A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội loài người đang ngày càng phát triển và tiến những bước tiến
vượt bậc trong mọi lĩnh vực.Cùng với sự phát triển chung của nhân loại,xã
hội Việt Nam cũng đang càng ngày càng phát triển,văn minh và tiến bộ
hơn.Với việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
,kinh tế Việt Nam những năm qua đã phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự
nâng cao rõ rệt về đời sống vật chất của con người. Và sống trong một xã hội
phát triển ấy giáo dục và đào tạo là vấn đề được quan tâm hơn bao giờ hết bởi
đó là vấn đề then chốt trong việc phát triển đất nước. ''Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia'' và giáo dục đào tạo góp phần to lớn bồi dưỡng hiền tài cho đất
nước. Để đạt được hiệu quả cao nhất, đổi mới phương pháp dạy học luôn là
vấn đề được đặt ra hàng đầu. Ngay từ những năm đầu của Thế kỉ XXI ''Đổi
mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của
học sinh'' là vấn đề được đặt ra cấp thiết. Cũng giống như các môn học khác,
đổi mới phương pháp dạy học văn cũng là một vấn đề nóng bỏng.Đáp ứng
yêu cầu đó, việc giảng dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể mấy
năm gần đây đã được quan tâm nghiên cứu và có thể nói là một phương pháp
dạy học hiệu quả đáp ứng yêu cầu đổi mới.
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca
nói riêng, có thể nói Thơ mới đóng góp góp những thành tựu vô cùng to lớn
và có giá trị. Nó đã tạo nên ''cả một thời đại trong thi ca'' với những tác giả và
tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc. Với hơn 1001 sắc điệu thẩm mĩ khác nhau Thơ
mới đã để lại cho văn học dân tộc những tên tuổi ấn tượng mà'' mỗi nhà thơ là
một ngôi sao băng qua bầu trời để lại một vệt sáng không lặp lại''. Thơ mới
thực sự đã thổi một sức sống mới vào thơ ca Việt Nam, đó là sức sống tươi trẻ
1
non tơ đầy quyến rũ. Trải qua thời gian cùng những bước thăng trầm của lịch
sử, Thơ mới thực sự đã khẳng định được vị trí của mình trong lòng độc giả
trong và ngoài nước. Những vần thơ đầy sức sống ''non tơ,biếc rờn'' ấy sẽ còn
mãi với thời gian.
Việc giảng dạy thơ hiện đại nói chung và Thơ mới nói riêng trong nhà
trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều bất cập khi cách dạy truyền thống
thầy giảng trò chép đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi giáo viên và học sinh.
Làm thế nào để nâng cao chật lượng dạy và học, làm thế nào để học sinh có
thể thấy hết được cái hay cái đẹp của mỗi vần thơ để từ đó hoàn thiện nhân
cách và có tri thức bước vào cuộc sống đã trở thành câu hỏi lớn đang đặt ra.
Hơn nữa lại áp dụng phương pháp đọc hiểu vào giảng dạy các tác phẩm giai
đoạn này. Trong khi xã hội đang ngày càng phát triển. Việc dạy văn, học văn
cũng cần phải đổi mới, nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu mới của một xã
hội hiện đại.
Với mong muốn trình bày hiểu biết của mình và đóng góp một tiếng
nói nhỏ vào việc tháo gỡ những băn khoăn, thắc mắc khi giảng dạy các tác
phẩm Thơ mới, đề tài đặt ra vấn đề nghiên cứu ''Đặc trựng thể loại trữ tình và
việc đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới trong nhà trường THPT''.
2.Lịch sử vấn đề
2.1.Vấn đề thể loại
Thể loại và loại trữ tình đã và đang là đối tượng nghiện cứu của đông
đảo các nhà khoa học.
Người đầu tiên quan tâm đến vấn đề này là Aristot trong ''Nghệ thuật
thi ca'' đã đưa ra ba phương thúc mô phỏng hiện thực đó là: Trữ tình, tự sự,
kịch.
2
Biêlinxki đã phân chia chi tiết hơn trong bài báo ''Sự phân chia thơ ra
kiểu và loại''.
G.S Trần Thanh Đạm đã khẳng định có ba loại: Trữ tình, tự sự, kịch.
Trong giáo trính ''Lí luận văn học'' (NXB GD) phân chia làm năm loại:
Tự sự, kịch, trữ tình, chính luận, bút kí.
2.2.Vấn đề Thơ mới
Sau lúc ''Thi nhân Việt Nam'' của Hoài Thanh và Hoài Chân ra đời
năm 1941 thì hàng loạt công trình có khuynh hướng bao quát toàn bộ phong
trào đã xuất hiện:
- ''Phong trào Thơ mới 1932-1945'' của Phan Cự Đệ.
- '' Thơ mới những bước thăng trầm'' của Lê Đình Kỵ.
- ''Một thời đại trong thi ca'' của Hà Minh Đức.
- ''Con mắt thơ'' của Đỗ Lai Thuý.
- ''Thơ lãng mạn Việt Nam'' của Lê Bảo.
- ''Tinh hoa Thơ mới'' của Chu Văn Sơn.
- ''Thơ mới-Bình minh thơ Việt'' của Nguyễn Quốc Tuý.
2.3.Vấn đề đọc hiểu
Đây là vấn đề được quan tâm bởi đông đảo các nhà nghiên cứu.Tập
trung trong một số công trình:
-''Tiếp cận văn học'' của Nguyễn Trọng Hoàn.
-''Đọc văn hiểu văn'' của Trần Đình Sử.
-''Hiểu văn,dạy văn'' của Nguyễn Thanh Hùng.
2.4.Vấn đề đọc hiểu tác phẩm trữ tình.
Được nghiên cứu tập trung trong các công trình sau:
- ''Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường'' của
Nguyễn Thị Dư Khánh.
- ''Hiểu văn dạy văn'' của Nguyễn Thanh Hùng.
3
-''Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể'' của Trần Thanh
Đạm.
