MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc” (Hồ
Chí Minh). Người sử dụng ngôn ngữ vì thế phải biết giữ gìn và quý trọng thứ tiếng nói
ấy. Nói cụ thể hơn là chúng ta cần chọn lọc, tập hợp, đúc kết, hệ thống hóa những gì
thực sự có giá trị và luôn luôn rèn luyện thứ ngôn ngữ của chính chúng ta. Có lẽ vì
vậy, công việc rèn luyện ngôn ngữ là một hoạt động hữu ích nhằm hình thành và phát
triển ngôn ngữ văn hóa cho từng thành viên của xã hội.
Hiện nay, việc nói và viết có sự nhầm lẫn âm đầu L/N là một hiện tượng tương
đối phổ biến ở một số thổ ngữ đồng bằng trung du thuộc phương ngữ Bắc bộ. Hiện
tượng này từ lâu đã được coi là một hiện tượng lệch chuẩn trong việc sử dụng ngôn
ngữ của cộng đồng. Nó có ảnh hưởng ít nhiều đến độ rõ ràng của lời nói khi phát ngôn
cũng như trong việc học tiếng nước ngoài, từ đó cũng có những ảnh hưởng nhất định
về phương diện xã hội trong đời sống của con người như cơ hội việc làm hay cơ hội
thăng tiến.
Trong trường ĐHSP Hà Nội 2 nói chung cũng như khoa Ngữ văn nói riêng, một
bộ phận không nhỏ các em sinh viên có sự nhầm lẫn L/N trong việc nói và viết. Điều
này đã có sự ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu đào tạo của nhà trường là đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng những yêu cầu đặt ra của xã hội và hơn hết là đào
tạo con người đúng với tinh thần là “chiêc máy cái” của ngành giáo dục. Với sinh viên
ngành Ngữ văn, một ngành học đòi hỏi người học có những hiểu biết nhất định về hệ
thống tri thức ngôn ngữ và tiếng Việt để sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, có
ý thức thì sự nhầm lẫn này càng gây ra những ảnh hưởng nhất định.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
Các giải pháp khắc phục hiện tượng nói và viết ngọng l -n cho sinh viên khoa Ngữ
Văn, trường ĐHSP Hà Nội 2. Qua khảo sát thực trạng phát âm L/N của sinh viên
khoa Ngữ văn, trường ĐHP Hà Nội 2, đề tài đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm
giúp người sử dụng ngôn ngữ hiểu được một cách rõ ràng bản chất của sự nhầm lẫn
này, từ đó hướng tới vấn đề chuẩn chính âm và chính tả trong tiếng Việt, đặc biệt là
chuẩn hóa về chính âm, chính tả cho các thầy giáo, cô giáo Ngữ văn tương lai.
1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhầm lẫn L/N là một hiện tượng phổ biến được xem là lỗi phát âm
(articulation errors) của người Việt. Đây không phải là hiện tượng người sử dụng ngôn
ngữ không phát âm được âm L hay âm N mà chỗ đáng nói là N thì nói thành L và
ngược lại chỗ đáng nói là L thì nói là N. Hiện tượng này đã được các nhà Việt ngữ học
quan tâm xem xét từ lâu và cũng là vấn đề được toàn xã hội quan tâm.
Tác giả Phan Ngọc trong [5] đã đề xuất một số quy tắc để phân biệt L và N như
mẹo về âm đệm, mẹo láy âm, láy vần, mẹo đồng nghĩa giữa những từ bắt đầu là NH và
L. Sau này, Nguyễn Minh Thuyết trong giáo trình “Tiếng Việt thực hành” (1997),
phần viết về Chữa các lỗi thông thường về chính tả, cụ thể là lỗi lẫn lộn L và N cũng
đã đề cập đến một số mẹo trên cơ sở những quy tắc Phan Ngọc đưa ra: mẹo về âm
đệm, mẹo láy âm, mẹo đồng nghĩa lài - nhài. Đây là những mẹo chữa về chính tả hữu
ích giúp người sử dụng ngôn ngữ có thể ứng dụng.
Tác giả Phan Thiều trong [7] lại chú ý nhiều hơn về vấn đề phát âm hai âm L/N.
Tất nhiên tác giả vẫn nhấn mạnh việc chữa lỗi này về thực chất chỉ là việc luyện chính
tả. Tác giả đã đưa ra một số bài tập cụ thể từ những bài tập luyện phát âm hai âm L/N
trong từ, trong câu hay trong văn bản.
Bên cạnh những giải pháp chữa lỗi mà các nhà ngôn ngữ đề xuất, trong cộng
đồng ngôn ngữ cũng đã có những chiến dịch sửa lỗi phát âm L/N như sửa lỗi cho giáo
viên và học sinh ở 13 huyện ngoại thành Hà Nội, sửa lỗi phát âm ở các vùng miền
khác nhau như Hải Dương, Hải Phòng…
Trên cơ sở những vấn đề lí thuyết chữa lỗi L/N cũng như những dự án chữa lỗi
đã triển khai trong cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ, chúng tôi đặt vấn đề nghiên
cứu đề tài Các giải pháp khắc phục hiện tượng nói và viết ngọng L - N cho sinh viên
khoa Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội 2. Nắm vững bản chất của hiện tượng nhầm
lẫn L/N, chúng tôi nghĩ rằng đề tài có tính ứng dụng này sẽ giúp cho sinh viên khoa
Ngữ văn có được những phương pháp thiết thực trong việc chữa lỗi, từ đó hướng tới
việc chuẩn hóa về chính âm, chính tả cho sinh viên trước khi ra trường.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích của đề tài
Dựa vào kết quả khảo sát thực trạng hiện tượng nhầm lẫn L/N trên đối tượng
sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội 2, đề tài đề xuất những giải pháp cụ thể
2
để giúp SVKNVĐHSPHN2 nói riêng cũng như người sử dụng ngôn ngữ nói chung
hiểu được bản chất của sự nhầm lẫn này, từ đó hướng tới vấn đề chuẩn chính âm và
chính tả trong tiếng Việt
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tổng hợp những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài như vấn đề chuẩn chính
âm, chính tả trong tiếng Việt …
- Đánh giá thực trạng nói ngọng và viết sai L/N ở SVKNVĐSPHN2,
- Đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hai loại lỗi nói trên, đặc biệt là
các biện phát chữa lỗi phát âm, từ đó giúp SV hướng tới chuẩn chính âm và chuẩn
chính tả trong giao tiếp.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp để chữa lỗi nhầm lẫn L/N, một loại lỗi có tính chất phổ
biến ở một số thổ ngữ thuộc đồng bằng Bắc bộ là đối tượng nghiên cứu của đề tài này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để khảo sát thực trạng hiện tượng nhầm lẫn L/N và đề xuất những giải pháp
chữa lỗi này, chúng tôi giới hạn phạm vi tìm hiểu ở đối tượng sinh viên khoa Ngữ văn,
trường ĐHSP Hà Nội 2. Bởi sinh viên ngành Ngữ văn luôn luôn phải có những hiểu
biết nhất định về hệ thống tri thức ngôn ngữ và tiếng Việt để hướng tới việc sử dụng
ngôn ngữ có tính chất “chuẩn hóa”, góp phần giữ gìn và phát triển thứ tiếng nói của
dân tộc.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp thống kê
Để khảo sát thực trạng nhầm lẫn L/N ở đối tượng sinh viên khoa Ngữ văn,
trường ĐHSP Hà Nội 2, chúng tôi thực hiện theo hai bước sau:
- Bước 1: Cho một số văn bản cụ thể xuất hiện những từ ngữ chứa hai âm đầu
L/N, yêu cầu sinh viên đọc văn bản, từ đó thống kê những lỗi nhầm lẫn L/N cụ thể về
phát âm.
- Bước 2: Cho một số văn bản cụ thể có xuất hiện những từ ngữ có âm đầu L/N
để trống, yêu cầu sinh viên đọc văn bản và điền vào chỗ trống những âm đầu thích
3
hợp, đồng thời cho sinh viên viết đoạn văn theo chủ đề, từ đó thống kê những lỗi nhầm
lẫn L/N về phương diện chính tả.
5.2. Phương pháp phân loại
Phương pháp này được sử dụng để phân chia lỗi nhầm lẫn L/N thành những
tiểu loại nhỏ khác nhau trên cơ sở thống kê số sinh viên mắc lỗi cụ thể. Từ đó chúng
tôi cố gắng tìm ra đặc điểm riêng của từng tiểu loại để hướng tới đưa ra những giải
pháp chữa lỗi thích hợp.
