ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
VŨ KIM KHÁNH
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NHÀ BÁO TRUYỀN HÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội-2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Thị Trường Giang,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Chủ nhiệm khoa và các giảng viên trong khoa Báo chí và Truyền
thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Ban lãnh đạo và các nhà báo, đồng nghiệp tại Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh, nơi tôi công tác.
Và những người thân, gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Vũ Kim Khánh
CHƢƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO TRUYỀN HÌNH ............. 96
3.1. Những vấn đề đặt ra và thách thức với nhà báo truyền hình ........ 96
3.1.1. Sự phát triển nhanh chóng của truyền thông xã hội ....................... 96
3.1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền hình ........................ 97
3.1.3. Xu hướng xã hội hóa truyền hình................................................... 98
3.2. Một số giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
truyền hình ................................................................................................. 99
3.2.1. Đối với các nhà báo ........................................................................ 99
3.2.2. Đối với Đài Truyền hình .............................................................. 102
3.2.3. Đối với các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí ............................ 104
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................... 107
KẾT LUẬN .................................................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN
: Xã hội Chủ nghĩa
HTV
: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
VTV
: Đài Truyền hình Việt Nam
PT-TH
: Phát thanh Truyền hình
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
BTV
: Biên tập viên
PV
: Phóng viên
UBND
: Ủy ban nhân dân
HĐND
: Hội đồng nhân dân
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1: Cơ cấu nhà báo Đài Truyền hình TP.HCM .................................... 47
Bảng 2.2: Các chương trình HTV khán giả thường xem ................................ 49
Biểu đồ 2.1: Nhà báo đánh giá về thực trạng đạo đức nghề nghiệp ở Đài ..... 48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, bước vào giai đoạn đổi mới,
phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí
nước ta không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng.
Theo Báo cáo của Bộ Thông tin truyền thông, tính đến tháng 12/2013,
toàn quốc có 838 cơ quan báo chí in với 1.111 ấn phẩm, trong đó các cơ quan
Trung ương có 86 báo, 507 tạp chí; địa phương có 113 báo, 132 tạp chí; có 70
báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các
cơ quan báo chí. Mạng lưới phát thanh, truyền hình có 67 đài phát thanh,
truyền hình Trung ương và địa phương.
Những năm gần đây, ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu đã gây
không ít khó khăn cho kinh tế báo chí. Nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin
và nhu cầu tăng doanh thu là những yếu tố khiến việc cạnh tranh cung cấp
thông tin giữa các cơ quan báo chí ngày càng trở nên gay gắt. Đồng thời với
nó là hàng loạt sai phạm trong tác nghiệp báo chí đã xảy ra, trong đó có sai
phạm thuộc về phạm trù đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Đây cũng là vấn
đề đang được dư luận xã hội hết sức quan tâm.
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp báo chí đã trở thành chủ đề nóng trên các
diễn đàn, các hội thảo bàn về báo chí. Nhưng dường như số lượng những vụ
việc, những biểu hiện tiêu cực về đạo đức báo chí vẫn không thuyên giảm mà
đang có xu hướng tăng lên. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng vi phạm đạo đức
nghề nghiệp là đưa thông tin sai sự thật, không chính xác làm tổn hại đến
danh dự, uy tín cá nhân, lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp... Trên các trang
báo điện tử, báo in đăng tải quá nhiều các vụ án mạng, các mặt trái của xã hội;
các vụ hôn nhân, tình dục; khai thác các khía cạnh mê tín dị đoan, đời sống
tâm linh; chuyện riêng tư của các người mẫu, diễn viên; những hành vi tội ác
bạo lực... Có không ít nhà báo lợi dụng danh nghĩa nghề nghiệp dọa dẫm
doanh nghiệp đưa tiền, ép làm quảng cáo; có nhà báo viết về các lĩnh vực
1
nhạy cảm nhưng để nguyên địa chỉ, tên thật... Nhiều trường hợp nhà báo sao
chép, sử dụng tin bài của người khác mà không có sự đồng ý của tác giả, hoặc
dùng phương tiện của báo chí để “lăng xê”, tâng bốc người này, dìm người
khác với mục đích lợi ích cá nhân.
Trong lĩnh vực truyền hình, đây cũng là vấn đề vô cùng quan trọng.
Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng lớn các Đài truyền hình.
