Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xhcn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.86 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

ĐOÀN THỊ THƯƠNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: triết học
Người hướng dẫn khoa học: TS.Vi Thái Lang

HÀ NỘI_2012

1


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương 1: Một số lí luận về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.1. Một số lí luận về quan hệ giữa nội dung và hình thức
1.2. Lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
hiện nay từ góc độ nội dung và hình thức
2.1. Nội dung và hình thức xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam hiện nay
2.2. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay từ góc độ nội dung


2.3. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay từ góc độ hình thức
Chương 3: Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam hiện nay từ góc độ nội dung và hình thức
3.1. Phướng hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiên nay từ góc độ nội dung
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam hiện nay từ góc độ hình thức
C. Phần kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước và pháp luật là một trong những hiện tượng trung tâm và
quan trọng nhất của xã hội loài người khi xã hội đã phân hóa thành những
giai cấp. Trong xã hội có đối kháng giai cấp không thể tồn tại trong trật tự
nếu vắng bóng nhà nước. Vấn đề này đã được Ăngghen chỉ ra:
“Muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế
mâu thuẫn với nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và diệt luôn cả
xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích thì còn phải có một lực lượng cần
thiết…đó là nhà nước”[20;tr252-253]. Vấn đề nhà nước, thực chất và vai
trò của nó trong sự phát triển xã hội là một trong những vấn đề lý luận và
thực tiễn gay go nhất. Nhận định của V.I.Lênin về vấn đề này như là một
vấn đề cơ bản trong toàn bộ chính sách vẫn mang tính cấp thiết vì ngày
nay, vấn đề Nhà nước vẫn còn là “tiêu điểm của tất cả các vấn đề chính trị
của thời đại hiên nay”[19;tr80]. Những mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu
tranh giai cấp trên thế giới không những không chấm dứt mà còn đang phát

triển và trở nên gay gắt thêm lôi cuốn ngày càng rộng rãi các tầng lớp lao
động ở các nước khác nhau trên thế giới và diễn ra trên pham vi toàn cầu.
Hiện nay Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước trên toàn bộ lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong đó đổi mới chính trị có vai trò “mở đường”
cho đổi mới kinh tế, trong đó gồm: Đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa đời sống xã hội…Để đáp
ứng yêu cầu đó, đòi hỏi phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở kế thừa giá trị nhân loại và phù hợp với xu
hướng Nhà nước tiến bộ, dân chủ, hiện đại.
Từ khi độc lập (năm 1945) đến nay, công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định song

3


cũng còn không ít những hạn chế. Điều đó đòi hỏi phải đưa ra những giải
pháp cụ thể để góp phần vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền là một khâu trọng yếu trọng
đổi mới hệ thống chính trị, là đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiên nay.
Với nhũng lí do trên, Tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức trong việc xây dựng dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam hiên nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã được nhiều ngành
khoa học nghiên cứu như: Triết học, sử học, chính trị học, kinh tế học
chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học…và được đề cập trên
nhiều sách báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng như: Nhà
nước và pháp luật, Thông tin khoa học xã hội, Lý luận chính trị, Tạp chí

Triết học…Tùy thuộc vào từng lĩnh vực được đề cập với chức năng và
nhiệm vụ khác nhau, các nhà nghiên cứu có cách tiếp cận, xem xét khác
nhau. Trong đó phải kể đến một số công trình:
“Một số nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”-Phạm Văn Đức.
“Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng của
Đại hội IX-TS.Trần Thành.
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam-một số vấn đề lí
luận và thực tiễn-Nguyễn Duy Quý…
Song nghiên cứu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới góc độ
nội dung và hình thức của nó thì chưa công trình nào có. Do đó, Tôi tiến

4


hành nghiên cứu vấn đề này trên cơ sở kế thừa và phát huy các công trình
đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của đề tài là tim hiểu thực chất và ý nghĩa vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam từ góc độ nội dung và hình thức.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên khóa luận tập trung giải quyết các vấn đề:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận về cặp phạm trù nội dung và hình thức
trong triết học Mác-Lênin và lý luận về nhà nước pháp quyền.
- Xem xét thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam hiện nay từ góc độ nội dung và hình thức.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta từ góc độ nội dung và hình thức.
4. Phạm vi nghiên cứu.

Nhà nước pháp quyền là nội dung rất rộng, trong khuôn khổ của một
khóa luận tốt nghiệp, Tôi chỉ nghiên cứu vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN từ góc độ nội dung và hình thức của nó ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận nghiên cứu dựa trên phương pháp nghiên cứu của
CNDVBC và CNDVLS và kết hợp một số phương pháp nghiên cứu : logic,
phân tích, tổng hợp, chứng minh, diễn dịch, quy nạp.
6. Kết cấu khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương 7 tiết

5


B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.1 Một số lí luận về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
*khái niệm phạm trù, nội dung, hình thức .
Trong triết học Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy
vật thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những quy luật phổ biến nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Ph.Ă định nghĩa : “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy” [ 1 ; tr239 ]
Phép biện chứng bao hàm một nội dung hết sức phong phú, trong đó
nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và phát triển của thế giới có ý nghĩa khái
quát chung nhất. Bởi vâỵ các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã

gọi phép biện chứng là học thuyết toàn diện nhất sâu sắc nhất về sự liên hệ
phổ biến và sự phát triển.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biên chứng duy vật,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát triển và phân chia các
mối liên hệ đó thành các cặp phạm trù cơ bản. Các cặp phạm trù này tồn tại
với tư cách là các quy luật không ơ bản của phép biện chứng duy vật. Mỗi
khoa học đều có một hệ thống những phạm trù để phản ánh bản chất đối
tượng ma nó nghiên cứu. Ví dụ: Trong vật lí học có phạm trù khối lượng
năng lương, vận tốc… và trong kinh tế chính trị có phạm trù hàng hóa, lao
động, giá trị, quan hệ sản xuất, lực lương sản xuất…

