Trang 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay xã hội đang nổi cộm những vấn đề không mấy tốt đẹp về cách
hành xử cũng như văn hóa của người Việt Nam hiện nay. Chuyện con mắng cha
mẹ, vợ chồng đánh nhau, thậm chí chỉ là vì những chuyện nhỏ nhặt nhất cũng có
thể làm nhau mất mạng. Đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp, luân thường đạo
lý, tình người cũng dần mất đi.
Từ xưa dân tộc ta đã có tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau, kính
trên nhường dưới. Những kiến thức cơ bản về đạo đức, lễ nghĩa của nho giáo sẽ
giúp ta nhận thức, giải thích chi tiết hơn, dạy chúng ta cách ứng xử sao cho phải
đạo, hợp với truyền thống của dân tộc từ xưa đến nay.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài:
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, học giả Trần Đình Hựu,
Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, năm 1995.
Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Tiến Sỹ Nguyễn Tài Thư, luận
văn tiến sỹ, năm 1997.
Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt
Nam ( từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX ), Tác giả nguyễn Thanh Bình, Nhà
Xuất Bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2007.
Nho giáo xưa và nay, tác giả Quang Đạm, Nhà Xuất Bản Văn hóa Hà
Nội, năm 1994
Nho giáo Việt Nam, Lê Sĩ Thắng (chủ biên), Nhà Xuất Bản Khoa học xã
hội Hà Nội, 1991.
………….
3.
Mục đích của đề tài:
Mục đích của đề tài là thông qua việc trình bày và phân tích các nội dung
cơ bản của Nho giáo, có thể vạch rõ những giá trị và hạn chế trong tư tưởng và
phạm vi ảnh hưởng của nó tới tư tưởng Việt Nam. Bên cạnh đó cũng đi sâu
nghiên cứu quá trình du nhập và đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam.
Trang 2
4.
Nhiệm vụ của đề tài:
Khái quát cơ bản những vấn đề về Nho giáo, ảnh hưởng của Nho giáo,
trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp về các vấn đề này.
5.
Giá trị lý luận và thực tiễn:
6.
Cấu trúc của đề tài:
Cấu trúc đề tài khái quát cơ bản thành 2 chương:
Chương 1: khái quát cho ta thấy toàn cảnh, toàn diện về nguồn gốc, sự
hình thành và phát triển ở Tung Quốc vào thời nhà chu.
Chương 2: miêu tả sự hình thành và du nhập của Nho giáo ở Việt Nam từ
các triều đại phong kiến. Đồng thời cũng khái quát được sự ảnh hưởng của nó
đến Việt Nam theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đưa ra được những nhận
định Nho giáo tại Việt Nam. Từ đó loại bỏ mặt hạn chế, sáng tạo, cải cách cho
phù hợp với tình hình xã hội hiện nay.
Trang 3
Chương 1: Khái quát về Nho giáo
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 – 479 TCN)
sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa.
Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị
quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công
cụ giúp các triều vua cai trị đất nước.
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn
của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận
bàn về đạo đức.
Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu tên là Khâu, tự là Trọng Ni.
Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững
các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn
bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài
chục năm rồi san định, biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử
nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã
hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những
thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức
tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần
dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai
sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh
hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người
được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,
anh - em, bạn - bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất gọi là Tam cương - ba
sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức
chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện
tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí,
dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ
thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000
năm phát triển và biến đổi. Từ Tam đức của Khổng Tử đến ngũ thường ở Hán
Nho, “Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ thuyết” của Chu
Đôn Di, Lý Khí ở Chu Hi... Tất cả đều xuất phát từ một gốc và khoác chung tấm
Trang 4
áo Nho học Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương thường.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để
đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều
chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp
của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm
bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung
“quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”
(vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết,
con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con
người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát
triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương
Đông trì trệ.
1.1.
Thứ nhất:
Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con
người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ
nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những
quan hệ này vào tam cương. Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha con và chồng - vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên - dưới” thì vua ở vị trí cao nhất,
còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm
chủ. ”..Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho
gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ
“tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính
danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị”.
1.2.
Thứ hai:
Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã
hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây
dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sángtôi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của
mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của
tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn
lên.
Trang 5
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân
của người ấy. Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài
cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự...”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức
nhân, “ lễ ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm
nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không
giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng
lễ để khôi phục lại chính danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu
làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con
đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay
hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như
chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính
trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.”