Song qua khảo sát cho thấy hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ
đưa ra một cách chung nhất về vấn đề đọc hiểu cảc tác phẩm trữ tình mà chưa
chỉ rõ phương pháp giảng dạy tác phẩm trữ tình theo đặc trưng loại thể.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1.Nghiên cứu,khảo sát các tài liệu về thể loại, đặc điểm thể loại và thể
loại trữ tình,phương pháp đọc hiểu theo đặc trưng thể loại.
3.2.Trên cơ sở đặc trưng đó và lí thuyết giảng dạy tác phẩm văn chương
trong nhà trường vận dụng đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới trong chương trình
THPT.
4. Đối tượng nghiên cứu.
4.1.Lí thuyết tiếp nhận văn chương, vấn đề thể loại, đặc trưng thể loại
trữ tình, Thơ mới 1930-1945,lí thuyết đọc hiểu và vận dụng trong giảng dạy ở
THPT.
4.2. Tư liệu nghiên cứu: Toàn bộ tác phẩm Thơ Mới, tập trung vào các
tác phẩm được tuyển chọn trong ''Thi nhân Việt Nam'' và trong chương trình
THPT.
5.Phương pháp nghiên cứu.
5.1.Phương pháp hệ thống.
5.2.Phương pháp so sánh - đối chiếu
5.3.Phương pháp thực nghiệm.
6.Cấu tạo của đề tài.
A.Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
2.Lịch sử vấn đề
3.Nhiệm vụ nghiên cứu.
4
4. Đối tượng nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Cấu tạo của đề tài
B. Phần nội dung.
- Chương 1: Những vấn đề chung.
- Chương 2: Đọc hiểu Thơ mới
- Chương 3: Giáo án thực nghiệm.
C. Phần kết luận
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.Cơ sở lí luận.
1.1.Vấn đề thể loại.
1.1.1.Thể loại (Loại thể)
5
Khái niệm thể loại cũng như mọi khái niệm khác trong lí luận văn học,
đó là kết quả cuả sự trừu tượng hoá, khái quát hoá thực tế cụ thể, sinh động
của sáng tác văn học.
Thể loại là một khái niệm kép có quan hệ bao chứa.Bao gồm các khái
niệm:
Loại (Loại hình): Từ cổ đại Aristot đã đề xuất khái niệm này. Loại là
phương thức người nghệ sĩ sử dụng để nhận thức, khám phá đời sống khách
quan để tái hiện đời sống và sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật. Thông qua
hình tượng nghệ thuật ấy để biểu hiện tư tưởng, tình cảm. Bao gồm ba loại
hình tiêu biểu cho ba phương thức sáng tác:
- Loại hình tự sự với phương thức tự sự.
- Loại trữ tình với phương thự trữ tình.
- Loại hình kịch với phương thức tạo xung đột và kịch tính.
Ba loại hình đó tổ chức thành hai dạng văn bản: văn vần và văn xuôi.
Ba loại hình có mặt tất cả ở mọi nền văn học, mọi thời kì văn học ở mọi quốc
gia, khuynh hướng, trào lưu, tác giả... Loại hình vừa mang tính phổ biến lại
vừa phản ánh đặc điểm riêng của một dân tộc, một cộng đồng, một cá nhân
người nghệ sĩ.
Thể (Thể tài) : Là hình thức tổ chức ngôn ngữ, quy mô, dung lượng của
tác phẩm. Số lượng nhiều hơn loại, sự biến đổi cũng phong phú hơn. Mỗi loại
có thể bao gồm nhiều thể khác nhau.
Như vậy loại là một khái niệm lớn có quan hệ bao chứa, thể là một khái
niệm nhỏ nằm trong loại.
1.1.2.Sự phân chia thể loại.
Nền văn học của mỗi dân tộc cũng như toàn bộ nền văn học thế giới
xưa và nay bao gồm rất nhiều các tác phẩm văn học cụ thể của các nhà văn
nhà thơ thuộc các giai cấp, dân tộc, thời đại khác nhau. Mỗi tác phẩm văn học
6
là một công trình sáng tạo độc đáo về nội dung và nghệ thuật. Nếu tìm hiểu và
nghiên cứu kĩ các tác phẩm khác nhau ấy người ta có thể tìm thấy giữa chúng
có những nét chung về mặt cấu tạo nội dung và nghệ thuật và mặc dù nội
dung của các tác phẩm vô cùng đa dạng và biến đổi không ngừng, các nét
chung này vẫn có tính ổn định. Điều đó đã tạo cơ sở và điều kiện phân chia
các tác phẩm văn học ra thành loại thể văn học.
Từ cổ đại Aristot đã phân chia các tác phẩm văn học ra ba loại cơ bản:
Trữ tình, tự sự, kịch. Ứng với mỗi thể loại là một phương tức phản ánh đặc
trưng. Tiêu chuẩn và căn cứ hợp lí nhất để phân chia loại thể văn học trước
hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ thống hình tượng của tác phẩm. Tức là mọi
sự phân chia là từ sự cấu tạo bên trong của tác phẩm văn học chứ không phải
đơn thuần dựa vào một số biểu hiện về hình thức bên ngoài. Kiến trúc của tác
phẩm, cấu tạo hình tượng như thế nào là do phương thức phản ánh và biểu
hiện đó quy định. Nếu hình tượng thiên về mặt biểu hiện tư tưởng tình cảm
của tác giả ta sẽ có tác phẩm trữ tình, nếu hình tượng thiên về mặt biểu hiện
con người,sự việc trong cuộc sống ta sẽ có tác phẩm tự sự. Tác phẩm tự sự tập
trung, cô đọng đến mức độ bản thân nhân vật, sự việc, câu chuyện có thể tự
mình bộc lộ trên trang sách hoặc trên sân khấu, không cần sự ''dẫn chuyện''
của tác giả, như thế ta sẽ có tác phẩm kịch.Trữ tình, tự sự và kịch là ba
phương thức cơ bản nhất của sự phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu hiện
nội tâm tác giả, ba phương thức cơ bản của sự cấu tạo hình tượng, kiến trúc
tác phẩm văn học. Đồng thời đó cũng là ba loại cơ bản nhất trong lòng mỗi
loại và trên biên giới của mỗi loại sẽ nảy sinh rất nhiều các thể khác nhau của
sự sáng tác văn học.