6


Tuy nhiên, những cặp phạm trù mà phép biện chứng duy vật nghiên
cứu là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những mối liên
hệ cơ bản và phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Các phạm trù ra
đời theo trình độ phát triền của lịch sử nhận thức từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, từ thấp đến cao. Vì vậy phạm trù là bậc thang của quá trình
nhận thức. V.I.Lênin đã viết : “Trước con người, có mạng lưới những hiện
tượng tự nhiên. Con người bản năng con người man rợ, không tách khỏi
giới tự nhiên. Người có ý thức tách khỏi giới tự nhiên, nhưng cặp phạm trù
là những giai đoạn của sự tach khỏi đó, tức là sự nhận thức thế giới, chúng
là những điểm nút của mạng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững đươc
mạng lưới [2;tr102].
Phạm trù là sự trừu tượng khoa học, mang nội dunh hiện thực và sinh
động. Chúng có nội dung khách quan chứ không phải do ý thức chủ quan
của con người sinh ra. Chúng liên hệ mật thiết với toàn bộ nội dung cụ thể
của hiện thực khách quan. V.I.Lênin đã viết: Những khái niện của con
người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của

chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình trong kết quả,
trong khuynh hương trong nguồn gốc.
Triết học Mac-Lênin giải quyết vấn đè bản chất các phạm trù không
chỉ trên cơ sở duy vật mà còn theo quan điểm viên chứng. Nghĩa là khi
nghiên cứu các phạm trù, triết học Mác-Lênin phải xuất phát từ chỗ khảng
định rằng: Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc lập với ý thức con
người mà còn luôn luôn vận động, biến đổi, phát triển, liên hệ và chuyên
hóa lẫn nhau. Nắn vững quan điểm đó có quan hệ trực tiếp đến việc xem
xét bản chất cua khái niêm và phạm trù.Các nhà siêu hình tuy thừa nhận
khái niệm, phạm trù là phản ánh hiện thực khách quan nhưng lại coi chúng
là không vận động, không chuyển hóa.

7


Chủ ngĩa duy vật biện chứng cho rằng: Mọi hiện tượng tự nhiên và xã
hội đều vận động và phát triển cho nên phạm trù phản ánh những hiện
tượng đó cũng vận động và phát triển. Nếu không chúng không thể phản
ánh đúng hiện tượng khách quan. Các lý thuyết duy tâm về phạm trù ví dụ:
Theo Canto, phạm trù là hình thức tư duy tiên nghiệm, có trước mọi kinh
nghiệm và không phụ thuộc vào kinh nghiệm. Heghen xét phạm trù trong
sự phát trong sự phát triển biện chứng nhưng đối với ông phạm trù là
những giai đoạn phát triển của bản thân “ý niệm tuyêt đối” có tính chất
thuần bí. Chủ nghĩa duy vật lại khẳng định rằng; phạm trù là sự phản ánh ý
thức những mặt, nhưng mối liên hệ phổ biến nhất, căn bản nhất của hiện
tượng khách quan và hoạt động của con người. Phạm trù hình thành trong
quá trình phát triển của nhận thức vũ trụ trên cơ sở thực tiễn. Nhận thức
của con người ngày càng phát triển thì các khái niệm và phạm trù càng
nhiều hơn; nội dung và quan hệ của chúng càng toàn diện và sâu sắc hơn.
Triết học Mác-Lênin bao gồm một hệ thống các phạm trù như: vật

chất, vận động, không gian, thời gian, lượng, chất, tồn tại xã hội, ý thức xã
hội, giai cấp…Tuy nhiên trong phạm vi phép biện chứng duy vật chỉ bao
gồm 6 cặp phạm trù cơ bản: cái riêng và cái chung; nguyên nhân và kết
quả; nội dung và hình thức; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiên
tượng; khả năng và hiện thực.
Sự hiểu biết về cặp phạm trù cái riêng và cái chung có một ý nghĩa to
lớn đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn. Nhân - quả là một trong
nhưng hình thức của mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau phổ biến giữa các
sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong phạm vi của khóa
luận, người viết chỉ đi sâu nghiên cứu về cặp pham trù nội dung và hình
thức. Đây là cặp phạm trù có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu sâu
sắc quá trình tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng .

8


Nội dung là phạm trù chỉ toàn bộ những yếu tố những mặt và những
quá trình biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa chúng gây nên trong các sự
vật hay hiện tượng .
Hình thức là phạm trù chỉ sự tồn tại và phát triển của sự vật, là cách
thức tổ chức, kết cấu của nội dung. Ví dụ: nội dung cơ thể con người là
toàn bộ những mặt diễn ra trong nó như quá trình đồng hóa và dị hóa, quá
trình hoạt động cuả hệ thần kinh, hệ tiêu hóa hệ bài tiết… Còn hình thức cơ
thể con người là kết cấu của cơ thể, cách tổ chức, sắp xếp của các khí
quan…
*Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Trong lịch sử đã có những nhà triết học tách rời hai phạm trù này.
Ngày nay một số học giả tư sản vẫn mưu toan tách rời nội dung và hình
thức. Họ không những thừa nhận sự tồn tại của hình thức thuần túy mà còn
tuyên bố rằng nó là tồn tại duy nhất. Theo họ, thừa nhận sự tồn tại thực tế

của nội dung là nhường chồ cho chủ nghĩa duy vật vì từ đó có thể dẫn tới
sự tồn tại của vật chất. Đó là những quan điểm sai trái. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định: bất cứ sự vật, hiện tượng nào và quá trình nào của
hiện thực cũng đều có nội dung và hình thức của nó. Nội dung và hình thức
bao giờ cũng là một thể thống nhất. Phù hợp với một nội dung cụ thể nhất
định bao giờ cũng có một hình thức cụ thể tương ứng. Không có nội dung
chung chung mà chỉ có nội dung cụ thể của sự vật nào đó, của hiện tượng
hay quá trình nào đó. Không có hình thức chung chung mà chỉ có hình thức
cụ thẻ của một nội dung cụ thể nào đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn
mạnh sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, nhưng đồng thời không đặt
ngang bằng giữa hai cái. Sự tác động lẫn nhau giữa nội dung và hình thức
biểu hiện thành quy luật: Nội dung quyết định hình thức, sự biến đổi của sự