5.3. Phương pháp phân tích
Dựa vào bản chất của hiện tượng nhầm lẫn L/N nói chung, trên cơ sở phân chia
thành các tiểu loại lỗi nói riêng, chúng tôi tiến hành phân tích đặc điểm lỗi nhầm lẫn
này ở sinh viên khoa Ngữ văn trên các tiêu chí cụ thể như tần số mắc lỗi, sự ảnh hưởng
của vùng địa lí, của thói quen phát âm… từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể và phân tích
bản chất của từng hướng giải pháp.
5.4. Phương pháp miêu tả
Miêu tả các nhóm lỗi về nhầm lẫn L/N trên cả hai phương diện về ngữ âm và
chính tả. Thông qua sự miêu tả này, bản chất của hiện tượng nhầm lẫn được làm rõ.
Những giải pháp đặt ra trên cơ sở những loại lỗi cụ thể cũng được chúng tôi xem xét
và đánh giá một cách toàn diện nhằm hướng tới những hướng chữa lỗi tối ưu.
5.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này so sánh đối chiếu giữa các loại lỗi nhầm lẫn L/N để từ đó tìm
ra loại đang xuất hiện nhiều ở người sử dụng ngôn ngữ, từ đó hướng tới xác định
nguyên nhân và giải pháp khắc phục
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
6.1. Về mặt lí luận
Đề tài xác định rõ hiện tượng phát âm lẫn lộn hai phụ âm được xem là nói
ngọng (hay lỗi phát âm) khi hiện tượng này xảy ra trong phạm vị hẹp như trong trường
học, cơ quan, gia đình. Trên cơ sở phân tích lỗi phát âm của SVKNVĐSPHN2, đề tài
cũng đã đề xuất những giải pháp cụ thể ở cả hai phương diện lí thuyết và thực hành để
giúp sinh viên chữa lỗi phát âm và chính tả L/N.
4
6.2. Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu hiện tượng nhầm lẫn L/N theo hướng khảo sát lỗi và chữa lỗi trên
đối tượng sinh viên khoa Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội 2 là một hướng nghiên cứu
có tính thực tiễn, hướng tới việc chuẩn hóa về chính âm, chính tả cho sinh viên, đặc
biệt là các thầy giáo, cô giáo tương lai. Các giải pháp chữa lỗi phát âm L/N mà đề tài
đề xuất không chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp đối với SVKNV mà còn có thể mở rộng
đối với SV trường ĐHSP Hà Nội 2 nói chung, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường.
7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ
lục, đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Vấn đề phát âm lẫn lộn và viết sai L/N ở sinh viên khoa Ngữ văn
trường ĐHSP Hà Nội 2
Chương 3: Các giải pháp khắc phục
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. CƠ SỞ XÃ HỘI
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ không phải là hiện tượng tự nhiên
mang tính bản năng hay di truyền mà nó được ra đời và phát triển trong môi trường
giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ chỉ có thể phát triển theo hướng chuẩn mực khi được con
người sử dụng trong môi trường giao tiếp văn hóa.
Bên cạnh hệ thống ngữ âm chuẩn mực (hệ thống chính âm) thì ở mỗi địa phương,
mỗi vùng đất lại tồn tại những cách phát âm biến thể thể hiện thói quen phát âm địa
phương và văn hóa vùng miền. Nhưng hiện nay ở vùng phương ngữ Bắc bộ xuất hiện
một hiện tượng phát âm bất bình thường mà người ta gọi là ngọng, đó chính là phát âm
nhầm lẫn L/N. Theo PGS. TS Phạm Văn Tình: “ Kiểu phát âm sai này thường gây cho
cảm giác người nghe thấy lạ, thậm chí hơi quê. Nguyên nhân ở đây là do thói quen
của một vùng miền nào đó. Khi đã trở thành thói quen thì người ta không nhận ra
được sự bất bình thường.” [11.1]. Lỗi phát âm này ngày càng phổ biến và đã tạo ra
một môi trường giao tiếp xã hội không chuẩn mực ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Hàng
ngày, trẻ em phải sống trong một môi trường giao tiếp trong gia đình, trong lớp học và
cả ngoài xã hội có nhiều người phát âm sai L/N. Ngay từ nhỏ, nhiều em đã phát âm
sai. Vì vậy nó như một “căn bênh” lây lan rất nhanh và khó chữa.
Như vậy, việc chưa lỗi phát âm và chính tả cho sinh viên là cần thiết và chỉ đạt
hiệu quả khi một số vấn đề xã hội được giải quyết thấu đáo. Những vấn đề đó là:
- Tạo ra môi trường giao tiếp xã hội chuẩn mực.
- Đào tạo giáo viên chuẩn mực.
- Tuyên truyền về ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng chính âm, chính tả trong mối
quan hệ với việc giữ gìn sự trong sáng và chuẩn mực của tiếng Việt.
1.2 CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC
1.2.1 Chuẩn mực ngôn ngữ
Theo PGS. TS Đinh Trọng Lạc: “ Chuẩn mực ngôn ngữ là toàn bộ các phương tiện
ngôn ngữ được sử dụng đã được mọi người thừa nhận và đã được coi là đúng và mẫu
mực trong xã hội nhất định và trong thời đại nhất địnhcũng như toàn bộ các qui tắc sử
6
dụng của xã hội đối với ngôn ngữ đó.” [3, 10]. Chuẩn mực ngôn ngữ thể hiện ở mọi
cấp độ của ngôn ngữ như: phát âm, viết chữ, dùng từ, đặt câu…
1.2.2 Chính âm và hệ thống ngữ âm chuẩn mực
1.2.2.1 Chính âm
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học: “Chính âm là cách phát âm phù
hợp với chuẩn phát âm đã được thừa nhận trong một ngôn ngữ; hệ thống các chuẩn
mực phát âm của ngôn ngữ đó. ” [10, 47]
1.2.2.2 Bản chất của ngữ âm
Bản chất của âm thanh ngôn ngữ bao gồm:
a. Bản chất xã hội: Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống ngữ âm riêng được cộng đồng
người quy ước, thừa nhận và sử dụng. Những quy ước của cộng đồng đối với số lượng
âm vị và cách thức phát âm khiến cho các đơn vị ngữ âm có tính chung, tính dân tộc
và tính chuẩn mực.
b. Bản chất tự nhiên: Bao gồm bản chất sinh học và bản chất âm học.
Bản chất âm học: Các âm được phân biệt với nhau dựa vào các đặc trưng cường
độ, trường độ, cao độ, âm sắc...
Bản chất sinh học: Nghiên cứu bản chất sinh học chính là khảo sát cách tạo ra âm
thanh ngôn ngữ trong bộ máy phát âm của con người. Khi phát âm, một loạt các cơ
quan trong bộ máy phát âm của con người như: khoang miệng, khoang mũi, thanh hầu,
răng, môi, lưỡi, lợi, vòm ngạc… tham gia vào việc tạo âm. Để miêu tả và nhận diện
cách phát âm của phụ âm, người ta chú ý tới 3 căn cứ: phương thức phát âm (cách cản
hơi và phá cản), bộ phận cấu âm (bộ phận cản hơi và phá cản) và sự tham gia của dây
thanh. Theo đó, có thể miêu tả cách phát âm của 2 âm vị /N/, /L/ như sau:
/L/: Phụ âm xát- bên (luồng hơi lách qua 2 bên cạnh lưỡi để thoát ra ngoài), hữu
thanh, đầu lưỡi - lợi.
/N/: Phụ âm tắc - vang mũi (luồng hơi thoát ra qua khoang mũi), hữu thanh, đầu
lưỡi - lợi.
Đặc điểm âm học của âm thanh ngôn ngữ là căn cứ để xác định những điểm đồng
nhất và khác biệt của đơn vị ngữ âm trong hệ thống chuẩn mực.
7
1.2.2.3. Hệ thống ngữ âm chuẩn mực trong tiếng Việt
Muốn rèn kĩ năng chính âm, chính tả cho sinh viên, cần dựa vào các đơn vị ngữ âm
và phương thức phát âm chuẩn mực các đơn vị ngữ âm. Các đơn vị ngữ âm theo chuẩn
mực của tiếng Việt đó là âm vị và âm tiết (tiếng).
a. Âm vị
Trong hệ thống ngữ âm của mỗi ngôn ngữ, âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có
chức năng khu biệt nghĩa, nhận diện từ.
Các âm vị trong hệ thống ngữ âm được phân chia thành nguyên âm và phụ âm.
Đây là những đơn vị ngữ âm do cộng đồng sử dụng ngôn ngữ quy ước mà thành.