Từ ba thể loại trên có thể chia nhỏ:
-Tự sự: +Tự sự dân gian: Thần thoại,truyền thuyết,cổ
tích,ngụ ngôn,truyện cười.
7
+Tự sự trung đại và hiện đại:Truyền kì,tiểu
thuyết,truyện,kí.
-Trữ tình:
+Trữ tình dân gian: Ca dao, câu đố
+Trữ tình trung đại và hiện đại: Thơ cổ thể truyền
thống,thơ tự do.
-Kịch:
+Kịch dân gian: Chèo, tuồng, múa rối.
+Kịch hiện đại: Bi kịch, hài kịch.
1.1.3Vấn đề tiếp nhận theo đặc trưng thể loại.
Nhà văn sự dụng một phương thức chủ đạo để sáng tác nên tác
phẩm và sáng tạo nên hình tượng chứa đựng thẩm mĩ mà ta cần khám phá,
chiếm lĩnh, tức là nhà văn đã sáng tác theo thể loại. Chính vì vậy người đọc
cũng phải cảm thụ theo thể loại. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới một
thể loại nhất định. Lí thuyết về thể loại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy
học tác phẩm trong nhà trường. Nó không phải là công cụ vạn năng nhưng là
công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Có nhiều con đường, cách thức để tiếp nhận văn học. Song tiếp nhận
văn học dựa trên cơ sở đặc điểm loại thể có nhiều lợi thế vì: Thể loại là khái
niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dụng nhất
định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể.Thể loại chính là cách thức tổ chức tác phẩm, kiểu tái hiện đời
sống,một kiểu giao tiếp...nó tương đói ổn định và bền vững trong cấu trúc tác
phẩm. Chính vì lẽ đó thể loại đã được quan tâm và trở thành một cách tiếp cận
văn chương một cách hiệu quả.
1.2.Vấn đề tiếp nhận văn học.
1.2.1.Khái niệm:
Theo ''Từ điển tiếng Việt'': Tiếp nhận là đón nhận từ người
khác, nơi khác chuyển đến.
8
Tiếp nhận văn học có rất nhiều quan điểm và cách hiểu khác
nhau.Theo giáo trình ''Lí luận văn học'' (NXB ĐHHSP): Tiếp nhận văn học là
giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác - giao tế của văn hoc. Người nghệ sĩ sáng
tạo tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khái quát về cuộc đời cho
người đọc. Chỉ khi được bạn dọc tiếp nhận quá trình sáng tạo mới hoàn tất.
Thực chất của quá trình này là chuyển cảm xúc đến bạn đọc cộng hưởng cảm
xúc đó.
Tiếp nhận văn học được hình thành từ Mĩ học tiếp nhận - một trong
những thành tựu của ngành xã hội học nghệ thuật với các nhà khoa học Tiệp
Khắc như Đônxen và Micô đã nghiên cứu khái niệm ''lí thuyết ngôn ngữ và
hoàn cảnh giao tiếp văn học''. Các nhà nghiên cứu văn học Ba Lan Ingácđen
đã tìm hiểu''những khả năng khác nhau để lĩnh hội, lí giải tính chân thật của
tác phẩm văn học'' hoặc Glôvinxki, Hanđơke, Slavinxki, Bansêđan...Trong số
các công trình nghiên cứu đó công trình ''Người tiếp nhận trong cấu trúc tác
phẩm văn học'' Glôvinxki đã nghiên cứu phương thức xác định người nhận tin
trong tác phẩm văn học và những yêu cầu của người nhận tin đã ảnh hưởng
đến tác phẩm. Tư tưởng khoa học của Glôvinxki được đánh giá là điểm xuất
phát của những công trình khoa học sau này tiếp tục nghiên cứu sự phân loại
độc giả và phân tích những những điều kiện mà giao tiếp văn học xảy ra.
Theo ''Từ điển thuật ngữ văn học'': Tiếp nhận văn học là hoạt động
chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự
cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
niệm nghệ thuật tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu,
ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng của hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển
thể...
Theo Nguyễn Thanh Hùng đó là ''quá trình đem lại cho con người sự
hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố, phát triển một
9
cách phong phú những khả năng thuộc về thế giới tinh thần và năng lực cảm
xúc của con người trước đời sống''.
Như vậy các quan niệm trên đã thâu tóm tương đối đầy đủ bản chất
của quá trình tiếp nhận. Có thể thấy rằng đó là quá trình giao tiếp giữa bạn
đọc với tư cách là ''người nhận tin'' và tác giả với tư cách là ''người truyền
tin''. Thực chất của hoạt động này là sự gặp gỡ,tiếp xúc giữa nguời đọc và
hình tượng văn học.
Qúa trình tiếp nhận là quá trình đi ngược lại với quá trình sáng tác
của nhà văn trong đó hình tượng văn học là điểm gặp gỡ tạo mối đồng cảm
giữa nhà văn và độc giả. Ở đây hình tượng văn học bước vào giai đoạn tồn tại
thứ ba, sự tiếp nhận chuyển nội dung văn bản thành một thế giới tinh
thần,biến tác phẩm thành yếu tố của đời sống ý thức vã hội.Tiếp nhận văn học
đòi hỏi sự than gia của toàn bộ nhân cách con người - tri giác, cảm giác,
tưởng tượng, liên tưởng, suy luận, trực giác đòi hỏi sự bộc lộ cá tính, thị hiếu
và lập trường xã hội, sự tán thành và phản đối...Chính vì vậy khái niệm tiếp
nhận mang tính bao quát.