9


vật, hiện tượng hay quá trình bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, sự phát
triển của nội dung. Nội dung biến đổi thì hình thức cũng biến đổi theo.
Vai trò quyết định của nội dung so với hình thức không có nghĩa là
hình thức chỉ thụ động “ngoan ngoãn” đi theo nội dung mà nó có tác động
tích cực đến nội dung. Ảnh hưởng đó thường diễn ra theo hai hướng: hoặc
hình thức thúc đẩy nội dung phát triển, hoặc kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Khi hình thứ phù hợp với nội dung, nó sẽ thành động lực tích cực
thúc đẩy nội dung phát triển, ngược lại nếu không phù hợp nó sẽ cản trở sự
phát triển đó. Ví dụ sự chuyển biến từ một chế độ kinh tế này sang một chế
độ kinh tế khác là kết quả của việc giải quyết những mâu thuẫn giữa sự
phát triển của lực lượng sản xuất( nội dung) và sự lạc hậu của quan hệ sản
xuất( hình thức). Hình thức mới của quan hệ sản xuất mới ra đời sẽ trở
thành động lực cơ bản túc đẩy sự phát triển nội dung của nó là nội dung của
nó là lực lượng sản xuất. Trong quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây

dựng quan hệ sản xuất mới XHCN ở nước ta, chúng ta phải quan tâm đến
sự tác động biện chứng giữa nội dung và hình thức. V.I.Lenin đã nhấn
mạnh: “đấu tranh của nội dung với hình thức và ngược lại. Vứt bỏ hình
thức cải tạo nội dung” [ 2;tr240]. Sự xung đột giữa nội dung va hình thức
không phải xảy ra giữa hình thức và nội dung nói chung mà xảy ra giữa
hình thức cũ và nội dung mới.
Trong cuộc đấu tranh nay cần phải vứt bỏ hình thức cũ và cải tạo nội
dung. Nội dung mới ra đời có khi tạm thời đi với hình thức cũ nhưng sớm
hay muộn nội dung mới cũng tạo ra cho mình một hình thức mới. Qúa trình
phá hủy thay thế hình thức cũ và tạo nên hình thức mới là bước nhảy vọt về
chất trong sự phát triển của sự vật, bước nhảy vọt này có thể biểu hiện dưới
hình thức đột biến hoặc tiêu vong dần dần của những yếu tố thuộc về hình
thức cũ và tích lũy dần dần những yếu tố thuộc về hình thức mới.

10


Khi nội dung mới được chứa đựng một hình thức mới phù hợp với nó,
thì quá trình phát triển diễn ra nhanh chóng: Bởi vì hình thức không chỉ tạo
ra địa bàn đầy đủ cho sự phát triển của nội dung mà còn tích cực thúc đẩy
nó phát triển nữa. Song, trong quá trình phát triển của mình nội dung
thường đi nhanh hơn hình thức. Trong trường hợp đó, đến một giai đoạn
nhất định hình thức trở thành mâu thuẫn với nội dung, không những không
thúc đẩy nội dung phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển đó. Hình thức
và nội dung không chỉ có mối liên hệ hữu cơ phụ thuộc vào nhau mà chúng
còn chuyển hóa lẫn nhau, có cái trong mối quan hệ này là hình thức thì
trong mối quan hệ khác là nội dung và ngược lại. Trong một phương thức
sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức.
Nhưng trong quan hệ khác-ví dụ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thì những quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội là nội

dung, còn kiến trúc thượng tầng là hình thức phản ánh cơ sở hạ tầng đó.
*Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ sự tác động lẫn nhau có tính quy luật của nội dung và hình thức,
chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
Hình thức do nội dung quyết định nên thay đổi hình thức của một sự vật
hiện tượng, quá trình nào đó phải dựa vào những thay đổi của nội dung. Thí
dụ: Ở nước ta, trong điều kiện đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, việc củng cố và phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (là nội dung cơ bản) quy định của việc
cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN (là
hình thức). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội
Đảng lần thứ IV đã nhấn mạnh: “Phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá
trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN là quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất là luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển,

11


mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của
lực lượng sản xuất mới; ngược lại mỗi bước tạo ra lực lượng sản xuất mới
đều có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới” [ 3; tr 59-60]
Hình thức tích cực tác động đến sự phát triển của nội dung khi có sự
phù hợp với nội dung, do đó, muốn thúc đẩy một sự vật hiện tượng, quá
trình nào đó phát triển nhanh chóng cần phải chú ý theo dõi mối quan hệ
giữa nội dung đang phát triển với hình thức tương đối chậm phát triển. Khi
giữa chúng xuất hiện sự không phù hợp thì con người phải can thiệp vào
tiến trình phát triển khách quan của các sự kiện, đem lại những thay đổi cần
thiết về hình thức làm cho nó phù hợp với nội dung đã phát triển, đảm bảo
cho nội dung phát triển hơn nữa
Không hiểu đầy đủ phép biện chứng của nội dung và hình thức dễ dẫn