Những âm vị chuẩn mực sẽ được mọi người trong cộng đồng dùng ngôn ngữ đó chấp
nhận và sử dụng. Vì thế âm vị thể hiện rõ đặc thù của ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, đề
cập đến tính chuẩn mực của âm vị, chúng ta cần phân biệt những chuẩn mực trong
toàn xã hội với những chuẩn mực chỉ gắn với một vùng, miền ( phương ngữ).
+ Tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi.
Các nguyên âm đơn được ghi bằng các chữ sau: i, ê, e, a, ơ, ô, o, u, ư, ă, â.
Mỗi nguyên âm đôi của tiếng Việt thường được ghi bằng những chữ khác nhau.
Ví dụ :
Nguyên âm đôi /ie/ được ghi bằng các chữ “ia, iê, ya, yê”.
Nguyên âm đôi /uo/ được ghi bằng các chữ “uô, ua”.
Nguyên âm đôi /աɤ/ được ghi bằng các chữ “ưa, ươ”.
+Tiếng Việt có 23 phụ âm đầu được ghi lại bằng các chữ cái sau: m, n, ng, ngh,
nh, b, t, ch, tr, c, k, q, đ, th, ph, v, x, s d, gi, r, kh, g, gh, h, l, p.
Trong quá trình học tiếng Việt, ngoài những lỗi phát âm phụ âm mà sinh viên
thường mắc như lẫn lộn cặp phụ âm: s-x, d-r-gi, ch-tr… thì một số lượng không ít sinh
viên vùng đồng bằng Trung du Bắc bộ thường hay lẫn cặp l/n.
Việc đánh giá kết quả rèn luyện chính âm tiếng Việt cho sinh viên cần phải dựa
vào những chuẩn mực của các âm vị và cách phát âm chuẩn mực các đơn vị đó.
b. Âm tiết (tiếng)
Tiếng Việt là một thứ tiếng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết (tiếng) được
xác định là một loại hình đơn vị cơ bản. Âm tiết tiếng Việt có một số đặc điểm cơ bản
sau:
8
+Tính phân tíết: Âm tiết tiếng Việt có hình thức ngữ âm ổn định và có ranh giới rõ
ràng trong lời nói, giữa các tiếng có khoảng cách đủ để tách biệt chúng. Khi phát âm,
tiếng nọ nối tiếp tiếng kia tuần tự theo hình tuyến, các tiếng không dính vào nhau.
Từ đặc điểm này, người Việt quan niệm phát âm đạt chuẩn mực là phải “tròn vành,
rõ chữ”.
+ Về đặc điểm cấu tạo, âm tiết tiếng Việt có đặc thù riêng.
Ở dạng thức đầy đủ nhất, mỗi tiếng gồm phụ âm đầu và vần. Vần lại gồm âm đệm,
âm chính, âm cuối vần và thanh điệu. Ở dạng rút gọn nhất, mỗi tiếng do một âm chính
và một thanh điệu tạo thành. Như vậy dù được cấu tạo ở dạng nào, trong tiếng bao giờ
cũng có hạt nhân là nguyên âm và thanh điệu. Khả năng kết hợp của các yếu tố cấu tạo
âm tiết cũng tuân theo quy tắc nhất định. Điều này thể hiện ở các quy tắc chính tả.
+ Âm tiết tiếng Việt trùng với một hình vị, trùng với từ đơn, hoặc là một thành tố
để cấu tạo từ láy, từ ghép. Vì vậy, phần lớn âm tiết tiếng Việt có nghĩa. Từ đặc điểm
này, việc dạy học phát âm tiếng Việt không thể thoát li với việc dạy từ, hiểu nghĩa của
từ trong hoạt động sử dụng. Bởi vì việc phát âm sai sẽ dẫn đến sự sai lệch về nội dung
chữ nghĩa của đơn vị ngôn ngữ trong giao tiếp, hoặc ngược lại do hiểu sai ý nghĩa của
từ mà phát âm không chính xác.
1.2.3 Chính tả tiếng Việt
1.2.3.1 Khái niệm
Theo nghĩa thông thường, chính tả là “viết đúng” theo các quy tắc của một hệ
thống chữ viết. Nội dung của chính tả là:
- Xác định và thực hiện cách viết đúng của các từ ngữ theo quy tắc của hệ thống
chữ viết. Ví dụ chữ Việt phân biệt các con chữ tr/ch, l/n, s/x… và quy định phải viết
đúng chính tả đối với các từ ngữ như: truyện - chuyện, lẻ - nẻ, xa - sa…
- Xác định và thực hiện các quy tắc khác: viết hoa, phiên âm…
1.2.3.2. Yêu cầu của chuẩn chính tả
Chính tả là một mặt của vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ. Chuẩn chính tả phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
- Tính bắt buộc: So với chính âm, chính tả có yêu cầu chuẩn mực cao hơn rất
nhiều. Có thể nói không theo chính âm nhưng viết thì không thể tùy tiện sai chính tả
bởi chính tả có tính chất pháp lí và xã hội.
- Tính ổn định: Viết chữ là thói quen. Vì vậy chính tả phải ổn định trong một thời
gian tương đối dài để hình thành thói quen cho người viết.
- Tính ổn định nhưng không phải là bất biến: Chuẩn chính tả có thể thay đổi khi
không còn phù hợp.
9
1.2.3.3. Vấn đề chính tả của chữ Việt
Để xây dựng chính tả hợp lí cho chữ viết của tiếng Việt, một ngôn ngữ không biến
hình, thì nguyên tắc chính tả ngữ âm học là nguyên tắc cơ bản nhất. Nguyên tắc này
yêu cầu có sự phù hợp 1/1 trong mối quan hệ giữa con chữ và âm vị. Điều này có
nghĩa là một con chữ phản ánh một âm vị, ngược lại một âm vị chỉ được phản ánh
bằng một con chữ. Phần lớn các âm vị theo sát nguyên tắc này nhưng có một số trường
hợp không vi phạm nguyên tắc: một âm vị được ghi bằng hai, ba con chữ hoặc một
con chữ dung để ghi nhiều âm vị. Vì vậy ngoài nguyên tắc chính tả ngữ âm học, tiếng
Việt còn bổ sung thêm nguyên tắc hình thái học và nguyên tắc chính tả truyền thống:
- Phân biệt một số hình vị đồng âm khác nghĩa: da thịt/ gia nhập.
- Dựa vào từ nguyên để quy định cách viết: sử dụng/ xử sự, lưỡi liềm/ niềm tin…
- Không thay đổi thói quen viết chữ đã có từ lâu: ghế/ gà, nghỉ/ nga
1.3. CƠ SỞ GIÁO DỤC HỌC
1.3.1. Nguyên tắc giáo dục
1.3.1.1 Nguyên tắc sát với đối tượng
Nội dung và phương pháp rèn luyện chính âm, chính tả phải sát với đối tượng là
sinh viên.
1.3.1.2 Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này có vai trò chỉ đạo nội dung, phương pháp rèn luyện chính âm,
chính tả. Dựa vào nguyên tắc này, một hệ thống bài tập từ dễ đến khó, bài tập luyện
tập đến bài tập sáng tạo trong hoạt động nói và viết phải được xây dựng hợp lí, khoa
học.
1.3.1.2 Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp
Để hình thành các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực, cần phải đưa sinh viên
tham gia hoạt động nói, viết với hai tư cách là người viết tiếp nhận và người tạo lập ra
ngôn bản. Cách thực hiện tốt nhất là tạo ra những tình huống giao tiếp hoạt động chính
khóa, ngoại khóa để sinh viên có cơ hội được nghe, nói, đọc và viết.
1.3.2. Phương pháp thực hiện
1.3.2.1 Phương pháp miêu tả trực tiếp
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả cách phát âm hoặc nêu các nguyên
tắc chính tả trên cơ sở chuẩn bực chính âm, chính tả tiếng Việt. Miêu tả cách cấu âm
của từng âm để thấy được điểm giống vào khác nhau về cấu âm của hai âm vị này, từ
10
đó luyện phát âm sao cho đúng. Miêu tả các nguyên tắc chính tả tiếng Việt giúp sinh
viên nắm được các quy tắc cũng như yêu cầu về chuẩn mực chữ viết.