1.2.2. Phương pháp sáng tác của nhà văn.
Văn chương là một hình thái ý thức đặc thù, là một loại hình nghệ thuật
đặc biệt đó là nghệ thuật ngôn từ. Do vậy nhà văn - những người sáng tạo ra
các tác phẩm văn chương chính là những nghệ sĩ ngôn từ, họ chính là người
sáng tác và biểu diễn nghệ thuật, họ có năng lưc nổi trội và sự sáng tác, biểu
diễn của họ mang tính chất chuyên nghiệp. Người nghệ sĩ ngôn từ chuyên
sáng tác văn thơ, có tài năng và có tác phẩm có giá trị được mọi người công
nhận. Quá trình sáng tác của nhà văn '' thực chất là lịch sử xây dựng lại những
hình tượng tình cảm ở công chúng'' (Kuobakine). Nhà văn giữ vai trò vô cùng
quan trọng, đó là chủ thể sáng tạo nên các tác phẩm văn chương. Trong bốn
10
thành tố tạo nên quá trình sáng tác và thưởng thức văn học (thời đại - nhà văn
- tác phẩm - bạn đọc) thì nhà văn giữ vai trò quan trọng nhất.
Tác phẩm văn chương là đứa con tinh thần của nhà văn, nó là sản phẩm
của biết bao băn khoăn trăn trở. Đó là một quá trình dài có thể khái quát bằng
sơ đồ: Hình thành ý đồ - thu thập tư liệu - lập sơ đồ, hồ sơ - viết - sửa chữa.
Muốn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật thực thụ nhà văn phải quan sát. Sự
quan sát đó phải diễn ra song song trên hai bình diện đó là đối tượng thẩm mĩ
trong hiện thực khách quan nảy sinh trong thời đại mình đồng thời quan sát
nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của bạn đọc. Hoạt động đó vừa giúp nhà văn tìm
được đối tượng viết tác phẩm lại vừa cho ra đời những tác phẩm đáp ứng thị
hiếu của độc giả.
Qúa trình sáng tác của nhà văn là quá trình quan sát, nghiền ngẫm hiện
thực khách quan rồi phản ánh trong tác phẩm bằng những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc. Hay như Bandắc đã nói ''Văn học là tấm gương phản ánh đời
sống '' và nhà văn phải là ''người thư kí trung thành của mọi thời đại''. Nhưng
cũng cần phải nhận thức thật thấu đáo rằng hiện thực trong tác phẩm văn học
không phải bao giờ cũng trùng khít với hiện thực ngoài đời vì văn học là hình
bóng của cuộc đời chứ không phải bản thân cuộc sống. Bởi cuộc sống trong
tác phẩm văn chương là cuộc sống đã được chắt lọc qua lăng kính chủ quan
của người nghệ sĩ, đã được nhào nặn và sáng tạo lại. Nó vừa giống lại vừa
khác với cuộc đời thực. Hơn thế nữa,văn học cũng không chỉ là sự phản ánh
giản đơn của cấu trúc xã hội mà ở đó vai trò của nhà văn cùng cá tính sáng tạo
rất quan trọng. Nói như Nguyễn Trọng Hoàn đó là một quá trình tư duy ngôn
ngữ thầm lặng, là cả một quá trình gian khổ tìm tòi ý tưởng, thổi hồn vào từng
câu chữ ví như người lọc quăng Radium đầy khổ luyện và công phu thông
qua khả năng cảm thụ đời sống, sự hồi tưởng, óc tưởng tượng phong phú.
`1.2.3. Cơ chế của hoạt động tiếp nhận.
11
Hoạt động sáng tạo của nhà văn là một quá trình vì vậy hoạt động tiếp
nhân cũng phải theo một quy trình nhất định và theo các bước sau:
a. Đọc văn bản.
Đọc là sự khởi đầu cho tiếp nhận văn học. Đọc đựợc coi là con đường
đặc trưng không thể thay thế trong việc tiếp nhận văn học. Bởi tác phẩm văn
học tồn tại dưới dạng văn bản văn học, đó là tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ
trong đó chứa đựng thông tin. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận các thông tin ẩn
chứa trong đó bằng phương pháp đọc. Đọc là con đường là cách thức tiếp
nhận thông tin làm giàu sự hiểu biết phục vụ cho học tập và cuộc sống. Đọc
chính là quá trình chuyển tải các kí hiệu ngôn ngữ ở dạng văn bản viết sang
những kí hiệu âm thanh. Đọc chính là quá trình khôi phục lớp vỏ âm thanh
trong tác phẩm. Đọc được coi là con đường đặc thù không thể thay thế. Với
mỗi bạn đọc khác nhau với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, thời đại, nghề
nghiệp khác nhau sẽ có cách hiểu khác nhau, đó thực sự là quá trình độc giả
đồng sáng tạo với tác giả.
b.Phân tích.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh
về hình thức. Phân tích là chia nhỏ tác phẩm thành từng phần để xem xét rồi
lại tổng hợp lại. Song không thể chia cắt một cách tuỳ tiện mà phải dựa vào
kết cấu của văn bản, phải xác định trọng tâm, lựa chọn yếu tố bản sắc của tác
phẩm, đi sâu vào khám phá, phân tích, đi sâu vào cảm xúc mãnh liệt trong thế
giới nội tâm, để kiếm tìm sự súc tích của ngôn ngữ nghệ thuật.
c. Cắt nghĩa.
Là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận tác phẩm văn học bao
hàm việc đánh giá tác phẩm và các phần nhỏ của tác phẩm.Cắt nghĩa theo
tiếng Latinh là cắt nghĩa có suy nghĩ.Cắt nghĩa là một trong những điều kiện
then chốt để dạy văn có hiệu quả.Mỗi bạn đọc khi đọc tác phẩm văn học sẽ
12
tạo ra tác phẩm cho riêng mình tuỳ thuộc vào lứa tuổi,tâm lý,thời đại.Cắt
nghĩa chính là cơ sở để đánh giá mức độ hiểu tác phẩm.
d. Bình giá.
Đây là hoat động cuối cùng trong việc tiếp nhận tác phẩm. Bình là hoạt
động mang tính chủ quan, người đọc đua ra ý kiến bàn bạc, đánh giá nhận xét
của mình, bàn luận thêm về tác phẩm. Bình thường chứa đựng cảm xúc, hình
ảnh tạo sự rung động, đồng cảm cho người nghe.Việc bình giá phải đảm bảo
đưa được ra những ý kiến đóng góp về tác phẩm, đặc sắc,hạn chế và vị trí của
tác phẩm trong tiến trình văn học.