đến chỗ tuyệt đối hóa mặt hình thức, tách rời khỏi nội dung. Trong văn học
nghệ thuật đã nảy sinh chủ nghĩa hình thức. Chủ nghĩa Mác- Lênin lấy
phươn pháp hiện thực XHCN đối lập với chủ nghĩa hình thức, xác nhận sự
thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức trong văn học nghệ thuật
Trong điều kiện giai cấp vô sản nắm chính quyền cần đề phòng chủ
nghĩa hình thức được biểu hiện dưới dạng chủ nghĩa quan liêu. Quan liêu
thường là nguồn gốc phổ biến của tư tưởng bảo thủ. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ II đã vạch rõ: “Hiện nay tệ quan liêu” biểu hiện trên nhiều lĩnh
vực nhưng chủ yếu là quan liêu trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan
liêu trong tổ chức bộ máy và phong cách làm việc của cán bộ [4;tr 50]. Nó
làm trở ngại và gây tác hại nghiêm trọng cho công cuộc cách mạng XHCN
và xây dựng CNXH. Do đó, nó làm tê liệt tính tích cực sáng tạo của quần
chúng, hạn chế quyền làm chủ tập thể của quần chúng và ngăn trở sự mở
rộng phê bình và tự phê bình…

12


Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa nội dung, xem nhẹ hình thức cũng lại là sai
lầm, có hại cho sự phát triển nội dung của sự vật và quá trình, bởi vì nội
dung chỉ có thể biểu hiện thông qua hình thức. Ví dụ: việc coi thường các
tổ chức trong sinh hoạt Đảng (hình thức ở đây là muốn nói đến nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt của Đảng như chế độ dân chủ tập trung, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách…) đưa tới chỗ vi phạm những quy tắc và tiêu chuẩn
sinh hoạt Đảng, đề ra khuynh hướng tự do chủ nghĩa, vô chính phủ.
Sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hóa hình thức cũ, không dám vứt bỏ những
hình thức cũ quen thuộc khi chúng đã lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của
nội dung. Song, nếu có thái độ hư vô chủ nghĩa đối với hình thức cũ, không
dám cải tiến để sử dụng hình thức mới cần thiết nhằm phục vụ cho nội
dung mới thì cũng là sai lầm.

Ngày nay, cả nước ta đang xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCH,
cuộc sống đang biến đổi từng ngày, từng giờ, cái mới đang không ngừng
nảy nở và đòi hỏi được phát triển lớn mạnh. Vì vậy cần nắm vững phép
biện chứng giữa hình thức và nội dung, chăm chú theo dõi sát tình hình
thực tế. Một khi có triệu chứng khách quan báo hiệu là một trong những
lĩnh vực nào đó thúc đẩy nội dung phát triển hơn nữa thì phải kịp thời cải
tiến nó, kiên quyết chống tư tưởng bảo thủ, vứt bỏ những hình thức đã lỗi
thời, ra sức phát hiện và ủng hộ những hình thức mới do cuộc sống đề ra
nhằm thúc đẩy nội dung mới phát triển. Song, cần tránh bệnh chủ quan, tùy
tiện trong công việc thay đổi hình thức một cách không có căn cứ, tách rời
nội dung.
Vừa qua trong nông nghiệp chúng ta đã tìm ra hình thức khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động - đó là một hình thức quản lí
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất còn lạc hậu hiện nay. Đại hội
lần thứ V của Đảng đã khẳng định:

13


“Phong trào thi đua sôi nổi đều khắp và có hiệu quả trong các hợp tác xã
và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, do áp dụng đúng đắn hình thức khoán
sản phẩm cho người lao động, là một bài học có giá trị và bổ ích” [4;tr 29].
Vận dụng phép biện chứng giữa nội dung và hình thức có ý nghĩa thực tiễn
rất quan trọng để cải tiến quản lí kinh tế và quản lí xã hội ở nước ta hiện
nay. Trong phạm vi khóa luận, người viết đặc biệt chú trọng nghiên cứu sự
vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức vào việc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Vậy thế nào là
nhà nước pháp quyền, sự ra đời và phát triển, bản chất của nhà nước pháp
quyền ra sao và quan điểm của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề
này như thế nào? Người viết xin được trình bày ngay phần sau đây.

1.2. Lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
1.2.1 Một số lý luận về nhà nước pháp quyền nói chung.
*Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Tư tưởng về nhà nước đã nảy sinh và phát triển cùng với sự xuất hiện
của nhà nước và hệ thống pháp luật. Các tư tưởng đầu tiên của Nhà nước
pháp quyền của nhân loại ra đời từ thời cổ đại. Ngay từ thế kỉ thứ IX-VI
TCN. Các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã đã tìm kiếm những nguyên tắc,
hình thức, cơ chế trong mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật với tổ chức và
hoạt động của quyền lực nhà nước. Trong đó cần chú ý đến bốn nhà tư
tưởng cổ đại Hy Lạp sau:
Xôcrát (469-399 TCN) cho rằng: công lý trong sự tuân thủ pháp luật
hiện hành, sự công minh và hợp pháp đều là một. Nếu không tuân thủ pháp
luật thì không thể có nhà nước và trật tự pháp luật. Công dân của nhà nước
nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh. Ông
nói: “Xã hội không thể tồn tại nếu như các đạo luật bất lực. Giá trị cao nhất
là công lý, nghĩa là sống phải tuân thủ pháp luật nhà nước [5; tr 71].

14


Platon (427-347), các quan điểm về nhà nước và pháp luật của ông được
nâng lên thành triết lí. Nó được thể hiện rõ trong hai tác phẩm đối thoại lớn
của ông “nhà nước” và “các luật”. Học thuyết của Platon cho rằng khi lãnh
đạo nhà nước cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, trước tiên phải dựa vào
tôn giáo và pháp luật. Bằng những dự án chính trị của mình, Platon muốn
đưa ra một bản án nghiêm khắc nhất cho nền dân chủ, ông tha thiết mong
muốn khôi phục lại thiết chế xã hội và pháp quyền nhà nước bảo thủ đã lỗi
thời. Những tư tưởng của Platon đã công khai thách thức tiến trình lịch sử
đi lên, và do vậy nó hết sức phản động.
Aristot (384-322 TCN), những vấn đề chính trị đặc biệt được Aristot