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân
nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để
đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân
là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên
Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ.
1.3.
Thứ ba:
Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho
nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con
người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”.
Nhân (đức nhân) là phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo
cương - thường. Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù
trung tâm này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ
về đức này. Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho
đức nhân trở thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được
đức nhân và ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với
nội dung cơ bản sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử
nói: (đó là người biết) yêu người”.
Trang 6
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người
nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn
thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân,
kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ
thi hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Như vậy, trung thứ tức
là từ lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên
làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình
không muốn.
- Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ:
“Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân).
Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí,
con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự
việc, phân biệt được phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với
“thiên lý”. Nhưng người muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải
có “dũng” khí nữa. Người nhân có dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của
mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao, khi vận nước
loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân có dũng mới tự chủ được
mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực khó không nao
núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời
đạo lý.
Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc
và cốt lõi của nhân là hiếu lễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái,
giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự
nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng,
trong gia đình nếu người cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua
đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người
cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì
vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết
yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng
Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến
quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng
đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa
nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội
không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người
cầm quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể
“trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Trang 7
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để
giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi
thường lợi. Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có
Trí (trí tuệ). Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến
mình, mới biết yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ
người không ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông
không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội
để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức mang tính giáo
điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương
người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều
nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính
phức tạp rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không
tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do
vậy càng không tưởng hơn.
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong
quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi
phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới
nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà
ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến
tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện
theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe.
Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung, ngu hiếu một cách mù quáng
ở không ít người trong xã hội trước đây.
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng
lễ đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người.
Sự giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý
trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở
những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã
dẫn đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà
chết chứ không bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu
Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn
trong gia đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ
trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp
lý này chúng ta có thể học tập.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và
hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm
Trang 8
hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư
tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng nói:
“ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã hội lúc
đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế trên
của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong
thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một
thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông
hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên,
chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó
trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không
ít người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho
giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và
việc làm phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp
phần củng cố lòng tin giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện
đầu tiên trong quan hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp
trong mối quan hệ duy nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo
lý của bậc thánh hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan
niệm của Nho giáo thì đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh
nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho
đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị
nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành
vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân
hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm
(không làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng
danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh
phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận
thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không
hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết
xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành,
sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình
phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc). Riêng đối với người cầm quyền vua thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của mình, như vậy
mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên
nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và
trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho rằng
không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng
quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Trang 9
Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy
cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính
danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang
ý nghĩa đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết
rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét
theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là
người đó có đạo đức.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức
được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã
hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan
hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở
mọi chế độ xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực
hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và xã hội trong
khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tư tưởng này còn
kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của
con người, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng
theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư
tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, làm cho con người luôn có tư tưởng
hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều người vì hám danh quên
phận mà quên cả luân thường đạo lý.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức
khác của con người nhưng nói chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần
phải có những phẩm chất đạo đức cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1.4.
Thứ tư:
Vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị – xã
hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung hoa thời cổ phải
đặt ra và giả quyết vấn đề bản tính con người. Trong Nho gia không có sự thống
nhất quan điểm về vấn đề này nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo
ông “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của
con người từ khi mới sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa...
Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng
là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề cao sự
giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con
người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành
Trang 10
thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về tính người, Tuân tử đã chủ trương đường lối
trị nước kết hợp Nho gia với pháp gia.
So với các học thuyết khác, nho gia là học thuyết có nội dung phong phú
và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa nó còn là hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung Đại; Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh
nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của
các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải,
Trình Hạo, Trình DI (thời Tống).
Trang 11
Chương 2: Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam
2.1.
Sự du nhập và hình thành Nho giáo ở Việt Nam:
Khi Việt Nam bị nội thuộc Trung Quốc vào năm 192 - Trước Công
nguyên (vào lúc Nho giáo ở Trung Quốc được suy tôn làm quốc giáo), các thế
lực phong kiến phương Bắc luôn kiên trì đeo đuổi ý định đồng hóa nhân dân Việt
Nam, cũng như cố đồng hóa nhiều dân tộc khác nhằm mục đích truyền bá văn
hóa, truyền bá Nho giáo. Trái lại, nhân dân Việt Nam, ngoài phương pháp đấu
tranh vũ trang giành lại tự chủ, còn phải tiến hành một loạt phương pháp khác
nhằm bảo tồn giống nòi, phong tục tập quán và những di sản quý giá của mình;
đồng thời sẵn sàng tiếp thu ảnh hưởng văn hóa nước ngoài cao hơn văn hóa vốn
có của dân tộc ta, biến cái của người thành cái của mình.