1.2.4. Những khó khăn khi tiếp nhận.
Tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng văn bản, đó là tập hợp các kí hiệu
ngôn ngữ. Việc tiếp nhận các tác phẩm văn học trước hết là tiếp xúc với tập
hợp ngôn ngữ đó. Chính vì vậy việc tiếp nhân, cảm thụ tác phẩm văn học gặp
không ít khó khăn mà người ta gọi là khoảng cách chuyên chế.Bao gồm các
khoảng cách:
- Khoảng cách về ngôn ngữ: Trong tác phẩm văn học dù là lời kể
chuyện hay cuả nhân vật thì đó đều là ngôn ngữ của tác giả. Giữa ngôn ngữ
tác giả và độc giả không bao giờ trùng khớp, đó là khoảmg cách bạn đọc phải
phá bỏ để đến với tác phẩm.
-Khoảng cách tâm lí: Phụ thuộc vào tâm lí của tác giả, tâm lí của người
tiếp nhận,và tâm lí thời đại. Tác phẩm thuộc thời đại nào sẽ phải phụ thuộc
vào tâm lí thời đại đó, đồng thời còn phụ thuộc vào thời đại mà bạn đọc đang
sống.
-Khoảng cách lịch sử: Đó là cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm,
lịch sử ra đời tác phẩm. Đó là khoảng cách thời đại mà tác phẩm ra đời.
13
Việc tiếp nhận tác phẩm văn học đạt ra nhiều khó khăn và việc tiếp
nhận theo đăc trưng thể loại là một trong những biên pháp hữu hiệu khắc phục
những khó khăn đó.
2.Cơ sở thực tiễn.
Vấn đề giảng day theo đặc trưng thể loại đã được đăt ra từ lâu. Song
việc ap dụng vào thực tiễn giảng dạy vẫn con dè dặt. Hầu hết các giáo viên
dạy văn đều coi trọng phương phá giảng dạy truyền thống - thuyết giảng, mà
còn ngại đổi mới phương pháp. Nhìn chung giáo viên THPT phần lớn chưa
thoát khỏi phương pháp truyền thống, biến giờ văn thành giờ thuyết
giảng,chưa lấy học sinh làm trung tâm,giáo viên,học sinh,nhà văn không phải
đồng sáng tạo. Giáo viên mới chỉ giúp học sinh tiếp cận lịch sử ra đời của tác
phẩm,theo chủ đề tác phẩm. Chẳng hạn như dạy tác phẩm trữ tình phần lớn
dạy theo các đoạn thơ, chỉ dạy cái nhà văn muốn nói là cái gì? Chứ chưa tìm
hiểu nhà văn thông qua hình thức nào và nói lên điều gì?
Để thay đổi phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm và phát
huy tích cực, chủ động của học sinh... chúng tôi xin đưa ra hướng tiếp cận
theo đặc trưng thể loại.
3. Vấn đề thể loại.
3.1.Khái niệm đọc hiểu.
Theo ''Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc'' quyển ''Giáo dục'' cho
biết: Đọc là một hoạt động tâm lí nhằm tiếp nhận ý nghĩa từ kí hiệu ngôn
ngữ được in hay viết.
Xét từ mặt triết học đọc có mấy nội dung sau:
- Đọc là một quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất phải hiểu ngôn
ngữ của văn bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ thể loại, ngôn ngữ nghệ thuật
của văn bản) phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (hứng thú, nhu cầu, năng
lực) và tác động qua lại giữa chủ thể và văn bản.
14
- Đọc là quá trình giao tiếp và đối thoại với người tạo ra văn bản (tác
giả,xã hội,văn hoá).
- Đọc là quá trình tiêu dùng văn hoá văn bản (hưởng thụ, giải trí, học
tập).
- Đọc là quá trình tạo ra các năng lực người (năng lực hiểu mình, hiểu
văn hoá và hiểu thế giới).
Theo ''Từ điển tiếng Việt 2005'' (Hoàng Phê chủ biên) đọc có những ý
nghĩa sau:
- Phát ra thành lời những điều đã được viết ra theo đúng trình tự.
-Tiếp nhận nội dung của một tập hợp kí hiệu bằng cách nhìn vào tập
hợp kí hiệu đó.
- Hiểu thấu bằng cách nhìn vào biểu hiện bề ngoài.
Như vậy đọc là một hoạt động văn hoá có tầm nhân loại và có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Đọc gắn liền với hiểu.
Hiểu là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Theo ''Từ điển tiếng Việt
2005'' (Hoàng Phê chủ biên) hiểu có các nghĩa sau:
- Nhận ra bản chất, lí lẽ của cái gì bằng cách vận dụng trí tuệ.
- Biết được ý nghĩ, quan điểm của người khác.
Vậy hiểu là mục đích hướng tới mục đích trực tiếp của đọc.
Theo Bakhtin trong ''Con người trong thế giới ngôn từ'' hiểu trong đọc
hiểu bao gôm nhiều hành động gắn với nhau: 1.Cảm thụ (tiếp nhận) kí hiệu
vật chất (màu sắc, con chữ...); 2. Nhận ra kí hiệu quen hay lạ, hiểu kí hiệu của
nó được lặp lại trong ngôn ngữ; 3. Hiểu ý nghĩa của nó trong ngữ cảnh; 4. Đối
thoại với ý nghĩa đó (tán thành, phản đối) trong nhận thức bao gồm cả đánh
giá về chiều sâu và chiều rộng. Bản chất tâm lí của sự hiểu là biến cái của
người khác thành cái '' vừa của mình vừa của người khác''.
15
Hiểu là mục đích của đọc. Tuy nhiên đó không phải là mục đích cuối
cùng của học Ngữ văn mà mục đích cuối cùng là hiểu biết, chung sống, làm
việc.