xem trong hai cuốn sách “Chính trị” và “Chính thể Aten”. Aristot đã tổng
kết và phát triển một cách tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về
nguồn gốc, bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền. Ông
chỉ rõ: pháp luật chỉ chú trọng tới mức độ thiệt hại còn đối với tất cả mọi
người đều công bằng. Lịch sử pháp quyền Hy Lạp chỉ rõ Aristot thấy bức
tranh về những thay đổi không ngừng trong chế độ pháp quyền nhà nước.
Việc tìm kiếm phương án thực hiện một chế độ chính trị hoàn thiện nhất
được Aristot trình bày một cách chi tiết trong việc phân loại các nhà nước
theo hình thức của chúng. Các tiêu chí phân biệt của ông là: số lượng người
cầm quyền trong nước, mục đích của nhà nước.
Xirêrôn(106-43TCN) đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà nước pháp
quyền như: người điều hành các công việc nhà nước cần phải sáng suốt,
công minh và có khả năng hùng biện, hiểu biết những nguyên lí cơ bản của
pháp luật mà nếu như thiếu các kiến thức đó thì không ai có thể công minh
được. Các đạo luật do con người quy định phải phù hợp với tính công minh
và quyền tự nhiên vì sự phù hợp hay không phù hợp ấy là tiêu chuẩn để

15


đánh giá tính công minh hay không của chúng. Đặc biệt, Xirêrôn đã đưa ra
nguyên tắc: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật.
Tất cả các tư tưởng đều cao pháp luật trong mối quan hệ với quyền lực
nhà nước ra đời lúc bấy giờ đều có nguồn gốc sâu xa từ mơ ước của con
người về sự chiến thắng đối với bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà,
của cái thiện đối với cái ác và từ một thực tế trong đời sống nhà nước và xã
hội là vua có toàn quyền, vua là con trời, thể theo lòng trời mà làm. Vua
không chịu trách nhiệm pháp lí với một ai cả.
Sau thắng lợi của cách mạng tư sản thì các tư tưởng về nhà nước pháp
quyền mới được tiếp thu và dần dần hình thành một cách rõ ràng, thành hệ

thống trong các học thuyết chính trị pháp lí. Có thể nêu một số tư tưởng về
nhà nước pháp quyền của một số lí luận nổi tiếng thời kì này như:
Giônlốccơ (1632-1704), tư tưởng về nàh nước pháp quyền của ông được
trình bày trong tác phẩm “Hai bài giảng về lãnh đạo nhà nước” (1690).
Theo ông, các quyền của con người bao gồm (quyền tự do, quyền bình
đẳng và quyền sở hữu) là tự nhiên và không bị tước đoạt. Nhà nước được
lập lên là để bảo vệ các quyền của con người. Ông lập luận về sự cần thiết
phải đề cao pháp luật. Ông cho rằng ở đâu không có pháp luật thì ở đó
không có tự do và pháp luật là công cụ cơ bản quyết định việc giữ gìn và
mở rộng quyền tự do cá nhân, đồng thời bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự
tùy tiện và độc đoán và người khác. Và việc điều hành nhà nước phải dựa
trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và hiểu rõ về nó. Chủ quyền của
nhân dân cao hơn, quan trọng hơn chủ quyền của nhà nước do họ thành lập.
và do đó, nhà nước cầm quyền không được thi hành chính sách chuyên chế
và độc tài đối với nhân dân của mình.
Những quan điểm tiến bộ trên của Lôccơ đã được các nhà tư tưởng sau
này kế thừa và phát triển.

16


Mụngtexki (1689-1755), ụng sng Phỏp vo th k XVII khi phng
thc sn xut TBCN phỏt trin nhanh chúng . Song xing xớch phong kin
ó trúi buc s phỏt trin ca CNTB. Cỏc lc lng sn xut mi ó xung
t vi cỏc quan h sn xut phong kin c bo v bi kin trỳc thng
tng phong kin nht l nh nc v phỏp lut.
Khai sỏng l mt trong nhng tro lu t tng chớnh tr Phỏp th k
XVII nú th hin quyn li ca cỏc tng lp khỏc nhau thuc ng cp th
3. Mụngtexki l mt trong nhng nh t tng chớnh tr xut sc ca tro
lu ú. Trong tỏc phm Tinh thn phỏp lut (1748), ụng cho rng: S

xut hin ca nh nc v phỏp lut l cú tớnh lch s. Mong mun khỏm
phỏ nhng quy lut phỏt trin ca nh nc v phỏp lut l cụng lao ln
nht ca Mụngtexki. ễng xỏc nh bn cht ca chớnh quyn l tựy thuc
vo s lng ngi cm quyn. Cú 3 hỡnh thc nh nc: cng hũa, quõn
ch v chuyờn ch. Nh t tng hon ton bỏc b hỡnh thc th 3. Theo
Mụngtexki, nn quõn ch l nh nc m trong ú t do chớnh tr c
thc hin, bn cht ca t do chớnh tr khụng phi l lm iu mong
mun m l lm iu phỏp lut cho phộp [5;tr 271].
Nhng t tng chớnh tr ca Mụngtexki ng mõu thun v cú
khuynh hng tha hip. Nhng vi s vch trn ch phong kin v
tuyờn b nguyờn tc t do chớnh tr, học thuyết chính trị mang tinh thần t
sản do ông xây dựng đã đa ông vào hàng ngũ những nhà t tởng vĩ đại nhất
thời đó.
Cantơ( 1724-1804), dựa trên hệ thống triết học của mình Cantơ cho
rằng: lý trí thực tế hay ý chí tự do của mỗi con ngời đó chính là nguồn gốc
của các đạo luật có tính pháp quyền và hợp đạo đức. Pháp luật là để đảm
bảo các quan hệ văn minh giữa con ngời. Nhà nớc là sự kết hợp của những
ngời biết phục tùng các đạo luật có tính pháp quyền, nhằm bảo vệ trật tự