Theo thống kê của Bộ Thông tin truyền thông, trong 67 đài phát thanh truyền
hình, có 03 đài phủ sóng mặt đất toàn quốc, gồm có Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC; 64 đài phát
thanh, truyền hình địa phương. Hiện tại, Việt Nam có 178 kênh chương trình
phát thanh và truyền hình quảng bá, gồm 103 kênh chương trình truyền hình,
75 kênh chương trình phát thanh. Nhiều chương trình phát thanh truyền hình
quốc gia và một số chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá khác được
phát sóng trên mạng Internet đến các khu vực và các nước trên thế giới phục
vụ thông tin đối ngoại. Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống
truyền hình trả tiền tiếp tục được đầu tư, phát triển. Riêng 04 cơ quan báo
hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ
thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình thành
phố Hồ Chí Minh) đã sản xuất 73 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ
thống truyền hình trả tiền hiện có 75 kênh truyền hình nước ngoài phục vụ 4,4
triệu thuê bao trên toàn quốc.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ và xu hướng xã hội hóa
truyền hình, hàng trăm kênh truyền hình hiện nay đang “trăm hoa đua nở”,
thu hút một số lượng lớn nhân lực làm truyền hình. Những năm gần đây,
những vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình ngày càng có xu
hướng gia tăng. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn những vụ vi phạm như: thông
tin không chính xác; dàn dựng những câu chuyện sai sự thật, thiếu kiểm
chứng, những “màn kịch” giả dối lấy nước mắt khán giả; phát sóng những
hình ảnh vi phạm thuần phong mỹ tục; đưa lên sóng những chương trình mà
2
nội dung gây phản cảm, bức xúc cho khán giả; hoặc dùng những thủ pháp thu
hút công chúng vượt quá giới hạn… Những vi phạm đó tồn tại ở nhiều khâu
trong quá trình tác nghiệp của nhà báo truyền hình, của cơ quan báo chí,
nhưng tập trung khá nhiều ở quy trình sáng tạo tác phẩm truyền hình.
Nhà báo làm truyền hình ngoài những phẩm chất đạo đức chung, còn
có nhiều khía cạnh đánh giá đạo đức do đặc trưng trong tác nghiệp của loại
hình báo chí này. Làm thế nào để “giải mã” những vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo truyền hình, giải pháp nào để nâng cao đạo đức nhà báo
truyền hình hiện nay đang là vấn đề “nóng” đặt ra hiện nay.
Tại Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV), hiện có hơn 300
nhà báo. Việc tìm hiểu vấn đề đạo đức của nhà báo truyền hình ở Đài truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh để nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nâng cao chất
lượng, hiệu quả các chương trình phát sóng, xây dựng uy tín, thương hiệu
HTV… cũng đang là vấn đề đặt ra cấp thiết. Chính vì vậy, người viết chọn đề
tài “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình” (Khảo sát Đài truyền
hình Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2012 đến tháng 1/2014) làm luận
văn Thạc sĩ, chuyên ngành Báo chí học.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, trong đó có nhà báo truyền
hình đã có một số công trình nghiên cứu ở trên thế giới và trong nước đề
cập đến.
Một số nghiên cứu của các tác giả người Nga đã được dịch ra tiếng
Việt như:
+ Cuốn “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo”
của G.V.Ladutina (do Hoàng Anh biên dịch, NXB Lý luận Chính trị, Hà
Nội in và phát hành năm 2004). Tác giả đã đề cập về lịch sử vấn đề đạo
đức nghề nghiệp nhà báo, về hoạt động của đạo đức nghề nghiệp trong báo
chí, quan điểm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, về các nguyên tắc cơ bản
trong nghề báo.
3
+ Trong tập 2 cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” của E.P.Prôkhôrốp (do Đào
Tấn Anh, Đới Thị Kim Thoa dịch, NXB Thông tấn, Hà Nội, in và phát hành
năm 2004) tác giả đã bàn đến vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong
chương V (từ trang 258-318). Trong đó, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo, các quy định đạo đức trong mối quan hệ giữa
nhà báo – công chúng, nhà báo – nguồn tin, nhà báo – nhân vật trong tác
phẩm, nhà báo – tổng biên tập, nhà báo – các đồng nghiệp.
+ Trong tập 2 cuốn “Báo chí truyền hình” – sách tham khảo nghiệp vụ
của X.L.Xvích, A. Ia. Iurôpxki (do Đào Anh Tấn dịch, NXB Thông tấn, in và
phát hành năm 2004), tác giả đã đề cập đến các những nguyên tắc đạo đức
trong báo chí truyền hình.