1.3.2.2 Phương pháp thực hành
Đây là một trong những phương pháp chủ đạo được sử dụng trong việc rèn luyện
các kĩ năng chính âm, chính tả. Phương pháp thực hành được vận dụng thông qua các
bài tập trên lớp như: luyện phát âm, luyện đọc, luyện nói theo chủ đề, chữa lỗi phát
âm, chữa lỗi chính tả… Ngoài ra, việc thực hành đối với sinh viên cần phải thực hiện
phối hợp qua tất cả các môn học, thông qua các hoạt động chính khóa cũng như ngoại
khóa. Chữa lỗi phát âm L/N là một quá trình rèn luyện cực kì lâu dài, đòi hỏi sự tự
giác, nhẫn nại và khổ công của mỗi người thông qua các hoạt động nói viết hàng ngày.
Qua tất cả các dạng thực hành này, người sử dụng ngôn ngữ phải có ý thức ghi nhớ
cách viết, cách phát âm của từng từ cụ thể.
1.3.2.3 Phương pháp dùng mẹo
Đây là cách cung cấp cho sinh viên những thủ thuật chữa lỗi một cách giản tiện,
thông thường.
1.3.2.4 Phương pháp phân tích ngữ cảnh
Phương pháp này được vận dụng trong các bài tập nhận diện những cách nói, viết
chuẩn mực hoặc mắc lỗi. Đây là phương pháp có thể sử dụng để chỉ ra nguyên nhân
mắc lỗi trong từng ngữ cảnh cụ thể nhằm tìm ra cách sửa lỗi phù hợp.
1.3.2.5 Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp dùng để đối chiếu các đơn vị ngữ âm, từ đó chỉ ra sự đồng
nhất và khác biệt giữa các trường hợp sinh viên hay nhầm lẫn. Ngoài ra còn có thể
dùng để đối chiếu giữa cách nói, viết chuẩn và vi phạm chuẩn. Qua đó giúp sinh viên
nhận ra chuẩn mực trong phát âm và chính tả.
Dựa trên những tiền đề lí luận này, chúng tôi sẽ nghiên cứu đề tài theo hướng
khảo sát thực tế, phân tích nguyên nhân và tìm ra những biện pháp khắc phục loại lỗi
ngọng L/N cho sinh viên khoa Ngữ Văn, nhằm đáp ứng mục tiêu chung của việc dạy
môn Văn và Tiếng Việt trong nhà trường là giữ gìn sự chuẩn mực và trong sáng của
tiếng Việt .
11
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ PHÁT ÂM LẪN LỘN VÀ VIẾT SAI L/N Ở SINH VIÊN
KHOA NGỮ VĂN, TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI 2
2.1 VẤN ĐỀ PHÁT ÂM LẪN LỘN VÀ VIẾT SAI L/N
2.1.1 Khái niệm ngọng, nói ngọng
Theo Từ điển tiếng Việt [6,681], ngọng có nghĩa “không phát âm đúng một số âm
do có tật hoặc chưa nói sõi. Nói ngọng. Người ngọng”. Từ láy ngọng nghịu mang
nghĩa khái quát. Giọng nói ngọng nghịu của trẻ thơ. Như vậy, theo định nghĩa này,
ngọng được hiểu như một dạng bệnh lí do có tật ở cơ quan phát âm hay hiện tượng nói
chưa sõi ở trẻ em do bộ máy phát âm chưa hoàn thiện.
Trong thực tế giao tiếp, từ ngọng hay nói ngọng còn được dùng để chỉ hiện tượng
phát âm không đúng chuẩn chính âm. Chẳng hạn N phát âm thành L, dấu hỏi phát
âm thành dấu ngã hay thuyền được phát âm thành thuền… đều được gọi là ngọng.
Ngoài ra, người ta còn dùng những tên gọi khác để chỉ hiện tượng phát âm không
chuẩn như phát âm sai, phát âm lỗi hoặc phát âm lệch chuẩn. Dù sử dụng tên gọi nào
thì những cụm từ này đều có nghĩa phát âm không chuẩn theo chính âm một hay nhiều
hơn một thành phần trong âm tiết tiếng Việt và ít nhiều làm ảnh hưởng đến độ rõ ràng
của lời nói khi phát ngôn. [11.4]
Phát âm sai hay phát âm không chuẩn có nhiều biểu hiện. Như chúng ta biết, cấu tạo
đầy đủ của âm tiết tiếng Việt gồm 5 thành phần: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối
và thanh điệu. Hai thành phần bắt buộc phải có mặt trong âm tiết là âm chính và thanh
điệu; ba thành phần còn lại âm đầu, âm đệm, âm cuối có thể vắng mặt trong âm tiết.
Xét theo thành phần cấu tạo âm tiết, lỗi phát âm có thể xảy ra ở cả năm bộ phận nói
trên. Ở vị trí âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối, các dạng lỗi phát âm có thể xảy ra
là:
- Mất âm, ví dụ: quyên → quên, thuyền → thuền, khoan → khan, núi non → úi
on…
- Thay thế âm, ví dụ: mũ nồi → mũ lồi, núi non → lúi lon…
Riêng thanh điệu thì lỗi xảy ra ở dạng thay thế âm, cụ thể thanh ngã phát âm
thành thanh sắc (ngã → ngá, nước lã → nước lá), thanh hỏi phát âm thành thanh nặng
(tủ → tụ…)
Tuy nhiên, khi nhắc đến nói ngọng hay phát âm sai là người ta nghĩ ngay đến
việc lẫn lộn hai phụ âm đầu L/N. Giải thích cho điều này phải chăng vì việc phát âm
12
lẫn lộn hai âm này khá phổ biến ở tần suất các từ xuất hiện; lại phổ biến đối với nhiều
người, nhiều vùng? Thêm vào đó, sự đối lập giữa N và L lớn nên hầu hết mọi người
đều nhận thấy sự lệch chuẩn này. Vậy thực chất của hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N là
như thế nào? Đó có được xem là hiện tượng phát âm lệch chuẩn không hay đó là tập
quán phát âm địa phương? Tập quán phát âm lẫn lộn L/N gây ra những phản ứng như
thế nào? Phương pháp nào là hữu hiệu nhất để xóa bỏ sự lẫn lộn này? Đó là một loạt
những câu hỏi đặt ra khi chúng tôi tiếp cận với đề tài này.
2.1.2 Vấn đề phát âm lẫn lộn N và L
Xoay quanh việc phát âm lẫn lộn hai phụ âm N và L hiện nay tồn tại rất nhiều các ý
kiến, thậm chí có những quan điểm trái ngược, phủ định lẫn nhau. Ngòi nổ trực tiếp
cho cuộc tranh luận này bùng lên từ khi Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội phát động
phong trào chữa ngọng L/N đối với 13 huyện ngoại thành Hà Nội năm học 2011-2012.
Dưới đây, do khuôn khổ của đề tài có hạn, chúng tôi tạm thời trình bày vắn tắt hai
quan điểm chính xoay quanh vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc phát âm lẫn lộn L/N là do tập quán phát âm địa
phương chứ không phải là hiện tượng nói ngọng. Những người chủ trương cho quan
niệm này không ai khác chính là những chuyên gia đầu ngành về ngôn ngữ học ở nước
ta. Tác giả Vũ Kim Bảng cho rằng, bản chất của vấn đề nói ngọng là hiện tượng có
tính chất phương ngữ. Đó là hiện tượng phát âm không đúng so với chuẩn chính tả.
Tức là, không phân biệt trong cách phát âm các phụ âm đầu như ch - tr, x - s, d - gi - r
của miền Bắc hay sự lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu ngã ở khu vực miền Trung.[11.2]
Đồng tình với quan điểm trên, GS.TS Nguyễn Văn Hiệp cũng cho rằng: “Nói
ngọng N/L thực chất là người ta vu vạ cho một đặc điểm phương ngữ của một số vùng
nào đó mà thôi” [11.2]. Để minh chứng cho ý kiến này, ông đã so sánh hiện tượng phát
âm lẫn lộn N và L ở Hà Nội cũng tương tự như việc phát âm lẫn lộn thanh hỏi và thanh
ngã ở Huế . Việc bắt người Hà Nội phân biệt L/N trong phát âm cũng khó như việc bắt
người Huế phân biệt nghỉ ngơi và nghĩ ngợi. Chính vì quan niệm phát âm lẫn lộn L/N
là đặc điểm phương ngữ của một vùng nên ông cho rằng việc chữa ngọng L/N thực sự
không cần thiết. Chỉ khi nào cá nhân cảm thấy cần thiết phải thay đổi thì họ sẽ tự sửa.
Còn việc chữa ngọng theo phong trào chỉ là việc làm tốn công vô ích mà thôi.
Đồng thuận với quan niệm trên đây, tác giả Hoàng Dũng [11.3] cũng cho rằng, nếu
đã là cách phát âm theo tập quán địa phương thì không thể xóa bỏ cách phát âm đó.