17


pháp luật đợc xây dựng trên nguyên tắc toàn bộ hoạt động của mình phải
dựa trên pháp luật, nếu không nó sẽ bị mất tín nhiệm của các công dânnhững ngời cấu thành nó.
Dựa vào những quy định pháp luật, có hay không việc phân công quyền
lực nhà nớc (lập pháp, hành pháp và t pháp) mà ông chia ra nhà nớc pháp
quyền hay nhà nớc độc tài. Bởi vì theo ông chỉ có sự phân công và phối hợp
giữa ba quyền đó mới có khả năng ngăn ngừa đợc chuyên chế độc tài. Chủ
quyền của nhân dân chỉ có thể đợc thực hiện trên thực tế thông qua sự phân
công quyền lực nhà nớc. Có nh vậy tất cả công dân mới bình đẳng theo

pháp luật.
T tởng pháp quyền của Cantơ sau này đợc các nhà t tởng tiến bộ kế thừa
và phát triển.
Heghen( 1770-1831) nhà t tởng vĩ đại nhất nớc đức thời kì trớc C.Mác.
Hệ thống các quan điểm chính trị pháp lý đầy đủ của Heghen đợc trình bày
trong tác phẩm triết học pháp quyền. Theo Heghen t tởng pháp quyền
trong quá trình phát triển trải qua một loạt cấp độ và ở mỗi cấp độ có hình
thức riêng và thời điểm của sự phát triển pháp quyền là ý chí tự do ý chí tự
do trớc hết là trực tiếp và bởi vậy nó có các tính cách của cái đơn nhất- tức
cá nhân. Sự tồn tại của cá nhân tạo ra tự do của mình là sở hữu. Pháp luật
là tự thân mang tính chất hình thức và trừu tợng. ở đây thể hiện bản chất
học thuyết Heghen về pháp luật, trớc hết, nội dung cơ bản pháp của pháp
luật trừu tợng là tổng thể các mối quan hệ giũa các cá thể nh các hủ sở hữu.
Pháp luật là mối quan hệ của con ngời, bởi lẽ họ là các nhân cách trừu tợng. Trong pháp luật trừu tợng các cá nhân tự do tác động qua lại lẫn nhau
nh những nhân cách và tuân thủ những quy phạm pháp luật.
Theo Heghen, Nhà nớ là hiện thực của t tởng đạo lý Sự tồn tại của Nhà
nớc là cuộc du ngoại của chúa trên thế giới.

18


Heghen cho rằng: Nhà nớc có giá trị tuyệt đối tự thân mà không cần một
sự khẳng định có tính chất thực dụng nào. Nhà nớc không phụ thuộc vào xã
hội công dân. Ngợc lại, xã hội cần tiền đề là sự tồn tại của Nhà nớc đi trớc
sự phát triển của xã hội. Sự phân biệt rõ ràng giữa xã hội và nhà nớc của
Heghen trong lịch sử t tởng chính trị đã đảo ngơc lại quan hệ của chúng từ
chân lên đầu.
Cùng với các lí luận nói trên, nhiều nhà luật học, chính trị trong thời kì
này đã góp phần phát triển các t tởng về nhà nớc pháp quyền nh: Tomat Gie
phec xơn (1743-1826), Tomat pên (1737-1809), Jôn Ađam (1735-1826),

Jem Medison (1752-1836), Tomat Giephecxon (1743-1826): dựa vào học
thuyết nguồn gốc khế ớc của nhà nớc, Giephecxon cho rằng: Quyên lực nhà
vua xuất phát từ quyền lực của nhân dân. Nếu nh chính quyền chà đạp các
quyền của nhân dân có quyền thay đổi chính phủ này bằng chính phủ khác
đáp ứng lợi ích của nhân dân. Nh vậy, Giephecxon khẳng định: Quyền nhân
dân nổi dậy chống lại bạo chúa, t tởng chủ quyền nhân dân, đó là điều có ý
nghĩa tiến bộ to lớn. Chính những t tởng này đã đợc phát triển trong tuyên
ngôn độc lập của Mỹ mà Mác gọi là: Tuyên ngôn quyền đầu tiên của con
ngời [5;tr 16-17]. Y nghĩa lịch sử của tuyên ngôn độc lập của Mỹ là ở chỗ
đó là văn bản Nhà nớc đầu tiên trong lịch sử tuyên bố t tởng chủ quyền
nhân dân là cơ sở đời sống của nhà nớc. Nhiệm vụ đầu tiên của nhà nớc
theo ông là phải đảm bảo tự do hạnh phúc cho con ngời.
Các quan điểm chính trị của Giephecxon là tiến bộ, phát triển các truyền
thống dân chủ trong các học thuyết chính trị của các nhà t tởng Mỹ.
Kế thừa những thành tựu mà những nhà t tởng trớc đây đã đạt đợc, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: Nhà nớc là sản phẩm
của xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định, Nhà nớc là một sự thừa
nhận rằng xã hội đó bị giam hãm trong vòng mẫu thuẫn với chính bản thân
nó mà không sao giải quyết đợc, rằng nó bị phân chia thành những cực đối

19


lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất lực không sao thoát ra khỏi [6;tr
9].
Tác phẩm Nhà nớc và cách mạng đã soi sáng một cách toàn diện vấn
đề dân chủ vô sản nh là nền dân chủ cao nhất, đã vạch ra sự khác biệt về
chất giữa dân chủ vô sản và dân chủ t sản, đã chỉ ra tính hình thức của nền
dân chủ t sản. Từ đó khẳng định: Hoàn thiện Nhà nớc và phát triển nền
dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đờng tiến tới chủ nghĩa cộng sản