+ Cuốn “Giao tiếp trên truyền hình trước ống kính và sau ống kính camera”
của X.A.Muratốp là cuốn sách tham khảo nghiệp vụ báo chí (Đào Tấn Anh dịch,
NXB Thông tấn, Hà Nội, in và phát hành năm 2004). Tác giả đã đề cập đến
những nguyên tắc đạo đức của báo chí truyền hình (tại mục 4, từ trang 269-317)
Trên thế giới, những quy định về đạo đức nghề nghiệp nhà báo đã xuất
hiện từ rất lâu. Ví như, năm 1971, cộng đồng châu Âu thông qua Tuyên ngôn
về các nghĩa vụ và quyền lợi của nhà báo (thường gọi tắt là Hiến chương
Munich). Ở Anh cũng có “Bản hiến chương của Nghiệp đoàn quốc gia các
nhà báo Anh”, hay các hãng thông tấn như Associated Press có “Bản qui tắc
đạo đức nghề nghiệp”
Trong lĩnh vực truyền hình, nhiều đài truyền hình cũng có bản qui ước
nội bộ, như đài truyền hình Pháp TF1 có bản qui ước nội bộ bao gồm 18
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các hãng thông tấn, các tập đoàn
truyền thông ở nước ngoài có sự khác biệt so với điều kiện ở nước ta, do đó,
tính chất đạo đức nghề nghiệp ở các nước cũng khác với thực tế ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, hiện bước đầu đã có những tài liệu nghiên cứu về vấn đề
này. Nhiều cuộc hội thảo do Hội nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan
4
chức năng tổ chức đã bàn thảo và có nhiều tham luận của các chuyên gia, các
nhà báo lão thành, lãnh đạo các cơ quan báo chí… về lĩnh vực này. Trên các
tạp chí, trang web chuyên ngành cũng đã có nhiều bài viết về đạo đức nghề
báo. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở nước ta chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ
gợi mở. Cụ thể, có một số công trình nghiên cứu đề cập đến đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo như sau:
+ Cuốn “Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí” của PGS.TS Tạ Ngọc Tấn (Cục
Xuất bản, H.1995) tập hợp nhiều tác phẩm hoặc trích đoạn tác phẩm của Hồ Chí
Minh bàn về vấn đề báo chí, trong đó có đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
+ Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” của các tác giả
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 2004), tại chương 10, các tác giả đã bàn về đạo đức nghề nghiệp nhà
báo thôn gqua các nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn của nghề báo.
+ Cuốn “ Những vấn đề của báo chí hiện đại” của tác giả Hoàng Đình
Cúc và Đức Dũng (NXB Lý luận chính trị, năm 2007) bàn về đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo từ trang 189-206, các tác giả cho rằng muốn nâng
cao đạo đức nghề nghiệp thì phải nâng cao trình độ tư duy, phẩm chất chính
trị và nghiệp vụ của nhà báo.
+ Cuốn “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” của
TS. Nguyễn Thị Trường Giang (NXB Chính trị hành chính, 2010), tác giả đề
cập sâu đến các vấn đề của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, thực trạng hiện
nay, giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam.
+ Đầu năm 2014, TS. Nguyễn Thị Trường Giang tiếp tục cho ra mắt
cuốn sách thứ 2 về đạo đức báo chí, đó là cuốn “100 bản quy tắc đạo đức
nghề báo trên thế giới” (NXB Sự thật). Tác giả đã công phu sưu tầm và biên
dịch nhiều quy ước đạo đức từ những nguồn khác nhau, và cuối cùng chọn
100 bản để nghiên cứu, phân tích, từ đó đề xuất kiến giải của mình.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào tập trung đi sâu, khảo sát nghiên cứu vấn
đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình, thông qua khảo sát đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo ở Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến đề
tài, thông qua khảo sát tại Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh nhằm
đánh giá thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình, từ đó đề
xuất giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: khái niệm, vai
trò, những đặc trưng nghề nghiệp, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo truyền hình.