Không thể nhân danh bất cứ cái gì để xóa bỏ cách phát âm địa phương vì đó là một
phần tài sản văn hóa của họ.
13
Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội, GS Nguyễn Văn Hiệp cũng nói thêm rằng,
đôi khi việc phát âm lẫn lộn L/N lại được xem như một dấu hiệu hòa đồng nhóm. Một
trong những nguyên tắc để giao tiếp thành công là phải tăng dấu hiệu đồng thuận
nhóm, vì thế, trong giao tiếp người ta cũng có thể phát âm lẫn lộn N/L để đạt được
mục đích giao tiếp. [11.2]
Bàn về hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N, PGS Phạm Văn Hảo lại đưa ra một quan
điểm khá bất ngờ. Ông cho rằng, việc lẫn lộn L/N không phải là tàn dư của các
phương ngữ hay thổ ngữ cổ xưa mà đây là một xu thế đang trong quá trình phát triển
theo hướng mất dần tiêu chí khó, để giản tiện hóa cấu âm. Có nghĩa là âm L khó đọc
thì cộng đồng dần dần muốn giản hóa đi. Đây là xu hướng phát triển chung của ngôn
ngữ trong đó có tiếng Việt. Chẳng hạn, trong quá khứ, các âm kép như bl, tl đã được
lược bỏ nhiều.[11.3]
Như vậy, từ một số ý kiến trên đây, có thể thấy phần lớn các chuyên gia đầu ngành
về ngôn ngữ học đều đồng thuận với nhau rằng, việc phát âm lẫn lộn L/N không phải
là hiện tượng nói ngọng (hay phát âm sai) mà đó là tập quán phát âm địa phương, hay
nói cách khác, đó là đặc điểm phương ngữ. Hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N rất phổ
biến ở đồng bằng Bắc bộ. Hiện tượng này cũng tương tự như các trường hợp tr phát
âm thành ch, s phát âm thành x… Những ý kiến này lưu ý chúng ta cần hết sức thận
trọng khi phát động phong trào chữa lỗi phát âm L/N trên một phạm vi địa lí rộng lớn.
Trái ngược với các ý kiến trên đây, một số nhà ngôn ngữ học khác lại quan niệm
việc phát âm lẫn lộn L/N là phát âm sai và cần thiết phải sửa. Đáng chú ý là ý kiến
của Đoàn Thiện Thuật, chuyên gia đầu ngành về ngữ âm học ở nước ta. Ông cho rằng,
khái niệm ngọng là của một hai người. Nếu liên quan đến nhiều người thì đó là thổ
ngữ hoặc phương ngữ. Mỗi trường hợp có cách đối xử khác nhau. Trường hợp thứ
nhất, đối với một vài người phát âm lẫn lộn L/N trong một lớp 40 người thì đó là
ngọng. Những trường hợp này cần kiên quyết sửa cho phát âm đúng. Còn đối với
trường hợp thứ hai, nếu là phương ngữ thì không thể sửa được mà chỉ thống nhất được
về chính tả.
Nhất trí với quan niệm trên đây, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Minh Thuyết phát
biểu: nếu phát âm sai so với chuẩn diễn ra trên một vùng hẹp thì nhất thiết phải sửa vì
phát âm lẫn lộn L/N gây phản cảm đối với người nghe. Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng
cũng đồng tình với quan niệm trên khi ông cho rằng, khi việc phát âm lệch chuẩn trở
thành một vấn đề tâm lí - xã hội, tạo nên những định kiến không đáng có về trình độ
văn hóa thì nên sửa [11.3]
14
Bên cạnh ý kiến của các nhà ngôn ngữ học, một số nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh
vực khác cũng tham gia vào cuộc tranh luận xoay quanh chủ đề phát âm lẫn lộn L/N
(chẳng hạn nhà thơ Thanh Thảo, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn…). Hầu hết
các ý kiến này đều khẳng định việc phát âm lẫn lộn L/N trong giao tiếp thường gây
cảm giác khó chịu và tạo ấn tượng không tốt đối với người nghe. Nhấn mạnh vào hạn
chế của việc phát âm lẫn lộn N và L, nhiều ý kiến còn cho rằng không nên tuyển dụng
người nói ngọng vào cơ quan nhà nước, đặc biệt, đối với những công việc như dạy
học, bác sĩ, hay các doanh nghiệp nước ngoài - những ngành nghề đòi hỏi phải có sự
chuẩn hóa trong việc phát âm.
Trên đây là ý kiến của một số nhà ngôn ngữ học tiêu biểu về hiện tượng phát âm
lệch chuẩn hai phụ âm đầu L/N. Dù quan niệm hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N là đặc
điểm phương ngữ hay là nói ngọng thì rõ ràng có một thực tế không thể phủ nhận là
trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp, việc phát âm lẫn lộn L/N đã gây ra những hậu quả
tiêu cực đối với chính người nói. Việc đánh mất cơ hội việc làm tốt, đặc biệt là cơ hội
làm việc đối với người nước ngoài, không phải là chuyện hiếm gặp đối với những
người phát âm lẫn lộn N và L.
Dựa vào các ý kiến trên, để phục vụ cho mục đích của đề tài, chúng tôi đề xuất
quan niệm về việc phát âm lẫn lộn hai phụ âm đầu N và L như sau:
Hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N chỉ được xem là hiện tượng phát âm sai (hay nói
ngọng, lệch chuẩn) khi xét trong một phạm vi hẹp, chẳng hạn trong gia đình, trong
trường học hay cơ quan… Khi đó, việc phát âm lẫn lộn N/L cần có sự điều chỉnh, uốn
nắn để hướng tới chuẩn hóa về mặt phát âm.
Khi hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N phổ biến ở nhiều địa phương, phạm vi rộng
lớn, ví dụ ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ như Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc, Hà Nội… thì chúng tôi cho rằng đó không phải là nói ngọng mà là
đặc điểm phát âm của địa phương. Với trường hợp này, theo chúng tôi khó có thể điều
chỉnh việc phát âm lẫn lộn L/N theo đúng chuẩn mà chỉ có thể thống nhất về mặt chính
tả mà thôi. Trường hợp này, nếu muốn sửa thì cần phải tiến hành một cách thận trọng,
bài bản, trong thời gian lâu dài và cần có sự vào cuộc của các nhà ngôn ngữ học.
Xét trong phạm vi khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội 2, hiện tượng sinh viên
phát âm lẫn lộn N và L cũng được xem là lỗi phát âm. Vì vậy, theo chúng tôi, việc tiến
hành chữa lỗi phát âm L/N cho sinh viên khoa Ngữ văn là rất cần thiết và hữu ích,
nhằm giúp các em hướng tới việc phát âm chuẩn.
2.1.3 Khái niệm chuẩn ngôn ngữ
15
Liên quan đến hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N, chúng ta không thể bỏ qua khái
niệm chuẩn ngôn ngữ. Vậy chuẩn ngôn ngữ là gì? Các tiêu chí (hay nguyên tắc) xác
lập chuẩn ngôn ngữ là gì? Hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N có quan hệ như thế nào với
chuẩn ngôn ngữ? Đó là những câu hỏi đặt ra trong phần này.
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa: “Chuẩn là toàn bộ các
phương tiện và các quy tắc thống nhất và ổn định về cách sử dụng ngôn ngữ, được quy
định và phát triển trong xã hội và được thể hiện trong lời nói của cá nhân”. [10,53]
Tác giả Hoàng Phê cho rằng: “Chuẩn của ngôn ngữ là kết quả sự đánh giá và lựa
chọn của xã hội (cộng đồng sử dụng ngôn ngữ) đối với những hiện tượng ngôn ngữ
thực tế (tức là thực tế sử dụng ngôn ngữ) vào một thời gian nhất định nào đó”. [ dẫn
theo 10]
Tác giả Nguyễn Hàm Dương quan niệm: “Chuẩn ngôn ngữ cần được quan niệm
trên hai phương diện: chuẩn phải mang tính quy ước xã hội; tức phải được xã hội chấp
nhận và sử dụng; mặt khác, chuẩn phải là một hiện tượng thuộc kết cấu ngôn ngữ, tức
là phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch
sử ”. [dẫn theo 10]
Đề cập đến việc xây dựng chuẩn mực ngôn ngữ, Hoàng Tuệ cho rằng: “Chuẩn
mực, nói một cách khái quát, là cái đúng. Đó là cái đúng có tính chất chung, tính chất
bình thường được mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận, ở một giai
đoạn nhất định trong một quá tình phát triển lịch sử của ngôn ngữ. Cái đúng ấy được
xác định theo một tập hợp những quy tắc nhất định thuộc các phạm vi phát âm, dùng
từ và cấu tạo từ mới, đặt câu…” [dẫn theo 10]
Những quan niệm về chuẩn hay chuẩn mực ngôn ngữ trên đây lưu ý các đặc
điểm:
- Chuẩn ngôn ngữ trước hết là những quy tắc sử dụng ngôn ngữ đã được định
sẵn (bao gồm chuẩn phát âm, chuẩn chữ viết, chuẩn dùng từ, chuẩn đặt câu…) mà mọi
sự sai lệch với chúng đều bị coi là không chuẩn.