[6;tr 40].
Tiếp thu những t tởng tiến bộ của nhân loại về nhà nớc pháp quyền,
đứng trên lập trờng dân chủ, dân tộc, yêu nớc, .t tởng về nhà nớc pháp
quyền với việc đề cao vai trò pháp luật cũng đợc hình thành sớm trong t duy
Hồ Chí Minh. Trong Yêu sách của nhân dân An Nam (1922) yêu sách
thứ bảy của Ngời viết Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo
luật.
Nh vậy, cùng với sự ra đời của nhà nớc những t tởng về nhà nớc pháp
quyền cũng dần đợc thành và phát triển qua các giai đoạn của lịch sử xã hội
loài ngời đã đạt đợc, nó là một bài học quý báu để xây dựng nhà nớc pháp
quyền cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới.
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của các t tởng về nhà
nớc pháp quyền và một số quan điểm hiện nay đã trình bày ở trên, có thể
khái quát một số dấu hiệu đặc trng thuộc nội hàm của khái niệm nhà nớc
pháp quyền sau đây:
Một là, Nhà nớc pháp quyền là nhà nớc mà trong đó hiến pháp và các
đạo luật giữ vị trí tối cao. Pháp luật đó phải có chất lợng tốt, nghĩa là phải
thể hiện đúng quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, phù hợp với hiện
thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hộipháp luật đó phải đợc nhà nớc và
nhân viên các cơ quan nhà nớc và mọi ngời trong xã hội tôn trọng, nghiêm
chỉnh chấp hành.

20


Hai là, Nhà nớc pháp quyền là nhà nớc mà quyền lực nhà nớc đợc tổ
chức trên nguyên tắc phân công rành mạch trong công việc thực hiện 3
quyền lập pháp, hành pháp và t pháp để thực hiện chức năng kiểm tra, giám
sát hoạt động quyền lực nhằm hạn chế lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp
pháp của công dân từ phía nhà nớc.

Ba là, nhà nớc pháp quyền là nhà nớc mà trong đó con ngời là giá trị cao
quý và là mục tiêu cao nhất. Do đó, nhà nớc bảo đảm cho công dân sự an
toàn pháp lí, đợc hởng các quyền và tự do cơ bản và bảo hộ cho họ khi các
quyền tự do cơ bản đó bị đợc vi phạm.
*Bản chất của nhà nớc pháp quyền.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về nhà nớc pháp quyền, nhng ngoài
những ý kiến đó, các tác giả tơng đối thống nhất với nhau về những dấu
hiệu đặc trng của nhà nớc pháp quyền.
Thứ nhất, Nhà nớc pháp quyền không phải là một kiểu Nhà nớc mà là
một mô hình nhà nớc giúp cho việc thực hiện mục tiêu mang bản chất của
chế độ chính trị, nó thể hiện một trình độ phát triển dân chủ.
Thứ hai, trong nhà nớc pháp quyền pháp luật giữ vị trí tối cao, bản thân
pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân đồng thời phù hợp với
hiện thực khách quan mọi ngời đều bình đẳng trớc pháp luật có nghĩa vụ
tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật .
Thứ ba, quyền lực nhà nớc đợc tổ chức theo nguyên tắc rành mạch giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp, t pháp với mục đích là kiểm soát quyền lực
nhằm hạn chế sự lộng quyền, làm quyền làm xâm hại đến lợi ích hợp pháp
của công dân từ phía cơ quan nhà nớc.
Thứ t, trong nhà nớc pháp quyền con ngời đợc coi là giá trị và mục tiêu
cao nhất. Các quyền con ngời đợc thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật
nhà nớc bảo đảm cho công dân những quyền cơ bản và bảo hộ cho họ
những quyền đó khi họ bị xâm phạm.

21


Thứ năm, Nhà nớc pháp quyền đối lập với các chính thể chính trị cực
quyền, độc quyền, thần quyền, quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân. Nhân
dân chính là ngời bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nớc một cách trực tiếp

và gián tiếp. Đồng thời chính nhân dân là ngời giám sát, kiểm soát những
hoạt động của cơ quan nhà nớc trong việc sử dụng quyền mà nhân dân ủy
thác.
Từ những dấu hiệu đặc trng trên, có thể khẳng định: Nhà nớc pháp
quyền là một phạm trù lịch sử, nó có giá trị mang tính phổ biến. Nhà nớc
pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của nhân loại và đã đợc các nớc kế thừa,
hiện thực hóa trong thực tế cuộc sống. Sự khác nhau về điều kiện kinh tế chính trị - xã hội, văn hóa cụ thể của từng nớc quy định sự khác nhau về
bản chất của nhà nớc pháp quyền. Nh vậy, nhà nớc pháp quyền là sự thống
nhất giữa cái phổ biến và cái đặc thù.
Nhà nớc t sản là kiểu nhà nớc bóc lột cuối cùng trong lịch sử, là công cụ
duy trì nền thống trị của giai cấp t sản đối với các tầng lớp nhân dân lao
động. Cơ sở kinh tế của nhà nớc t sản là quan hệ sản xuất TBCN dựa trên
chế độ t hữu t bản về t liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng d. Trong chủ
nghĩa t bản, quan hệ bóc lột của t sản đối với công nhân đợc che đậy bằng
sự bình đẳng có tính chất hình thức. Nói về bản chất của nhà nớc t sản,
Lênin viết : pháp luật bảo vệ mọi ngời nh nhau, nó bảo vệ tài sản của
những ngời có của chống lại sự xâm phạm của khối lớn những ngời không
có của, không có gì cả ngoài hai cánh tay và dần bị bần cùng hóa, bị phá
sản và biến thành vô sản [5;tr 90].
Nền dân chủ t sản là nền dân chủ thiểu số của bọn bóc lột. Nhà nớc cộng
hòa dân chủ t sản Dân chủ ở chỗ, nó cho phép giai cấp t sản quản lí các
công việc của nhà nớc. Song bản chất chủ yếu của dân chủ t sản là sự
chuyên chính không hạn chế đối với ngời lao động.