Đến đời Đường, khi Trung Quốc trở lại thống nhất, chính sách đồng hóa
của phong kiến phương Bắc lại tiếp tục trên một trình độ mới, mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Song có nhiều nhà nho học giỏi, đỗ cao, nhưng không phải là người bản
xứ của Châu Giao, không phải là giống Hán nên không được bổ làm quan ở cấp
xứng đáng với tài năng mà chỉ được trông nom cổng thành.
Trong thời kỳ đầu lập quốc, Nho giáo chưa thịnh hành. Các nhà Ngô,
Đinh, Lê trong buổi đầu của việc xây dựng nhà nước phong kiến, cùng với việc
bận rộn việc đánh đuổi giặc ngoài, bình giặc trong, nên việc võ cấp thiết hơn
việc văn, nên nhà vua ít lưu tâm đến việc học (việc học lúc này do nhà chùa đảm
nhận). Giai đoạn này diễn ra cuộc đấu tranh âm ĩ giữa Nho và Phật, nhưng không
ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau, mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng
trong đời sống tinh thần Việt Nam, đã dẫn đến đặc trưng riêng có ở Việt Nam là
“Tam giáo đồng nguyên”, đó là:
- Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội.
- Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng và ước mơ
nhân đạo.
- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế
bằng phương thuật bí ẩn.
Thực tế, nhà nước sử dụng nhân tài từ Phật giáo- Đạo giáo và Nho giáo
(mà trước hết là Phật, Đạo, rồi mới đến Nho). Tập tục triều đình con xa lạ với
Nho giáo.
Trang 12
Đến khi nhà Lý thành lập, tình hình chính trị trong nước được ổn định lâu
dài, mới có điều kiện mở mang học vấn. Sự học đã trở thành một nhu cầu cấp
thiết để củng cố chính quyền, để tuyển lựa một số quan chức. Nho giáo đã theo
sự phát triển của việc học mà vươn lên dần dần.
Đến năm 1070, với sự kiện nhà Lý cho lập Văn Miếu thờ Chu Công,
Khổng Tử thì có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức tại Việt Nam.
Chính vì vậy, Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (nhà Lý tương ứng với
nhà Tống ở Trung Hoa), chứ không phải là Hán Nho, Đường Nho, Thanh Nho...
Trong khi đó, quần chúng nhân dân vẫn theo Phật giáo, Đạo giáo. Song Phật
giáo dù được tôn sùng đến đâu, dù cố gắng nhập thế đến mức nào, bản thân Phật
giáo cũng không phải là một đạo trị nước. Đạo giáo cũng vậy.
Sang thời Trần, Nho giáo phát triển hơn, chính quyền đã dùng Nho làm
trị đạo. Nhu cầu thiết thực của việc trị nước, nhu cầu tiến hóa của bản thân trí
tuệ, ảnh hưởng ngày thêm tăng về mặt văn hóa của nước láng giềng khổng lồ,
những lưu tệ của Phật giáo trong xã hội đương thời, đã khiến cho Nho giáo lần
chiếm thế mạnh để cuối cùng thì chiếm ưu thế ở triều đình và trong hàng trí thức
so với Phật giáo. Giai đoạn này, các khoa thi được mở đều đặn hơn. Năm 1236,
Trần Thái Tông lập Quốc Tử viên dạy Ngũ kinh, Tứ thư cho con em các nhà quý
tộc. Năm 1253, Quốc học viên được thành lập, không phải để cho thiếu niên mà
để cho các nho sĩ đã có trình độ tới lui học tập. Ngoài 2 viên trên, xã hội còn có
trường tư nổi tiếng (như trường của Chu Văn An, trường của Chiêu Quốc
Vương….) đã chứng tỏ sự phát triển khá rực rỡ của Nho học.