3.2. Mối qua hệ giữa đọc-hiểu.
Giữa đọc và hiểu có mối quan hệ khăng khít, qua lại. Đọc luôn gắn liền
với hiểu.Theo Nguyễn Trọng Hoàn đó là mối quan hệ nhân quả. Đọc hiểu văn
học là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc, cảm xúc, nghiền ngẫm,tưởng
tượng,liên tưởng. Khái niệm đọc hiểu mang những định hướng dạy học cụ
thể,tích cực hơn so với khái niệm phân tích hay tìm hiểu. Nó đòi hỏi sự tích
cực, chủ động, sáng tạo của người đọc.
3.3. Đọc hiểu là con đường đặc trưng trong tiếp nhận văn học.
Lí luận dạy văn học hiện đại đặt vấn đề đọc hiểu văn bản lên hàng đầu.
Trước khi có hình tượng, người đọc phải làm việc với văn bản tức là phải đọc
với ba phương diện: đọc theo dòng chữ, đọc giữa dòng chữ và đọc ngoài dòng
chữ. Ba cấp đọ đó tương ứng với ba cấp độ trong cấu trúc văn bản: ngôn từ,
hình tượng, ý nghĩa.
Đọc là hoạt đông giao tiếp giữa bạn đọc và nhà văn qua văn bản. Đọc là
hoạt động văn hoá đặc trưng của con người văn minh. Đọc để tiếp nhận thông
tin và làm giàu vốn sống. Đọc để thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ và giao tiếp. Đọc
là phương pháp lĩnh hội tri thức với các môn học, các khoa học. Đọc có vai
trò đặc biệt,nó là phương pháp đặc trưng trong dạy tác phẩm văn học vì tác
phẩm văn học là nhệ thuật ngôn từ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Như vậy vấn đề thể loại, vấn đề Thơ mới, vấn đề đọc hiểu, vấn đề tiếp
nhận văn học là những vấn đề đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài
16
nước quan tâm nghiên cứu và đạt được những thành tựu to lớn. Vấn đề đặt ra
ở đây là làm sao chúng ta có thể vận dụng những thành tựu đó đề đưa ra một
phương pháp day học hiệu quả trong nhà trường THPT đó là phương pháp
đọc hiểu.
Chương 2: Đọc hiểu thơ mới
1. Thơ trữ tình:
17
1.1. Quan niệm về thể loại trữ tình:
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thể loại trữ tình:
-Người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ này có thể kể đến là Aristôt Theo Aristôt trữ tình là phương thức mô phỏng hiện thực “Cái mà người ta
mô phỏng vẫn là cái mà nhân thân anh ta không thay đổi bộ mặt của mình”
-Theo Biêlinxki trong bài báo “Sự phân chia thơ ra loại và kiểu” đã
khẳng định: “loại trữ tình gồm các tác phẩm thông qua sự bộc lộ tình cảm của
tác giả mà phản ánh hiện thực. Tác giả trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu
ghét của mình trước cuộc sống”
-Theo “Từ điển văn học”: Trữ tình là một trong ba phương thức thể
hiện (bên cạnh tự sự và kịch) làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu
tự sự thể hiện tư tưởng tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện lại một
cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời sống
bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức con người nghĩa là con người tự thấy mình
qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và
nhân sinh.
-Theo “Từ điển Hán - Việt”:Trữ tình là bày tỏ tình cảm.Như vậy tác
phẩm trữ tình là tác phẩm bày tỏ tình cảm.
1.2.Quan niệm về Thơ.
Thơ đối với mỗi chúng ta đã trở nên rất quen thuộc. Có những người cả
cuộc đời luôn yêu thơ, mơ thơ và say thơ”. Nhưng nếu bỗng nhiên đặt ra một
câu hỏi “Thơ là gì” thì cũng thật khó trả lời. Chẳng thế mà nhà thơ Bungari
Blaga Dimitsova đã thú thật trong “Ngày phán xử cuối cùng” rằng: “Ôi, nếu
tôi biết thơ là gì thì cả đời tôi tôi chẳng đau khổ thế này''. Và biết bao nhà thơ
lớn, nhà lí luận của Việt Nam và trên thế giới đã thử định nghĩa thơ:
-Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả(Vôn te).
18
-Thơ là tiếng nói hàm xúc và dũng cảm. Tiếng nói ấy được diễn đạt
bằng ngôn ngữ đặc biệt, ngôn ngữ thơ (Hà Minh Đức).
-Thơ, tình là gốc, lời là ngọn, âm thanh là hoa, ý nghĩa là quả(Bạch Cư
Dị).
-Thơ đã là tiếng ca của tình cảm của tưởng tượng, của mơ màng…tự do
để vẽ lên trang giấy những nét rung chuyển của luồng sáng tư tưởng một cách
rõ rệt thanh cao, hết ý” (Hàn Mặc Tử)
-Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ ước ao
trở lại trời, nơi đã ngàn kiếp sống vô thủy vô chung, với những hạnh phúc bất
tuyệt (Hàn Mặc Tử)
-Theo “Từ điển văn học” : Hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống,
thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu.
- Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” : Thơ trữ tình là thuật ngữ cho
chung các thể thơ thuộc loại trữ tình trong đó những cảm xúc và suy tư của
nhà thơ hoặc nhân vật trữ tình trước các hiện tượng được thể hiện ra một cách
trực tiếp.
Có thể thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về thơ, ở mỗi quan niệm
đều thể hiện được đặc trưng của thơ đó là thể hiện những tư tưởng, tình cảm,
cảm xúc của chủ thể trữ tình. Và đó cũng chính là sức lôi cuốn kì diệu của
thơ.
1.3.Thơ Mới
Thơ mới được coi là giai đoạn phát triển đầu tiên của thơ trữ tình hiện
đại Việt Nam.
-Thơ trữ tình theo tiếng Hi lạp là Liricor có nghĩa là hát dưới đàn. Ngày
nay nó được dùng làm thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình
19
trong đó thể hiện một cách trực tiếp những cảm xúc, suy tư của nhà thơ hoặc
nhân vật trữ tình
- Khái niệm hiện đại dùng để chỉ quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam kéo dại từ 1932 đến nay.
