứ Biệt động thành phố Tây Ninh - Ấp Giồng Cà, xã Bình Minh, thành phố
Tây Ninh được công nhận theo Quyết định số 60/QĐ-CT ngày 23/02/2007 của UBND
tỉnh Tây Ninh
LỄ HỘI
Trãi qua nhiều thế kỷ, cư dân thành phố Tây Ninh có một số thay đổi về số lượng
cũng như phân bố dân cư. Hiện nay trên thành phố Tây Ninh có 5 dân tộc sinh sống
đó là dân tộc kinh, Khơ me,Chăm, Hoa và một số dân tộc Tà Mun sống rãi rác trên
địa bàn thị xã.
Mỗi dân tộc đều giữ gìn được bản sắc văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc mình,
đồng thời trong quá trình giao lưu, hòa nhập văn hóa, tín ngưỡng còn có những sắc
thái tương đối đồng nhất giữa các dân tộc, mang tính riêng của địa phương.
Sau đây là một số lễ hội được tổ chức hàng năm:
- Vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu
Là lễ hội dân gian. Thờ Bà Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen).
Lễ thức: Cầu nguyện, tế và tắm Bà. Tổ chức các trò chơi dân gian tại khu du lịch và
diễn xướng dân gian múa mâm vàng vào ngày mùng 8 tháng giêng (âm lịch) hằng
năm.
- Lễ hội chùa Ông: khu phố 4, phường 2
Là lễ hội dân gian. Thờ Quan thánh Đế Ông.
Lễ thức: Cúng tế
Hằng năm vào ngày rằm tháng giêng và ngày 26 tháng 4 âm lịch tổ chức cúng lễ.
Đông đảo cộng đồng người Hoa ở Tây Ninh đến cúng bái.
- Lễ hội Ramanđa:
Là lễ hội dân gian của người Chăm Islam. Thờ Thánh Ala, thần Mặt trời.
Lễ thức: Đọc kinh cầu nguyện ở Thánh đường, thắp nến tiển ông bà, lễ kết thúc
tháng chay.
Hằng năm vào ngày mùng 3 tháng 2 (âm lịch) tổ chức hội mời lối xóm sang nhà
chuyện trò.
CƠ SỞ HẠ TẦNG THÀNH PHỐ TÂY NINH
- Tây Ninh là tỉnh miền Đông Nam Bộ có diện tích tự nhiên 4.030 km2, khí hậu, thời
tiết thuận lợi, ít bị gió bão, lũ lụt lớn, mưa theo mùa rõ rệt. Thị xã Tây Ninh là đô thị
trung tâm của tỉnh Tây Ninh, là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của Tỉnh, có
diện tích tự nhiên 140 km2 bao gồm 07 phường: phường 1, phường 2, phường 3,
phường IV, Hiệp Ninh, Ninh Sơn, Ninh Thạnh và 03 xã: Thạnh Tân, Tân Bình, Bình
Minh. Theo quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của Tỉnh, Thành phố Tây Ninh đến năm
2015
nâng
cấp
lên
là
đô
thị
loại
3
- Trên địa bàn Thành phố quản lý hiện nay có 35 tuyến đường chính có tổng chiều
dài khoảng 65,95km, với kết cấu chủ yếu là bê tông nhựa và cơ sở hạ tầng tương đối
hoàn chỉnh. Trên địa bàn Thành phố có các tuyến đường Quốc lộ, Tỉnh lộ chạy ngang
qua như: QL22B, ĐT785, ĐT784, ĐT793, Đường Trần Văn Trà,…bên cạnh đó còn các
tuyến đường hẻm nối liền các tuyến đường chính nói trên với kết cấu chủ yếu là sỏi
đỏ.
- Trên địa bàn Thành phố hiện có 07 cây cầu chính có tổng chiều dài là 381m gồm:
cầu Trà phí, cầu Gió, cầu Quan, cầu Mới, cầu K21, cầu Thái Hòa, cầu Yết Kiêu, với
kết
cấu
chủ
yếu
là
bê
tông
cốt
thép.
- Hầu hết các tuyến đường chính của Thành phố đều có đèn chiếu sáng công cộng
phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân về đêm. Bên cạnh đó Thành phố cũng đang
quản lý vận hành các hệ thống đèn tín hiệu giao thông, đèn cảnh báo giao thông
nằm trên địa bàn.
- Từ năm 2008, Sở Xây dựng bàn giao cho Thành phố quản lý mảng cây xanh, công
viên trên địa bàn. Thành phố hiện có 1.928 cây viết với tuổi thọ từ 7-10 năm. 1.787
cây dầu có tuổi thọ trung bình từ 6-8 năm. 494 cây sao. 140 cây xà cừ tuổi thọ trung
bình từ 35-40 năm. Bên cạnh đó còn có các loại cây như: Bằng lăng, phượng vĩ, giá
tỵ, bạch đàn, móng bò, hoàng nam, liêm, cây xanh và cỏ kiểng các loại... Các loại
cây trên hiện được duy trì và phát triển tốt tạo cảnh quan, bóng mát cho Thị xã.