- Thông qua khảo sát đạo đức nghề báo của đội ngũ nhà báo ở Đài
Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra thực trạng đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo truyền hình
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo truyền hình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
truyền hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nói đến đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình nói chung là phạm
vi rất rộng. Ở nước ta hiện có 67 Đài truyền hình Trung ương và địa phương với
hàng trăm kênh truyền hình. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, với thời
gian và thời lượng có hạn, chúng tôi chỉ chọn khảo sát ở Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian 2 năm từ 1/1/2012 đến 1/1/2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên nền tảng khoa học lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác tư tưởng văn hóa và báo chí.
6
Cụ thể đó là những lý thuyết đặc điểm, phương thức, vai trò của báo
chí, của đạo đức nghiệp của nhà báo. Những phần lý luận luận văn đưa ra
được tổng hợp từ nhiều tài liệu có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả áp dụng các
phương pháp cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Dùng để xem xét, phân tích các
thông tin có sẵn trong các tài liệu, từ đó rút ra những thông tin cần thiết phục
vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tài
liệu, tác giả kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng nó để so sánh,
minh họa cho các kết quả khảo sát của mình, từ đó khẳng định những đóng
góp mới của mình.
+ Phương pháp phân tích nội dung: Dùng để phân tích nội dung các
tác phẩm, những câu trả lời thu được qua trưng cầu ý kiến hay phỏng vấn
sâu. Từ kết quả của phân tích nội dung, tác giả sẽ mô tả được đặc trưng, đặc
điểm của thông điệp, có được những dẫn chứng cụ thể, những số liệu mang
tính định lượng.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Được sử dụng để phỏng vấn một số
phóng viên, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, công chúng nhằm thu thập ý
kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ở
Đài Truyền hình TP.HCM.
+ Phương pháp trưng cầu trực tiếp (an-két): Được dùng để lấy ý kiến của
200 nhà báo và 300 công chúng. Mục đích sử dụng phương pháp này là để thu
nhận các ý kiến, nhận xét, đánh giá của công chúng và nhà báo về thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo ở Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở kết quả khảo sát, tác giả rút ra những luận cứ khách quan nhằm chứng minh
cho các luận điểm của mình.
+ Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê tài liệu, con số, sự kiện, dữ
liệu... có được trong quá trình khảo sát.
7
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để phân tích, đánh giá
và tổng hợp những kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những luận cứ, luận điểm
khái quát.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài có ý nghĩa đối với ngành báo chí, các cơ sở nghiên cứu và đào
tạo báo chí - truyền thông. Luận văn hệ thống lại và bổ sung thêm một số vấn
đề về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nói chung, đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo truyền hình nói riêng. Luận văn cũng đưa ra những khuyến nghị
nhằm nâng cao phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình
trong sáng tạo tác phẩm báo chí.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có giá trị tham khảo về mặt thực tiễn cho các cơ quan báo chí
truyền thông nói chung, các đài truyền hình nói riêng, cũng như cho sinh viên
báo chí, các nhà báo. Những giải pháp có thể giúp các nhà báo truyền hình
nâng cao chất lượng thông tin của tác phẩm báo chí cũng như tích cực rèn
luyện phẩm chất đạo đức nhà báo trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, luận văn
có thể giúp cho những người quan tâm có thông tin và kiến thức cũng như cái
nhìn về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo truyền hình
Chƣơng 2: Thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình
Chƣơng 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo truyền hình
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, bao
gồm hai nét nghĩa gộp lại: “đạo” – con đường, quy luật sinh thành, tồn tại,
biến hóa của vạn vật và “đức”- bản chất, tính chất của các loài. Theo nghĩa
đó, mỗi loài có những tính chất riêng của nó để phân biệt với các loài khác.
Tuy nhiên, đó là tiếp cận từ góc độ chiết tự “đạo” và “đức”, còn đạo
đức với nghĩa là những chuẩn mực được con người thừa nhận và thực hiện thì
chỉ có ở xã hội loài người. Do vậy, khái niệm “đạo đức” chỉ dùng cho con
người, nó hàm nghĩa những chuẩn mực mà con người trong xã hội cùng đặt ra
vào cùng tuân thủ.