- Thơ mới là một danh từ riêng để chỉ một phong trào thơ ca phát triển
mạnh mẽ từ 1932 đến 1945. Những người đã đặt tên cho Thơ mới đó là Phan
Khôi và Thế Lữ. Dùng thuật ngữ thơ mới để đối lập với thơ cũ.
Về hình thức: Ban đầu Thơ mới là thơ tự do đối lập với thơ cũ về niêm,
luật,vần, đối.Lời thơ thể hiện rõ tính chất văn xuôi(dùng câu kể có liên từ, câu
thơ dài từ 8 đến 10 từ).
Về nội dung: Sau khi đổi mới về hình thức Thơ mới đổi mới về linh
hồn, cảm xúc, quan niệm thẩm mĩ. Đó là cái nhìn trẻ trung, ngạc nhiên của cái
tôi cá nhân nhận thức trước thế giới.
Về sau, thơ tự do dần ít đi thay vào đó là các thể thơ truyền thống, đặc
biệt là thơ lục bát.Vì vậy không thể hiểu Thơ mới là thơ tự do mà đó chỉ là
một phần Thơ mới.
Có thể nói, Thơ mới là một cuộc cách mạng lớn lao trong thơ ca dân
tộc song khong tách rời khỏi mạch nguồn truyền thống mà bên cạnh tiếp thu
những làn gió từ phương Tây thổi tới nó đã tiếp thu và kế thừa tinh hoa của
truyền thống dân tộc trong đó có thơ ca dân gian và trung đại để chứng tỏ sức
sống lâu bền của mình.
2.Đặc trưng của thơ trữ tình:
2.1.Nội dung của tác phẩm trữ tình.
Nội dung của tác phẩm văn học là cái mà tác giả nói đến trong tác
phẩm.Như vậy, có thể khẳng định ở bất cứ tác phẩm văn học nào cũng thể
hiện tư tưởng, tình cảm, tuy nhiên tùy vào thể loại khác nhau với phương thức
sáng tác chủ đạo khác nhau sẽ có những cách thể hiện tư tưởng, tình cảm khác
20
biệt. Ở thể loại trữ tình, thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng,
ý nghĩa, được trình bày một cách trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu. Có
nghĩa là nhà thơ không thuật lại hay tái hiện lại cái khách quan hay nói cách
khác nhà thơ không phản ánh trực tiếp đời sống khách quan trong nội dung
của tác phẩm mà chỉ thể hiện ý nghĩ, tâm trạng cả nhà văn. Điều này hoàn
toàn khác với những tác phẩm tự sự, tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống,
trong các nhân vật có đường đi và số phận của chúng. Tính cách và chiều
hướng con đường đời của nhân vật được bộc lộ. Còn ở tác phẩm kịch tác giả
lại chú tâm xây dựng các đổi thoại, độc thoại, những mâu thuẫn xung đột kịch
tính qua đó bộc lộ tính cách của nhân vật. Trong những tác phẩm trữ tình, đố
lại là một thế giới tâm trạng với những cung bậc cảm xúc khác nhau:
Đó có thể là một biển sầu vô tận, mênh mông dàn trải như trong ''Tràng
Giang '' của Huy Cận. Hay đó cũng có thể là những tiếng reo vui náo nức của
một tâm hồn tuổi trẻ bắt đầu say sưa với những mối duyên đầu với lí tưởng
cách mạng như trong '' Từ ấy '' của Tố Hữu.
Ngoài những cảm xúc tâm trạng có thể là buồn sầu lai láng có thể là vui
tươi phẩn khởi ta không biết gì khác về con người và những nỗi niềm đó.
Không có câu chuyện gì, cũng không có những mâu thuẫn xung đột gì xảy ra
cả. Chỉ có những cảm xúc tâm trạng khác nhau được thể hiện rõ rệt.
Tác phẩm trữ tình chú tâm vào biệu hiện trực tiếp thế giới chủ quan
của con người nhưng không có nghĩa là các tác phẩm trữ tình không phản ánh
thế giới khách quan. Bởi mọi cảm xúc tâm trạng của con người đều là cảm
xúc về cái gì, tâm trạng trước hiện thực nào, suy nghĩ về vấn đề gì. Chính vì
vậy mà các sự kiện đời sống được thể hiện một cách gián tiếp. Cũng có khi
tác phẩm trữ tình tả trực tiếp bức tranh phong cảnh đã gây xúc động cho nhà
thơ:
'' Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
21
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa ''.
( Qua đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
Cũng có những tác phẩm trữ tình thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối
liên tục nào đó. Như trong “Mưa xuân” của Nguyễn Bính, “Quê hương” của
Giang Nam hay “Núi đôi” của Vũ Cao. Song sự tái hiện đó không mang mục
đích tự thân mà tạo điều kiện, hay chính là cớ để chủ thể bộc lộ những cảm
xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Chúng giúp cho việc thổ lộ tình cảm
của chủ thể trữ tình được dễ dàng, gợi cảm và dễ hiểu. Ở đây nguyên tắc chủ
quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực.
Như vậy, biểu hiện trực tiếp những cảm xúc, suy tưởng của con người
là cách phản ánh thế giới của tác phẩm trữ tình.
Mặc dù trong tác phẩm trữ tình, việc miêu tả hiện thực khách quan
trong đời sống chỉ như một cái cớ. Song chúng ta cũng không thể xem nhẹ
việc tái hiện các sự việc cho rằng đó là không quan trọng. Trái lại, những chi
tiết chân thực sống động được phát hiện từ cuộc đời thực chính là nơi khơi
gợi những tình cảm thực, sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện rất rõ
qua các bài thơ như: “Sông Lấp” của Tú Xương, “Nhớ” của Hồng Nguyên,
“Việt Bắc” của Tố Hữu, hay “Gửi em, cô thanh niên xung phong” của Phạm
Tiến Duật….