TIỀM NĂNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Tỉnh Tây Ninh thuộc miền Đông Nam bộ; Đông giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình
Phước, phía Đông Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Long An; Phía Tây và TâyBắc giáp tỉnh Svay-Riêng, Kông-Pông-Chàm của Campuchia. Tây Ninh có đường biên
giới chung hai nước Việt Nam – Campuchia dài 240 km và hai cửa khẩu quốc tế là
Mộc
Bài
và
Sa
Mát
và
nhiều
cửa
khẩu
tiểu
ngạch.
Phân
bổ
diện
tích,
dân
số
thành
phố
Tây
Ninh
năm
2009
Thành phố Tây Ninh nằm ở vị trí trung tâm của Tỉnh, cách thành phố Hồ Chí Minh 99
km theo quốc lộ 22, tỉnh lộ 782; cách biên giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc.
Diện tích 140 km2, dân số l26.604 người, mật độ dân số 904 người/km2(năm 2009).
Được
tổ
chức
thành
7
phường,
3
xã.
Địa hình thành phố Tây Ninh là vùng gò tương đối bằng phẳng, khá thuận lợi cho
việc
tổ
chức
mặt
bằng
sản
xuất,
xây
dựng
các
công
trình.
Đặc biệt, phía Bắc thành phố Tây Ninh có núi Bà Đen, là ngọn núi cao nhất Nam Bộ
(986m). Khí hậu nóng ẩm nhưng ôn hòa, hiếm khi có bão lụt.
Núi Bà Đen có nhiều di tích cổ và di tích lịch sử cách mạng, là địa điểm du lịch truyền
thống lâu đời của Tây Ninh, nay đã có quy hoạch chi tiết phát triển ngành du lịch;
quy hoạch khai thác nguồn khoáng sản (đá granit trữ lượng khoảng 1.400 triệu m3,
đá ong, sỏi đỏ trữ lượng khoảng 5 triệu m3) sử dụng trong xây dựng và giao thông.
Đường bộ: hội tụ nhiều tuyến đường liên tỉnh quan trọng nối kết các trung tâm kinh
tế, văn hóa, du lịch thuận lợi cho thành phố Tây Ninh trong giao lưu liên kết phát
triển nhiều mặt. Đặc biệt tuyến xe bus Thành phố đi: Gò Dầu; Cửa khẩu Mộc Bài, Núi
Bà, Khu Kinh tế cửa khẩu Xa-Mát - Tân Biên… đã góp phần phát triển giao thông
công
cộng,
văn
minh
đô
thị.
Tây Ninh là một trong 15 tỉnh, thành phố thuộc Trung ương đã tự cân đối được ngân
sách
và
thực
hiện
nghĩa
vụ
với
Trung
ương.
Phương hướng phát triển của Tây Ninh trong thời gian tới gắn liền với phương hướng
phát triển kinh tế – xã hội của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong những
vùng kinh tế năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giữ vai trò quyết định
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của cả nước .
Đẩy mạnh dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu vùng, cơ cấu ngành, lĩnh vực, tập trung
khai thác lợi thế so sánh, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh,
bền
vững
.
Tiếp tục đẩy mạnh thu hút dđầu tư (tăng cường huy động nguồn vốn trong nước và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài), khai thác các lợi thế, đẩy nhanh chuyển đổi cơ cấu
kinh
tế
vùng
trong
tỉnh
:
+ Các huyện phía Nam tỉnh (Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu) theo hướng phát triển
mạnh công nghiệp, dịch vụ trên cơ sở đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp, khu
kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và các dịch vụ dọc theo đường Xuyên Á.
+ Các huyện phía Bắc (Tân Biên, Tân Châu, Châu Thành, Dương Minh Châu) tập
trung chuyển đổi cây trồng vật nuôi, ổnn định vùng nguyên liệu cây công nghiệp cho
các nhà máy chế biến và thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn trên cơ sở
khai thác tốt lợi thế cửa khẩu, Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát và Nhà máy xi măng
Đối với Thành phố Tây Ninh phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các hoạt động
thương mại du lịch ,dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống , tập trung chỉnh trang
,xây
dựng
đô
thị
văn
minh,
hiện
đại.
Phấn đấu đến 2010, tỷ trọng trong GDP của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp - công
nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 28 -32 - 40; GDP bình quân đầu người 1.000 USD,
phấn đấu đến năm 2020 Tây Ninh trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển bền
vững
.
Để nhanh chóng xây dựng và phát triển thành phố Tây Ninh đạt được các mục tiêu
đã đề ra, Thành phố đang tìm kiếm và thu hút các nguồn lực bên ngoài về vốn, nhân
lực, khoa học kỹ thuật, kể cả đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh đầu tư-phát triển kinh tế,