Từ thời Lê trở đi, Nho giáo trở thành quốc giáo ở Việt Nam. Nho giáo đã
góp phần đắc lực trong cuộc chiến đấu chống Minh, giải phóng dân tộc. Tuy
rằng đa số nhân dân, tướng sĩ Lam Sơn về mặt tín ngưỡng vẫn theo Phật giáo
hay Đạo giáo. Năm 1428, Lê Lợi lập Quốc tử giám ở kinh thành và nhiều trường
học ở các đạo. Năm 1480, Lê Thánh Tôn xây dựng lại Văn Miếu và lập nhà Thái
học (sau Văn Miếu) vừa là giảng đường, vừa là thư viện và nơi bảo quản các bản
in gỗ quan trọng. Tiếp đến năm 1483, Lê Thánh Tôn định lệ dựng bia đá ở Văn
Miếu, ghi lý lịch các vị Tiến sĩ từ khóa 1442 trở đi….
Sự phát triển quanh co của Nho giáo sau thời Bắc thuộc đến thế kỷ XV.
Do đó ngoài ý nghĩa là kết quả của quá trình đấu tranh với phong kiến Bắc
phương để gìn giữ sự độc lập chính trị và quyền tự quyết văn hóa của dân tộc
Việt Nam còn là bằng chứng về quá trình đấu tranh trong xã hội Việt Nam để
xác định mô hình phát triển của quốc gia phong kiến Đại Việt. Song mặc dù đã
có một Trần Nghệ Tông phê phán lối rập khuôn thể chế Trung Hoa của “bọn học
trò mặt trắng”, một Hồ Quý Ly chê bai những cây đại thụ của Tống nho Trung
Quốc là “học rộng nhưng ít tài”, chính quyền cũng như giới trí thức Việt Nam
Trang 13
thời Lý - Trần và cả Hồ sau đó vẫn không đưa ra được một học thuyết chính trị
nào hoàn toàn độc lập với mô hình phương Bắc. Như một dòng chảy ngầm, sự
khủng hoảng tư tưởng ấy đã liên tục đặt xã hội Việt Nam vào tình trạng bất ổn
định về chính trị, kể cả sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Cho nên sau những xáo trộn chính trị buổi đầu, nhà Lê đã dứt khoát chọn Nho
giáo như lý thuyết độc tôn, mô hình chính thống.
Dĩ nhiên hệ quả tất yếu của việc tiếp nhận Nho giáo là việc cải tạo xã hội
để tiếp nhận Nho giáo, điều này vô hình trung cũng tạo ra những khoảng cách
mới giữa tư tưởng chính thống với văn hóa truyền thống, giữa xã hội và chính
quyền. Việc tiếp nhận Nho giáo do đó cũng vấp phải những trở ngại từ phía văn
hóa truyền thống, chẳng hạn thiết chế làng xã cổ truyền Việt Nam với những tàn
dư dân chủ nguyên thủy đã chặn nhiều yếu tố Nho giáo chính thống lại ngoài lũy
tre làng. Quá trình dân tộc hóa như vậy khiến hệ thống Nho giáo quan phương
thiên về hoạt động quản lý của chính quyền trở thành chỗ hội tụ nhiều mâu thuẫn
xã hội và chính trị trong đất nước, nơi phản ảnh nhiều xung đột quyền lợi và
nhận thức của xã hội, mà bằng chứng điển hình là sự phân hóa phức tạp của tầng
lớp nho sĩ sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Cho nên cuộc đảo chính
của Mạc Đăng Dung năm 1527 mặc dù mang cái hình thức chính trị ít nhiều
ngẫu nhiên cũng là một hệ quả tất yếu trên con đường phát triển của văn hóa dân
tộc: sau Trần Thủ Độ - Trần Cảnh rồi Hồ Quý Ly. Các lực lượng chính trị trong
quốc gia Đại Việt từ Mạc Đăng Dung rồi nhiều chúa Trịnh và chúa Nguyễn sau
đó đã liên tục kế tiếp nhau phủ nhận lý thuyết chính trị thiên mệnh của Nho giáo
chính thống, đưa lịch sử chính trị Việt Nam thời phong kiến trở về quỹ đạo phù
hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất đương thời. Cùng với việc mở rộng
về phía nam của bản đồ Đại Việt và sự phát triển của kinh tế thương nghiệp từ
thế kỷ XVI, tình hình này là tiền đề xã hội cho một giai đoạn phát triển khác,
phong phú mà cũng phức tạp hơn của Nho giáo ở Việt Nam.