- Chuẩn ngôn ngữ mang tính quy ước đối với từng xã hội
- Chuẩn ngôn ngữ mang tính lịch sử. Vì thế, chuẩn ngôn ngữ không phải là bất
biến, mà chỉ là “sự lựa chọn trong những sự lựa chọn trong khi còn có thể có những
lựa chọn khác”. Cách lựa chọn như thế nào được quyết định bởi một xã hội nhất định
trong một giai đoạn nhất định. Claude Hagège, nhà ngôn ngữ học người Pháp đã có
một câu nói rất hay, rằng "lỗi của hôm qua trở thành chuẩn của hôm nay, lỗi hôm nay
sẽ là chuẩn của ngày mai".
16
Như trên đã nói, chuẩn ngôn ngữ bao gồm nhiều phương diện, trong đó có
chuẩn phát âm (chuẩn chính âm). Chính âm là “cách phát âm phù hợp với chuẩn phát
âm đã được thừa nhận trong một ngôn ngữ, hệ thống các chuẩn mực phát âm của ngôn
ngữ đó” [10,47]. Yêu cầu cơ bản của chuẩn chính âm là xây dựng một cách phát âm
tiêu chuẩn, thống nhất trong phạm vi toàn dân. Tuy nhiên, hiện nay cách phát âm
chuẩn mực trong phạm vi toàn quốc vẫn chưa được quy định. Gần như mặc nhiên,
người ta công nhận hai phương ngữ Bắc và Nam đều là chuẩn (mà tiếng Hà Nội và
tiếng Thành phố Hồ Chí Minh là đại diện). Điều đáng lưu ý là, từ lâu tiếng Việt đã có
hệ thống chuẩn chính tả mà tất cả mọi vùng miền đều tự giác thừa nhận. Khi viết,
người miền Bắc vẫn phân biệt hai âm đầu /ʂ - s/, /ƫ - c/, /n - l/, người miền Nam vẫn
phân biệt /t - k/, /n - ŋ/… Chính vì vậy, theo chúng tôi việc xây dựng chuẩn chính âm
cần dựa trên chuẩn chính tả. Chuẩn chính tả là những quy tắc có tính chất pháp lí, bắt
buộc mọi người phải tuân theo (xem mục 1.2.3). Điều này không có nghĩa là phủ nhận
đặc điểm phát âm của từng phương ngữ. Những cách phát âm phương ngữ đều đúng
nhưng đúng với từng địa phương, đúng theo ước định của cộng đồng ngôn ngữ ấy. Vì
vậy, một mặt vẫn phải giữ cách phát âm địa phương bởi nó có tác dụng giao tiếp ở
phạm vi cộng đồng nhỏ (gia đình, làng, xã, vùng miền) và để giữ gìn bản sắc văn hóa
địa phương. Mặt khác, vẫn cần xây dựng một hệ thống ngữ âm chuẩn của quốc gia để
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Vận dụng khái niệm chuẩn chính âm và chuẩn chính tả nói trên, chúng tôi nhận
thấy, cơ sở lí luận quan trọng để tiến hành chữa lỗi phát âm L/N cho
SVKNVĐHSPHN2 chính là dựa vào chuẩn chính tả. Thực tế, khi viết, người ta phân
biệt rất rõ hai phụ âm đầu L và N. Chính vì vậy, khi phát âm hai phụ âm này cũng cần
phát âm đúng theo chữ viết.
2.2 THỰC TRẠNG PHÁT ÂM LẪN LỘN VÀ VIẾT SAI HAI PHỤ ÂM L/N
CỦA SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI 2
2.2.1 Thực trạng
Với quan niệm về hiện tượng nói phát âm lẫn lộn L/N nói trên, trong phần này
chúng tôi sẽ đề cập đến thực trạng nói ngọng và viết sai L/N của sinh viên khoa Ngữ
văn, trường ĐHSP Hà Nội 2.
Như trên đã nói, đối tượng khảo sát của đề tài là sinh viên khoa Ngữ văn, bao
gồm 15 lớp, ở các khóa 36, 37, 38 thuộc các ngành Sư phạm Ngữ văn, Cử nhân Văn
17
và Việt Nam học. Tổng số sinh viên được khảo sát là 876 em, trong đó có 379 em nói
ngọng và viết sai L/N, chiếm tỉ lệ 43,6 %. Con số này cho chúng ta thấy gần một nửa
sinh viên khoa Ngữ văn - những người rất cần chuẩn hóa về mặt phát âm và chuẩn hóa
về chính tả - nói ngọng và viết sai L/N. Đây quả thực là một tình trạng đáng báo động.
Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về thực trạng này.
Trước hết, về thực trạng viết sai hai phụ âm đầu L/N. Trong tổng số 379 sinh
viên được khảo sát thì không có trường hợp chỉ viết sai hai phụ âm đầu L/N, cả viết
sai và phát âm sai là 129 SVchiếm 34,04 %. Như vậy, nhiều em chỉ nói sai mà không
viết sai. Bên cạnh đó, cũng có những em vừa viết sai vừa nói sai.
Tình trạng
ngọng
Nguyên nhân ngọng
Mức độ ngọng
Không
nắm
được
cấu âm
Gia
đình
Địa
phương
Nguyên
nhân
khác
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Cả
hai
l-n
n-l
Cả
hai
250
129
142
133
104
36
13
315
15
138
241
65,96
34,04
37,56 35,03 27,41
9,37
3,55
83,17
3,91
36,36
63,64
Nói
Số
trường
hợp
Tỷ lệ
phần
trăm
(%)
Xu hướng ngọng
Viết
Bảng 2.1. Bảng điều tra lỗi phát âm L/N của SVKNVĐHSPHN2
Trái ngược với tình hình trên, tình trạng phát âm lẫn lộn hai phụ âm đầu N/L
trong sinh viên khoa Văn lại rất phổ biến (xem bảng 2.1). Cụ thể như sau: trong tổng
số 379 trường hợp phát âm sai và viết sai có:
- Phát âm sai khi giao tiếp: 264 SV ( 69,82%)
- Phát âm sai khi đọc văn bản: 10 SV ( 2,55%)
- Phát âm sai cả 2 trường hợp (giao tiếp và đọc văn bản): 105 SV (27,64%)
Tỉ lệ trên cho thấy: Tình trạng nói sai L/N trong sinh viên là nhiều hơn cả. Khi
đọc văn bản, tức là dựa trên chính tả, sinh viên nhận diện được hình thức ngữ âm của
từ nên phát âm sai rất ít. Đặc biệt, khi giao tiếp tự do, tức là thoát li văn bản, sinh viên
phát âm sai nhiều hơn. Điều này chứng tỏ, phần lớn sinh viên nắm được đặc điểm cấu
âm của hai phụ âm L/N, biết cách phát âm hai phụ âm này nhưng lại không xác định
được trong trường hợp cụ thể nào thì phát âm L, trường hợp nào phát âm là N. Giải
18
thích cho tình trạng này phải chăng là do thói quen phát âm hay do tác động của môi
trường sống?
Về xu hướng ngọng, trong tổng số 379 trường hợp sinh viên nói ngọng chúng
tôi nhận thấy có hai xu hướng sau đây:
Xu hướng thứ nhất, phát âm L thành N có 142 trường hợp, chiếm 37,56%.
Xu hướng thứ hai, phát âm N thành L có 133 trường hợp, chiếm 35,03%.
Xu hướng thứ ba, phát âm lẫn lộn cả hai phụ âm có 104 trường hợp, chiếm
27,41%.
Số liệu thống kê trên đây cho thấy, các xu hướng ngọng không chênh lệch nhau
quá nhiều. Cũng từ thực tế khảo sát, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân khiến các em
sinh viên không phân biệt được N và L khi phát âm là không nắm vững đặc điểm cấu
âm của hai âm này. Thực tế, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cũng đã cung cấp
những kiến thức này (khi miêu tả các đặc điểm cấu âm - âm học của phụ âm), song
việc luyện phát âm theo đúng đặc điểm cấu âm của hai âm này chưa được sinh viên
quan tâm đúng mức. Chính điều này đã khiến các em lẫn lộn trong việc phát âm hai
phụ âm N và L. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa là do môi trường sống. Cụ thể,
dựa vào bảng khảo sát, chúng tôi nhận thấy số sinh viên nói ngọng N và L tập trung
chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hà
Tây (cũ), Đông Anh (Hà Nội), Bắc Giang, Bắc Ninh…- nơi mà người dân thường phát
âm lẫn lộn hai phụ âm đầu L và N.