Theo quan niệm phương Đông, đạo đức có nghĩa là “đạo làm người”,
bao gồm nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, bàn
bè, anh em… Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ “mos”
trong tiếng Latinh, có nghĩa là “lề thói”, moralis có nghĩa là “thói quen”. Như
vậy, khi nói đến đạo đức là nói đến các lề thói và tập tục biểu hiện trong mối
quan hệ giao tiếp hàng ngày giữa người với người. Khái niệm quốc tế của đạo
đức là “moral” [6, tr.9-10 ]
Theo C.Mác, đạo đức là một “hình thái ý thức xã hội” chịu sự tác động
qua lại của các hình thái ý thức xã hội khác và cùng với các hình thái ý thức
xã hội ấy, đạo đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.
Do đó, đạo đức có “bản chất xã hội”.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa “là một hình thái ý thức xã hội, tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
9
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội” [6, tr.8]
Như vậy, những chuẩn mực đạo đức đã được chính con người sáng tạo
ra và tuân thủ, nhằm điều chỉnh hành vi của con người mà những chuẩn mực
cụ thể tùy vào quan niệm của từng thời đại, từng vùng, miền… với mục đích
là đem lại lợi ích cho mọi người – cho bản thân mình và người khác, nghĩa là
đem lại lợi ích cho xã hội.
Đạo đức đánh giá hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị
như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái
không được làm, cái nên làm và cái không nên làm…Việc yêu nước, thương
dân, kính trên, nhường dưới, hiếu thuận với cha mẹ, đối xử chan hòa với anh
em, bạn bè, làng xóm… đều do các chuẩn mực của đạo đức xã hội chi phối
hành vi cá nhân. Chuẩn mực đạo đức giúp con người có khả năng tự hoàn
thiện mình và phát triển ngày một văn minh, tiến bộ. Xã hội loài người các
phát triển thì các chuẩn mực đạo đức cũng càng phong phú, mang tính nhân
đạo hơn, có nghĩa là đạo đức cũng luôn vận động cùng quá trình phát triển
của xã hội.
Về mặt xã hội, đạo đức được thể hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận
xã hội. Đó là những ý kiến, trạng thái tinh thần tán thưởng, khẳng định (tích
cực) hoặc phê phán, phủ định (tiêu cực) của một số đông người đối với một
hành vi, ý tưởng của cá nhân hay nhóm người nào đó. Về mặt cá nhân, đạo
đức được coi là “tòa án lương tâm” có khả năng tự phê phán, đánh giá và suy
xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân.
Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự
lựa chọn của mỗi người. Từ những chuẩn mực và quy tắc chung, mỗi cá nhân
tự chọn lựa và có nghĩa vụ, trách nhiệm chuyển những yêu cầu đó thành nhu
cầu, mục đích và sự hứng thú của bản thân. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các
quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và việc tự ứng xả
của bản thân mỗi con người.
10
1.1.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
Không chỉ với cộng đồng xã hội, đạo đức chi phối cả các lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp cụ thể của xã hội hiện đại. Mỗi nghề nghiệp đều có chuẩn
mực đạo đức riêng. Những chuẩn mực ấy luôn gắn bó chặt chẽ với những
điều kiện, đặc điểm của nghề nghiệp cụ thể đó.
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức
trong một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực
trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành
viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội có nét chung nhưng phẩm chất
đạo đức trong từng nghề nghiệp lại có những nét đặc thù và yêu cầu riêng
biệt. Tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực trong đạo đức nghề nghiệp vừa
góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao
động, hoàn thiện người lao động trong nghề nghiệp đó.
Nghề nào cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, nhưng một số nghề có vị
trí quan trọng đặc biệt và có mối quan hệ rộng rãi với nhiều người trong xã
hội thì đạo đức nghề nghiệp đặc biệt được coi trọng như nghề giáo, nghề báo,
nghề y, nghề luật, an ninh, tòa án…Với những nghề này, bên cạnh những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc gia thì mỗi nước,
trong mỗi thời kỳ lịch sử lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
riêng cho người hành nghề ở nước mình.
1.1.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình
1.1.3.1. Khái niệm nhà báo
Theo TS. Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo” thì khái niệm “nhà báo” được hiểu là: “người làm nghề viết báo
chuyên nghiệp nhằm sáng tạo nên những tác phẩm báo chí, đang hoạt động
hoặc cộng tác thường xuyên với một cơ quan báo chí và được cấp thẻ nhà
báo” [18, tr.44].