“Sông kia dày đã lên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(SôngLấp, TúXương)
Sự việc con sông chảy qua quên hương tác giả giờ đã bị vùi lấp trở
thành nơi sinh sống, trồng trọt của con người đã khơi gợi trong lòng tác giả
biết bao cảm xúc mãnh liệt. Đó là tâm trạng buồn, tiếc nuối và hoài cổ sâu
22
sắc. Cũng qua đó tác giả đã thể hiện một tình yêu với quê hương, đất nước
thầm kín song vô cùng thấm thía bởi đó là dư vị của nỗi niềm đau đáu, xót
xa…
Ở trên chúng ta đã khẳng định tác phẩm trữ tình bộc lộ những nỗi niềm
chủ quan, thẩm kín. Song không nên hiểu rằng tác phẩm trữ tình chỉ thể hiện
những gì thầm kín, chủ quan, cá nhân, cá biệt. Bởi những suy tư trữ tình có
thể thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con người: Sự
sống, cái chết, tình yêu, lòng chung thủy, lí tưởng, ước mơ… Chính từ đặc
trưng của phương thức trữ tình không bị ràng buộc bởi yêu cầu tái hiện trọn
vẹn một tính cách, số phận, một hành động như phương thức tự sự và kịch,
tác phẩm trữ tình có thể đạt được những khái quát nghệ thuật hết sức phổ
biến. Đó cũng chính là đặc trưng nổi bật của thơ. Chúng ta vẫn thường thấy
rằng các nhà thơ xưa nay thường nói đến sự kết tinh, sức chứa của thơ. Và các
nhà thơ vẫn luôn phấn đấu nhằm đạt được điều đó. Những cảm xúc, tâm trạng
trong thơ là sự khái quát của thi nhân, nó chất chứa những rung động lớn lao,
một trái tim nồng nhiệt. Tác giả khồng chỉ nói cho mình mà là người đại diện
cho cả một lớp người, thậm chí của cả một thời đại:
“ Đừng viết về chúng tôi như cốc chén trên bàn
Xin hay viết như dòng sông chảy xiết
Và chúng tôi với chiếc bi đông bẹp dúm kia là một
Cả những hòn đá kề nồi cũng có bao điểu ấm lạnh liên quan”
(Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh)
Nhà thơ đã nhân danh thế hệ mình mà bộc bạch tâm sự. Đó không chỉ
là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của cá nhân nhà thơ mà đó là những suy nghĩ
của cả một thế hệ, đó là những thanh niên thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mĩ,
những nhà thơ đang trực tiếp cầm súng, thật sự xông vào nơi mưa bom bão
đạn, từng giờ từng phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói
23
về mình và đồng đội của mình qua đó có thể thấy được gương mặt tinh thần
chung của cả thế hệ trẻ cầm sung thời kí chống mỹ
“ Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu
Trong đau khổ người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con,suốt đời im lặng”
(Chào xuân 67,Tố Hữu)
Còn đây lại là những vần thơ thể hiện suy nghĩ, cảm xúc mang tầm vóc
sử thi. Nhà thơ có tâm thế trữ tình cao rộng với tư cách là phát ngôn cho cả
dân tộc, đất nước, nhân dân.Như văn hào M.Goocki đã nói: “Nghệ sĩ là cơ
quan cảm thụ của đất nước của mình, là tai mắt, là trái tim giai cấp, nghệ sĩ là
tiếng nói của thời đại”
Như vậy chúng ta có thể tháy nội dung trữ tình đã thể hiện rõ tình cảm,
ý nghĩ,cảm xúc của nhà văn qua đó bộc lộ tư tưởng của tác phẩm.
2.2. Nhân vật trữ tình
Nhân vật trong tác phẩm văn học là hình tượng nghệ thuật do người
nghệ sĩ xậy dựng lên qua đó bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Ở mỗi thể
loại, hình tượng nhân vật lại được xây dựng với những đặc trưng riêng biệt.
Nếu ở phương thức tự sự nhà văn chú tâm xây dựng hình tượng nhân vật sao
cho giống con người ngoài đời, sao cho chân thực như con người đời thường
bước vào trang sách. Đó là những nhân vật có diện mạo, có hành động, có
tâm tư tình cảm và chiều hướng con đường đời khá rõ. Trong phương thức
kịch điểm nổi bật của nhân vật là hành động và ngôn ngữ. Còn trong tác phẩm
trữ tình, hình tượng nhân vật không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ
cụ thể như nhân vật tự sự và kịch. Nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu,
cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ, tấm lòng người. Đó là nhân vật trữ tình.
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
24
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vùi chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà…”
( Qua đèo Ngang, Bà Huyện Thanh quan)
Đó là phong cảnh nơi đèo Ngang được quan sát qua con mắt của nhân
vật trữ tình, đó chính là tác giả, Bà huyện Thanh Quan.Rõ ràng nhân vật trữ
tình không hiển hiển ở diện mạo, hành động… mà chỉ thể hiện qua cảm xúc,
suy nghĩ, tâm trạng.
Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt giữa nhân vật trữ tình và nhân vật
trong thơ trữ tình. Nhân vật trong thơ trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm
tình cảm, là nguyên nhân trực tiếp khơi gợi nguồn tình cảm của tác giả:
“Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây là mây hay là suối?
Đôi mắt em buồn hay chớp lửa đêm giông”
(Người con gái Việt Nam, Tố hữu)
Những câu thơ tập trung thể hiện nhân vật “em” đó là chị Trần Thị Lý người con gái Việt Nam anh hùng. Song đó chỉ là nhân vật trong thơ trữ tình,
là nguyên nhân khơi gợi niềm cảm xúc và suy nghĩ, tâm trạng. Liên kết chuỗi
tình cảm đó ta hình dung ra nhân vật trữ tình đó chính là hiện thân của tác giả.
Những cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhà thơ bao giờ cũng gắn với tình
cảm chung, có ý nghĩa khái quát. Do vậy hình tượng nhân vật trữ tình cũng
mang lại tính khái quát. Thi sĩ đã tự nâng mình thành người mang tâm trạng,
cảm xúc, ý nghĩ cho một loại người, một thế hệ người. Chính vì vậy mà
chúng ta thường bắt gặp những đại từ nhân xưng: ”ta” , ”chúng ta” , ”lũ chúng
ta”...
“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
25