Quê quán
Số lượng phát âm sai
Tỷ lệ
Hà Nội
Vĩnh Phúc
Hưng Yên
Hải Dương
Nam Định
Thái Bình
Bắc Giang
Bắc Ninh
Quảng Ninh
Hà Nam
Phú Thọ
Tuyên Quang
Hải Phòng
Hòa Bình
Yên Bái
Hà Giang
61
60
38
36
33
29
23
22
19
17
7
6
5
4
4
3
16.09%
15.83%
10.03%
9.50%
8.71%
7.65%
6.07%
5.80%
5.01%
4.49%
1.85%
1.58%
1.32%
1.06%
1.06%
0.79%
19
Quê quán
Số lượng phát âm sai
Tỷ lệ
Lào Cai
Ninh Bình
Thanh Hóa
Lai Châu
Lạng Sơn
Thái Nguyên
Tổng số
3
3
3
1
1
1
379
0.79%
0.79%
0.79%
0.26%
0.26%
0.26%
100 %
Bảng 2.2. Số lượng SV phát âm lẫn lộn L/N ở từng địa phương
2.2.2 Nguyên nhân viết sai và phát âm lẫn lộn L/N
2.2.2.1 Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân của tình trạng phát âm lẫn lộn L và N của SVKNV ĐHSPHN2 trước
hết là do môi trường giao tiếp xã hội. Kết quả điều tra cho thấy yếu tố môi trường giao
tiếp ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng ngọng của sinh viên. Điều này lí giải bằng bản
chất xã hội của ngôn ngữ. Cụ thể, qua khảo sát, tỉ lệ sinh viên phát âm sai và viết sai
L/N chiếm tới 43,2 % (379/876). Lượng sinh viên này chủ yếu tập trung ở các thành
phố như Hà Nội (chủ yếu là các huyện ngoại thành như: Hà Tây, Sóc Sơn, Mê Linh,
Đông Anh, Gia Lâm…) và các tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Phòng… Đây là những địa
phương mà người dân có thói quen phát âm lẫn lộn L và N. Sinh viên ở các tỉnh miền
núi như Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai… phát âm sai ít hơn.
Một nguyên nhân nữa khiến tình trạng phát âm lẫn lộn L/N trở nên phổ biến là do
việc giảng dạy các môn học nói chung, môn Ngữ Văn nói riêng ở bậc học phổ thông
chưa chú trọng việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Đặc biệt là
việc rèn kĩ năng nói và viết đạt đến chuẩn mực. Điều đáng lo ngại là, ngay cả các giáo
viên, đặc biệt giáo viên Mầm non và Tiểu học ở một số địa phương cũng phát âm sai.
2.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh sự ảnh hưởng lối phát âm từ môi trường sống, việc không phân biệt hai
phụ âm L và N khi phát âm còn có nguyên nhân từ chính người nói ngọng. Một bộ
phận người nói ngọng L/N là do nguyên nhân bệnh lí, đó là do bộ máy cấu âm bị
khiếm khuyết, chẳng hạn, lưỡi ngắn quá hay dài quá đều ảnh hưởng lớn đến việc phát
âm hai phụ âm này. Song, nguyên nhân sâu xa nhất là do kiến thức về tiếng Việt của
20
sinh viên còn yếu. Nhiều sinh viên chưa nắm được đặc điểm cấu tạo âm tiết, các
nguyên tắc chính tả cũng như những đặc điểm của chữ viết tiếng Việt. Theo kết quả
khảo sát, tỉ lệ sinh viên ngọng L/N do không nắm được đặc điểm cấu âm của hai âm
này là 36 em, chiếm 9,38%.
2.2.3 Đánh giá về ý thức chữa ngọng và nhận thức của SV về hiện tượng viết sai
và phát âm lẫn lộn L/N
Kết quả điều tra cho thấy sinh viên nhận thức rõ và đúng về sự cần thiết của
việc chữa ngọng cũng như vai trò của cá nhân trong việc chữa ngọng. 100% sinh viên
cho rằng việc chữa lỗi phát âm L/N là rất cần thiết. Tuy nhiên, số sinh viên có ý thức
chữa ngọng thường xuyên lại chỉ chiếm hơn 50%. Điều này tưởng như mâu thuẫn
song nó phản ánh đúng thực tế của sinh viên: nhận thức được nhưng không hành động.
Thiếu sự quyết tâm và kiên trì nên việc chữa ngọng khó thành công. Vì vậy, giải pháp
đầu tiên chúng tôi nêu ra vẫn là giáo dục ý thức cho sinh viên. Trong quá trình chữa
ngọng, giáo viên giữ vai trò người hướng dẫn, định hướng và giám sát còn sinh viên
cần chủ động, tích cực. Ngoài những giờ chữa trên lớp, có định hướng và giúp đỡ của
giáo viên, sinh viên cần có ý thức luyện tập thường xuyên ở nhà, ở mọi nơi, mọi lúc,
mọi hình thức giao tiếp.
Đối với sinh viên ở các địa phương phát âm sai nhiều, việc chữa ngọng sẽ khó
khăn hơn và hiện tượng tái ngọng rất dễ xảy ra nếu các em không có ý thức rèn luyện
thường xuyên.
Trường hợp
ngọng
Khi
GT
Khi
đọc
VB
Ý thức chữa ngọng
Cả 2
Thỉnh
TH
thoảng
105
187
0
192
49,45
0
50,55
Không
Thường
xuyên
Số
trường
265
10
hợp
Tỷ lệ
phần
trăm
69,82 2,55 27,64
(%)
21
Sự cần thiết
Yếu tố quan trọng
của việc
nhất tác động đến
chữa ngọng
chữa ngọng
Người
Bản Cộng
hướng
thân đồng
dẫn
Có
37
9
10
0
Không
0
0
353
93,1
4
17
9
4,49
2,37
Bảng 2.3. Bảng điều tra ý thức chữa ngọng của sinh viên
Tóm lại, trong chương này, chúng tôi quan niệm: Khi hiện tượng phát âm lẫn
lộn L/N diễn ra trong một phạm vi địa lí rộng lớn thì đó là tập quán phát âm của địa
phương, hay phương ngữ. Trường hợp này, theo chúng tôi, không cần thiết phải sửa.
Hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N được xem là lỗi phát âm hay nói ngọng khi hiện tượng
này diễn ra trong một phạm vi hẹp, chẳng hạn trong gia đình, trong nhà trường hay cơ
quan…Khi đó, hiện tượng phát âm lẫn lộn này cần có sự điều chỉnh, uốn nắn, sửa chữa
để hướng tới phát âm chuẩn.
Cơ sở lí luận quan trọng để chúng tôi tiến hành chữa lỗi phát âm L/N cho
SVKNVĐHSPHN2 chính là dựa vào khái niệm chuẩn chính tả. Chuẩn chính tả là
những quy định có tính chất pháp lí, bắt buộc mọi người phải tuân theo. Thực tế, khi
viết, người ta phân biệt rất rõ hai phụ âm đầu L và N. Chính vì vậy, khi phát âm hai
phụ âm này cũng cần phát âm đúng theo chữ viết.
Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát, đề tài cũng nêu lên một số nhận xét, đánh
giá khách quan, trung thực về hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N của SVKNVĐHSPHN2.
Các kết quả điều tra, đánh giá cho thấy tình trạng phát âm lẫn lộn L và N là một thực
tế rất phổ biến trong SV khoa Văn. Xét trong phạm vi nhà trường, đây thực sự là lỗi
phát âm nghiêm trọng, gây nên nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với chính SV và đối với
chất lượng đào tạo của nhà trường. Vì vậy, việc tiến hành sửa lỗi phát âm L/N trong
phạm vi sinh viên khoa Ngữ văn là rất cần thiết.