Là động lực, tư tưởng dẫn tới cuộc chiến tranh trung hưng của nhà Lê sau
khi bị nhà Mạc cướp ngôi, lý thuyết chính trị Nho giáo cũng chịu tác động của
cuộc chiến tranh này như một động lực phản hồi tương ứng. Cho nên mặc dù
thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền thống trị với nhà Mạc, nhà Lê Trung
hưng vẫn không thể quay về với mô hình Nho giáo đời Lê Thánh Tông. Xung
đột Lê - Mạc chưa chấm dứt thì mâu thuẫn Trịnh - Nguyễn đã nảy sinh, và tình
hình không song hành giữa lịch sử pháp quyền với lịch sử tư tưởng trước kia lại
tiếp tục trình hiện qua sự phát triển của Nho giáo. Như một sản phẩm bất khả
kháng của thực tế lịch sử, tổ chức quân chính lồng vào bộ máy quan liêu của các
chính quyền từ Mạc, Lê - Trịnh, họ Nguyễn Đàng Trong rồi Tây Sơn, Nguyễn
ánh và cả nhà Nguyễn đến đầu đời Minh Mạng luôn bộc lộ tính chất chông
chênh trên đường hướng trị đạo Nho giáo. Còn với các ông vua không ngai trong
vương tộc họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tùng, Trịnh Tráng..., thiết chế “đã
Trang 14
có vua lại có chúa” quái gở của chính quyền Lê - Trịnh đã thật sự là một báng bổ
đối với chuẩn mực chính trị Nho gia. Chính tình hình nói trên đã làm dấy lên trào
lưu thực học mà thật ra là sự đối phó học thuật trong cuộc đấu tranh không cân
sức với lực lượng phong kiến quân phiệt của một bộ phận nho sĩ quan liêu ở
Đàng Ngoài thế kỷ XVIII. Không lạ gì mà sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, các bậc đại
nho Việt Nam từ Lê Quý Đôn tới Phan Huy Chú, Cao Xuân Dục... hầu như đều
là các sử gia, các nhà bách khoa chứ không có mấy người chuyên về triết học.
Nguyên lý Nho giáo được vận dụng một cách nửa vời đã hạn chế giới trí thức
Nho học Việt Nam đi sâu vào các vấn đề triết học và phương pháp luận, trong
khi thực tiễn đồ vương tranh bá lại khiến các tập đoàn phong kiến đều đề cao đạo
đức hiếu trung. Dưới áp lực chính trị ấy, các chuẩn mực xã hội Nho giáo cũng
tán phát sâu rộng hơn vào sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, dĩ nhiên cũng dễ chuyển
hóa thành tín điều hay sai lệch về nội dung vì không xác lập được mối quan hệ
vững chắc với lý luận. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục khoa cử đã bình thường
hóa sự hiện diện của Nho giáo trong đời sống xã hội, tầng lớp nho sĩ đông đảo
hơn trước trở thành lực lượng phổ biến Nho giáo trong sinh hoạt làng xã, nên
khác với giai đoạn trước được tiếp nhận chủ yếu bởi chính quyền và trí thức, từ
thế kỷ XVI trở đi Nho giáo đã thấm sâu hơn vào nhiều cơ tầng của văn hóa dân
gian. Các bản hương ước ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII XVIII cũng như nhiều truyện Nôm khuyết danh thế kỷ XVIII - XIX cho thấy
điều này. Chính trên cơ sở đó mà hệ thống Nho giáo nhân dân hóa ở Việt Nam
đã hình thành.
Nho giáo tự bản thân nó không phải là một tôn giáo như Hồi giáo, Công
giáo, Nho giáo chỉ lo cho dời sống mà ít lo việc sau khi chết, Nho giáo không có
tín ngưỡng vào đáng cứu thế, vào Thượng đế sáng tạo vũ trụ…., cho nên sự mê
tín tuy có nhưng không đến nỗi nặng nề có thể đưa đến chiến tranh tôn giáo. Khi
giành được nền tự chủ dân tộc, Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý
thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận
mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì
phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy
Nho giáo bởi nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra. Song nét độc
đáo của văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu một hệ tư tưởng ngoại lai, không tiếp
nhận nguyên cả hệ thống mà tiếp nhận các yếu tố riêng lẻ để rồi cấu tạo theo
cách riêng của mình tạo thành một hệ thống mới với những nét khác biệt. Nho
giáo Việt Nam là một hệ thống như thế, đã làm được như thế.