22


Phân tích thực chất của nền dân chủ t sản, Lênin khẳng định dân chủ t
sản: chỉ là một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu giả dối, một
thiên đờng cho bọn giàu có, một cạm bẫy, một cái mồi giả dối đối với ngời

bị bóc lột, đối với ngời nghèo [5;tr 305]
Kẻ nắm thực quyền trong nhà nớc t sản hiện đại là các tập đoàn t sản
lớn. Chúng có thể phát huy quyền vô hạn của t sản bằng cách mua chuộc
các viên chức nàh nớc, bằng sự liên minh giữa Chính phủ và sở giao dịch.
Chính vì vậy, Lê nin đã chỉ rõ: Quyền lực vô hạn của sự giàu có.
Trong trờng hợp nhất định, khi lợi ích t sản đòi hỏi giai cấp t sản sẵn
sàng thu hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ hình thức chính
trị tốt nhất của chủ nghĩa t bản, tớc bỏ dân chủ, để lộ nguyên hình một nền
chuyên chính dân chủ công khai dới hình thức độc tài phát xít - một hình
thức biểu hiện của nền chuyên chính t sản.
Tuy nhiên, chúng ta không phủ định những thành tựu mà nhà nớc t sản
đạt đợc, đó là: sự ra đời của nhà nớc t sản đánh dấu sự tiến bộ to lớn trong
lịch sử phát triển của nhân loại. Trong giai đoạn đầu, nhà nớc t sản đã có vai
trò tích cực trong việc giải phóng xã hội khỏi trật tự phong kiến, giải phóng
lực lợng sản xuất xã hội, đa đến bớc phát triển nhảy vọt của xã hội loài ngời.
Mặt khác, nền dân chủ vô sản với t cách là một nền dân chủ cao về chất
so với dân chủ t sản, cũng chỉ ra đời khi biết kế thừa phát triển toàn bộ
những giá trị dân chủ mà loài ngời đã sáng tạo ra, đặc biệt là những giá trị
đạt đợc trong chủ nghĩa t bản.
Việc phân tích khách quan về những thành tựu và hạn chế của nhà nớc t
sản trên đây cho thấy rằng trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời từ
khi có giai cấp là lịch sử không ngừng vơn lên để đạt tới nền dân chủ ngày
càng cao. Chỉ có thể đạt đợc một Nhà nớc thực sự dân chủ của nhân dân khi
xóa bỏ nhà nớc t sản để xác lập nhà nớc xã hội chủ nghĩa.

23


Tất cả các nhà nớc XHCN đều là nhà nớc cộng hòa dân chủ đợc đặc trng
bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc thành lập các cơ

quan đại diện của mình trên nguyên tắc bàu cử trực tiếp phổ thông bình
đẳng và bỏ phiếu kín.
Nhà nớc pháp quyền XHCN ra đời trong thế kỉ XX, trong khi đó nhà nớc pháp quyền t sản trải qua mấy trăm năm lịch sử. Nhà nớc pháp quyền
XHCN tạo lập trên cơ sở chuyển từ Nhà nớc dân chủ nhân dân thành nhà nớc pháp quyền XHCN.
Sự khác nhau về bản chất giữa Nhà nớc pháp quyền XHCN và Nhà nớc
pháp quyền t sản đợc quy định một cách khách quan trên cơ sở kinh tế và
chế độ chính trị của CNXH. Sự khác biệt ấy thể hiện ở những đặc điểm sau:
Nhà nớc pháp quyền XHCN và nhà nớc pháp quyền t sản đều phải thừa
nhận phơng thức tổ chức xây dựng và vận hành bộ máy nhà nớc do pháp
luật quy định. Tuy nhiên, các Nhà nớc đó có sự khác nhau về bản chất và
nội dung pháp luật, về tổ chức cơ cấu nhân sự và việc xây dựng bộ máy
quyền lực nh Quốc hội, Nghị viện, Tổng thống, Chủ tịch nớc, Thủ tớng
chính phủ, Tòa án, Hiến pháp. Trong nhà nớc pháp quyền XHCN thừa
nhận tất cả các quyền lực đều thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ
quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc
thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố
chấm dứt hoạt động của Quốc hội và Chính phủ. Trong khi đó, Hiến pháp
và pháp luật t sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống và cá
nhân Thủ tớng có quyền giải tán Nghị viện và giải tán Chính phủ.
Trong nhà nớc pháp quyền XHCN, Nhà nớc và công dân đều phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật vì pháp luật XHCN thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân nhng trong nhà nớc pháp quyền t sản pháp luật chỉ bảo
vệ lợi ích cho giai cấp t sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của ngời lao động.

24


Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa nhà nớc pháp quyền XHCN và
nhà nớc pháp quyền t sản.
Nhà nớc pháp quyền t sản coi thuyết Tam quyền phân lập là học

thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nớc, cac cơ quan lập pháp,
hành pháp, t pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền
đó.
Nhà nớc pháp quyền XHCN và nhà nớc pháp quyền t sản củng có nhiều
điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, nhà nớc pháp
quyền XHCN chỉ công nhận các quy pham pháp luật khi nó đợc xác lập và
thông qua một trình tự nhất định. Trong khi đó, nhà nớc pháp quyền t sản
thờng coi thờng án lệ hoặc tập quán nh một loại quy phạm pháp luật
bất thành văn.
Sự khác biệt đó thể hiện bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân
của nhà nớc chúng hòa quyện vào nhau đợc quán triệt, thể chế hóa và thực
hiện trên mọi lĩnh vực tổ chức, hoạt động của nhà nớc và chỉ có nhà nớc
mang bản chất của giai cấp công nhân hoạt động theo quan điểm đờng lối
tiên phong của giải cấp cấp công nhân mới đại biểu cho lợi ích chung củ
nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Vì vậy, việc kiếm tìm, xây dựng các
thiết chế, cơ chế nhà nớc nh thế nào cho phù hợp với đặc điểm truyền thống
dân tộc cũng nh điều kiện phát triển kinh tế- xã hội để đảm bảo tất cả quyền
lực nhà nớc thuộc về nhân dân luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam.
1.2.2. T tởng Hồ Chí Minh và sự nhận thức của Đảng ta về nhà nớc
pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
*T tởng xây dựng nhà nớc pháp quyền của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta, dân tộc ta một kho tàng
vô giá, đó là di sản t tởng của Ngời. Những t tởng khoa học và cách mạng

25


×