22
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
3.1 DẪN NHẬP
Chữa lỗi phát âm sai L/N là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ,
xoay quanh vấn đề này còn có nhiều câu hỏi chưa được giải quyết triệt để. Việc phát
âm N thành L và ngược lại là đặc điểm phương ngữ hay là lỗi phát âm? Nếu là đặc
điểm phương ngữ thì có nên thay đổi hay không? Nếu là lỗi phát âm thì nhất thiết phải
sửa nhưng sửa như thế nào, sử dụng phương pháp nào để chữa lỗi phát âm L/N? Khi
đã chữa được “bệnh” nói ngọng L/N rồi thì làm thế nào để hạn chế tình trạng “tái
ngọng”? Trả lời được những câu hỏi này thì việc chữa ngọng mới đem lại hiệu quả.
Như trên đã trình bày, chúng tôi quan niệm hiện tượng phát âm lẫn lộn L/N là
lỗi phát âm khi hiện tượng này diễn ra trong phạm vi hẹp. Cụ thể, đối với sinh viên
khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội 2, hiện tượng phát âm lẫn lộn hai phụ âm này
được xem là nói ngọng và việc chữa lỗi phát âm cho các em là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, trong phần này, chúng tôi tạm thời đề xuất một số biện pháp chữa lỗi
phát âm L/N cho sinh viên khoa Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội 2. Những biện pháp
này chúng tôi đã áp dụng trong quá trình chữa ngọng cho các em và chúng cũng đã
mang lại những hiệu quả nhất định, cụ thể là đã giảm đáng kể tỉ lệ nói sai, viết sai của
sinh viên (xem Phụ lục tr.54 ).
Việc chữa lỗi phát âm hai phụ âm này cần được tiến hành tuần tự theo từng
bước từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Yếu tố quan trọng nhất vẫn là ý thức
của người nói ngọng, là sự kiên trì, khổ công và nhẫn nại của người nói ngọng. Bên
cạnh đó, việc tạo ra một môi trường giao tiếp chuẩn mực trong nhà trường cũng là yếu
tố rất cần thiết.
3.2. GIẢI PHÁP CHUNG
3.2.1. Tạo ra môi trường giao tiếp chuẩn mực
Kết quả thống kê cho thấy, sinh viên ngọng chủ yếu thuộc các tỉnh đồng bằng
và Trung du Bắc bộ. Đây là những địa phương mà ở đó người dân phát âm sai nhiều.
Việc chữa lỗi cho cả vùng, miền, địa phương là điều khó có thể thực hiện. Nhưng việc
23
tạo ra môi trường giao tiếp chuẩn mực trong nhà trường thì có thể làm được. Muốn
vậy, cần phải:
- Đào tạo giáo viên chuẩn mực. Không để tình trạng giáo viên, đặc biệt là giáo
viên Mầm non và Tiểu học phát âm sai. Việc chữa ngọng phải bắt đầu từ giáo viên. GS
TS Trần Trí Dõi cho rằng: “ Ngôn ngữ là sản phẩm của một cộng đồng. Muốn chữa
nói ngọng l/n thì chỉ chính bản thân cộng đồng phát âm lẫn lộn ở từng địa phương ấy
sửa chữa mới được. Nhưng công đồng cũng chính là những cá nhân được tập hợp lại.
Vậy thì trước hết những cá nhân như giáo viên, học sinh ở bậc Mẫu giáo và Tiểu học
ở địa phương ấy rèn luyện đi. Khi những đối tượng này không lẫn lộn nữa, thế hệ này
tiếp thế hệ khác thì địa phương ấy sẽ hết nói ngọng thôi. Cho nên không thể coi
chuyện này thành công chỉ trong ngày một, ngày hai được đâu.” [11.1]. Nếu không tạo
được môi trường giao tiếp chuẩn mực thì hiện tượng tái ngọng sẽ xảy ra.
- Các trường sư phạm phải triệt để chữa ngọng cho sinh viên. Việc này phải làm
ngay từ năm thứ nhất và phải thường xuyên trong suốt các năm học.
3.2.2. Chú trọng hơn nữa việc dạy chuẩn chính âm và chuẩn chính tả đối với học
sinh phổ thông
Sách giáo khoa phổ thông, đặc biệt là sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học phải
cung cấp những kiến thức về chuẩn mực ngôn ngữ, đồng thời dành nhiều thời gian rèn
luyện để hình thành kĩ năng và thói quen nói, viết chuẩn mực cho học sinh.
Việc chữa ngọng phải được thực hiện ở cấp Tiểu học, thậm chí là ở cấp dưới
hơn nữa. Theo tác giả Phạm Văn Tình: “ Sửa ngọng cần phải được thực hiện càng
sớm càng tốt” [11.2]. Thói quen ngôn ngữ được hình thành từ khi trẻ còn rất nhỏ, sau
đó định hình và phát triển dần lên. Thường thì một em bé từ khi bắt đầu học nói cho
đến 5 tuổi đã hình thành được một ngữ năng nhất định về mặt từ ngữ, cách nói năng và
cách phát âm. Nếu không uốn nắn ngay từ đầu thì việc phát âm sai sẽ trở thành một
thói quen xấu rất khó sửa chữa, đồng thời ảnh hưởng lớn đến cộng đồng.
3.2.3.Giáo dục ý thức cho bản thân người nói ngọng
Trước hết là ý thức được sự chệch chuẩn. Như đã phân tích, nguyên nhân của
hiện tượng nói ngọng là do môi trường giao tiếp địa phương, còn gọi là “thói quen”
của một vùng miền nào đó. Khi đã là thói quen thì không nhận ra được sự bất bình
thường, bởi họ vẫn giao tiếp được với nhau mà không có trở ngại gì. Chỉ khi người nói
ý thức và nhận ra được cách phát âm của mình khó chấp nhận trong giao tiếp cộng
24
đồng và gây ra những hiệu ứng không hay trong giao tiếp thì mới nhận ra lỗi. Khi đã
nhận ra lỗi thì cộng đồng và những người xung quanh sẽ tác động, giúp họ sửa được
lỗi.
Quan trọng hơn cả là ý thức của bản thân mỗi người trong việc chữa lỗi. Việc
chữa lỗi cần có sự quyết tâm và kiên trì của người nói ngọng. Qua thực tế chữa lỗi cho
sinh viên , chúng tôi nhận thấy sinh viên K 36 chữa nhanh và hiệu quả hơn bởi sinh
viên đã ý thức được sự bất lợi của việc nói ngọng trong hoạt động giao tiếp và chất
lượng giảng dạy trong thời gian thực tập, đặc biệt là cơ hội việc làm khi ra trường.
3.2.4. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ
Việc dạy nói viết chuẩn mực và sửa lỗi ngọng L/N phải được coi là một nhiệm
vụ thường xuyên của tất cả các giảng viên, thông qua tất cả các môn học, các hoạt
động giáo dục trong nhà trường. Không nên chỉ coi là nhiệm vụ của bộ môn Ngôn
ngữ và chỉ thực hiện trong giới hạn một đề tài khoa học.
Cần có sự kết hợp giữa các biện pháp sư phạm và biện pháp hành chính. Bổ
sung quy định chuẩn mực ngôn ngữ vào tiêu chí tuyển dụng giáo viên và tiêu chí xét
tốt nghiệp sinh viên. Kiên quyết không để giáo viên nói viết ngọng L/N đứng lớp trực
tiếp giảng dạy cho học sinh. Đối với sinh viên, cần phải bổ sung vào quy chế sinh viên
các biện pháp hành chính theo các mức độ từ thấp đến cao như: trừ điểm rèn luyện,
không cho đi thực tập, dừng tiến độ học tập…
Kết hợp hài hòa các phương pháp chữa lỗi và các biện pháp chữa lỗi. Vừa cung
cấp các kiến thức lí thuyết về đặc điểm chính âm, chính tả, đặc điểm chữ viết tiếng
việt, các quy tắc chính tả… vừa kết hợp thực hành. Việc này cần triển khai có bài bản
và có cơ sở khoa học. Không nên chỉ chú trọng thực hành mà bỏ qua lí thuyết. Kết hợp
rèn luyện kĩ năng chính âm và chính tả với tất cả các trường hợp ngọng. Bởi hai kĩ
năng này luôn có sự bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên mức độ vận dụng kĩ năng
có khác nhau ở các xu hướng ngọng.
Như trên đã nói, yếu tố quan trọng trong quá trình chữa lỗi phát âm L/N là ý
thức, tinh thần cầu thị của người nói ngọng. Song bên cạnh đó, không thể bỏ qua vai
trò của giáo viên hướng dẫn. Việc tiến hành chữa ngọng L/N chỉ thực sự có bài bản và
có kết quả khi có sự tham gia của giáo viên hướng dẫn. Vì vậy, trong quá trình chữa
ngọng cần có sự kết hợp hài hòa giữa giáo viên chữa ngọng và sinh viên nói ngọng.
25