Hiện diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội
mang tính chất chính thống, một phương thức hoạt động và phát triển văn hóa
đóng vai trò chủ đạo, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử
và văn hóa Việt Nam, những ảnh hưởng vẫn tiếp tục tác động tới đời sống xã hội
Trang 15
Việt Nam sau thế kỷ XIX. Là một giá trị ngoại sinh được tiếp nhận và vận dụng
như một học thuyết chính trị để xây dựng và bảo vệ đất nước, một hệ thống
chuẩn mực giúp tổ chức và quản lý xã hội, Nho giáo sau thời Bắc thuộc cũng
được khuôn nắn lại về nội dung và cơ cấu rồi trên cơ sở đó trở thành một yếu tố
vừa góp phần thực hiện vừa góp phần phản ảnh tiến trình lịch sử Việt Nam. Tìm
hiểu Nho giáo với con đường phát triển và ảnh hưởng văn hóa của nó trong lịch
sử Việt Nam là góp thêm dữ kiện vào việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói
chung cũng như lịch sử Nho giáo nói riêng.
2.2.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam hiện nay:
2.2.1
Tích cực:
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ
phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam
đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật
giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm
ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do
có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng
có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc
biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến
Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
Nho giáo cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những
quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do
đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn.
Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có
lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân
ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã
giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn
phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực
trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa.
Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới
nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo
cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho
con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và
xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Trang 16
Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng
vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu
thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái
gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo
đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo
đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt.
Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán
bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu,
kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân
đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng
nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm
quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy thế góp phần củng cố và phát
triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc chấn chỉnh và
mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một quy mô hoàn chỉnh có đầy đủ
những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các xu thế phát triển đó đã và
đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trên các bình diện
sản xuất và củng cố quốc phòng.
Quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát triển
nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của
nhà nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Cho nên
khi chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho
giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này, làm cho sản xuất nông nghiệp
và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước.
2.2.2
Tiêu cực:
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu
cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công
việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi
phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của
đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của
phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho
giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em
họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo
năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi
trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan
hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân
Trang 17
thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm
sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một
số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp
để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư
tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất
của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán,
chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục
tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã
hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha,
người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề
xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn
còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân
sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con
người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên
nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú
cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với
khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn
đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định
thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến
một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới
vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không được tham gia
góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới.
2.2.3
Nhận định về Nho giáo ở Việt Nam:
Cần có một thái độ trân trọng, tiếp thu những tinh hoa và khắc phục
những tư tưởng định kiến cực đoan đối với Nho giáo. Đạo Nho cung cấp cho
con người lý thuyết về nhập thế, về hoạt động chính trị xã hội. Đạo Phật giúp
cho con người lý thuyết về kiếp sống, về sự giải thoát ra khỏi các cảnh khổ đau.
Đạo Lão làm chỗ dựa tinh thần cho con người mỗi khi thất thế trước bước đường
công danh.
Ở Việt Nam chúng ta cũng có thời kỳ chủ trương phê phán có kế thừa
truyền thống, phê phán những gì đã lỗi thời, kế thừa những gì còn có giá trị của
Nho học và trên cơ sở đó phát huy lên. Đó là quan điểm đúng đắn, tích cực.
Chẳng hạn, nhân có người nêu lên phải dùng phương châm “Tiên học lễ,
hậu học văn” của Nho học để giáo dục thanh niên, học sinh đang sa sút phẩm
Trang 18
chất đạo đức thì lập tức bị một số người phê phán cho rằng đó là ý thức phục hồi
lễ giáo phong kiến, cần phải phấn đấu càn quét sạch nó đi. Đó là một quan điểm
đáng lên án về thái độ con người khi chưa nhận thức hết tầm quan trọng của đạo
đức đối với giới trẻ.
Việt Nam tuy lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng để Đảng Cộng sản lãnh đạo nước, song không loại trừ các học thuyết
triết học và chính trị xã hội khác trong đó có Nho học, miễn là chúng có lợi cho
sự ổn định và phát triển đất nước. Còn các nước tư bản chủ nghĩa thì từ trước
đến nay vẫn chủ trương đa nguyên lý luận đa nguyên văn hoá tư tưởng. Do đó
Nho học vẫn có lý do để tiếp tục tác động đến xã hội và con người ở khu vực
này.
Di sản Nho học của quá khứ để lại cho hiện tại ở các nước Đông Á
không thể không tính tới hai loại: những di sản đã quá thời và những di sản còn
có giá trị. Những di sản đã quá thời như ở Việt Nam là thái độ gia trưởng, ý thức
đẳng cấp trong cuộc sống cộng đồng, tư tưởng địa phương chủ nghĩa, cục bộ,
bản vị, quan điểm trọng nam khinh nữ, tâm lý danh lợi, tư duy hoài niệm quá
khứ, nệ cổ, không dám thay đổi lời nói của thánh hiền v.v.. của Nho học đang
tồn tại và gây tác hại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, con người mới, cho sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam. Lẽ tất nhiên là phải đấu
tranh để bài trừ.
Ở xã hội Việt Nam hiện đại, nhiều giá trị Nho học vẫn còn có ý nghĩa.
Những phẩm chất nhân, nghĩa trung, hiếu của kẻ sĩ, những cách thức tu thân, tề
gia, trị quốc… của bậc “đại học”, những cốt cách cứng cáp của kẻ đại trượng
phu, những phong thái ung dung của người quân tử, những nguyên tắc xử lý
trước “nghĩa” và “lợi” của người có học, v.v.. là những giá trị mà con người hiện
đại có thể kế thừa, miễn là sự kế thừa đó có phương pháp thích hợp.
Để Nho học phát huy được vai trò tích cực cần thì chúng ta phải nâng giá
trị Nho học lên bình diện hiện đại, lấy yêu cầu của xã hội hiện đại để yêu cầu
Nho học, tạo cho giá trị đó tính chất hiện đại rồi tác động trở lại đối với con
người và xã hội hiện đại. Bởi vì Nho học truyền thống, kể cả giá trị quan của nó
đều mang tính hai mặt: mặt hạn chế do bản thân Nho giáo mang dấu ấn của xã
hội phong kiến, mặt nhân văn do lý tưởng về một xã hội và con người tốt đẹp mà
có. Lấy yêu cầu của xã hội hiện đại để yêu cầu Nho học nghĩa là vứt bỏ mặt hạn
chế, phát huy mặt nhân văn của nó trên cơ sở đã được thực hiện hóa.
Hiện đại hoá Nho học không phải là tuỳ tiện gán ghép cho Nho học
những nội dung mà nó không có, mà bổ sung cho nó những yếu tố mới trên cơ
sở của nội dung cũ. Các khái niệm, các mệnh đề của Nho học vốn được sử dụng
trong xã hội phong kiến, nay bổ sung tư tưởng mới cho chúng thì sẽ trở nên thích
Trang 19
hợp, không những thế còn được xã hội hiện đại chấp nhận một cách thích thú vì
tư tưởng mới đó có một phần của tư tưởng cũ và được hình thức cũ thân thuộc
chuyển tải.
Chẳng hạn khái niệm “trung” và “hiếu” của Nho học vốn có nghĩa là
trung với vua và hiếu với cha mẹ mình, nhưng ngày nay thì không còn vua để
trung nữa, còn hiếu trên tinh thần nhân văn cao cả thì chẳng lẽ chỉ hiếu với cha
mẹ mình mà không hiếu với bậc cha mẹ khác, cha mẹ nói chung, tức là hiếu với
nhân dân.
Phải đặc biệt mở mang việc học tập. Người quân tử (hay kẻ sĩ) những
tầng lớp ưu tú trong xã hội, những người tham gia quản lý đất nước, trước hết
phải là những người có học và học giỏi. Những người trong bộ máy Nhà nước
nhất thiết phải là những người có đạo đức. Đây là điều kiện đầu tiên để cho dân
yêu, dân tin, dân phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân và
tham nhũng là những người độc ác.
Nho giáo đề cao việc cai trị nhân dân không chỉ bằng pháp luật mà trước
hết phải bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo (Đức trị, nhân trị, lễ trị).
Tư tưởng này của Nho giáo có tính chất không tưởng và dễ bị xuyên tạc. Vấn đề
đặt ra hôm nay cho chúng ta là có thể khai thác những gì từ Nho giáo trong quá
trình kết hợp giữa đạo đức và pháp luật nhằm xây dựng một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và một nền đạo đức mới, sẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
hôm nay, vừa xây dựng những con người kiểu mới cho xã hội ngày mai.
Trang 20
KẾT LUẬN
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho
giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt
vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Từ Nho giáo chuyển sang giai đoạn cách mạng mới là một biến chuyển
về tư tưởng cơ bản, từ một hệ tư tưởng duy tâm lấy ý chí con người làm gốc sang
chủ nghĩa duy vật với phương pháp khoa học, từ tưởng tôn ti trật tự gia trưởng
sang dân chủ, từ dân tộc sang tư tưởng Mác xít phải đòi hỏi một quá trình dai
dẳng.
Để xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam hiện nay chúng ta
cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành
thường xuyên, kiên trì và lâu dài.