11
Điều 14 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí cũng quy
định rõ: “Nhà báo phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú
tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do
Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ
quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo”.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, PGS.TS Nguyễn Văn Dững cho
rằng: “Nhà báo có thể được hiểu là người tham gia thực hiện một trong các
loại hình lao động báo chí của quá trình thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin
cho công chúng xã hội; đó là lao động tổ chức – quản lý (ở nước ta là bao
gồm tổ chức quản lý vĩ mô và vi mô), lao động biên tập, lao động tác giả, lao
động kỹ thuật – dịch vụ trong báo chí. Nhà báo là chủ thể trực tiếp hoạt động
báo chí, chịu trách nhiệm trước pháp luật và dư luận xã hội về những thông
tin mà họ cung cấp cho công chúng xã hội, trên cả hai bình diện pháp lý và
đạo đức” [9, tr.300].
Để phục vụ cho nghiên cứu ở nhiều góc độ và toàn diện, thì nhà báo có
thể được nhìn nhận là những người tham gia vào quá trình sáng tạo tác phẩm.
Do vậy, trong luận văn này, khái niệm nhà báo được tác giả nghiên cứu ở
phạm vi rộng theo như quan điểm của PGS.TS Nguyễn Văn Dững.
1.1.3.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Báo chí là loại hình truyền thông đại chúng quan trọng, có sức mạnh to
lớn trong đời sống xã hội. Hoạt động báo chí bị chi phối bởi luật báo chí và
những điều luật, chuẩn mực khác liên quan đến báo chí. Trong đó, có những
chuẩn mực rất quan trọng mà người làm báo cần tuân thủ dưới sự dẫn dắt của
lương tâm và trách nhiệm, đó chính là đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, tác giả E.P.Prôkhôrốp cho rằng,
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi
trong đạo luật, nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi
sức mạnh của dư luận xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là
12
những nguyên tắc, những quy định và những quy tắc về hành vi đạo đức của
nhà báo” [14, tr.294].
Trong cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, tác giả cho rằng đây là
“khái niệm chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu
hiện qua hành vi, nguyên tắc ứng xử của người làm báo” [21, tr.75].
TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo” cho rằng: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc,
chuẩn mực quy định về thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối
quan hệ nghề nghiệp” [18, tr.36].
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi
bằng nhiều tên khác nhau như đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo, nhưng đều có nghĩa đồng nhất.
So với nhiều nghề nghiệp khác, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo có
nội dung rất phong phú và sinh động. Bởi vì người làm báo là người đưa
thông tin đến với công chúng và hướng dẫn họ nhận thức về cuộc sống hiện
thời. Hơn nữa, hoạt động nghề nghiệp của người làm báo liên quan đến mỗi
con người, mỗi cộng đồng, tác động đến toàn bộ xã hội.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những nguyên tắc, chuẩn mực nghề
báo chung cho tất cả các nhà báo ở tất cả các quốc gia thì từng quốc gia, từng
cơ quan báo chí còn có những nguyên tắc, chuẩn mực riêng phụ thuộc vào
từng thời kỳ lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. Chính vì thế,
những phẩm chất đạo đức nghề báo như chân thật, khách quan, lòng trung
thành… bao hàm nội dung giống nhau nhưng mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo
chí lại có những yêu cầu cụ thể riêng trong từng thời kỳ lịch sử.
Trên thế giới, các nền báo chí chuyên nghiệp như Anh, Pháp, Mỹ,
Đức… đã xây dựng cho riêng mình những bộ quy tắc về đạo đức nghề nghiệp
từ rất lâu đời. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, đã có hơn 100 nước có những bộ
quy ước bằng văn bản được thông qua bởi các tổ chức nghề nghiệp và được
thừa nhận khi hành nghề. Ví dụ nước Mỹ có “Các quy tắc đạo đức báo chí”
13
được Hội các chủ bút báo chí Mỹ thông qua năm 1923 và “Bộ quy tắc đạo
đức” của Hiệp hội chủ nhân các Đài phát thanh thông qua năm 1929. Các tổ
chức quốc tế và khu vực cũng xây dựng riêng cho mình những bản quy ước,
ví dụ như được biết đến nhiều nhất là bản “Những nguyên tắc quốc tế và đạo
đức nghề nghiệp báo chí” do Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) khởi thảo,
được các hội nhà báo thành viên thông qua và được Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận.
Hiện nay, hầu hết các cơ quan báo chí, tòa soạn ở các nước phát triển
trên thế giới đều có Bộ Quy tắc hướng dẫn cho các phóng viên, biên tập viên
của mình trong hoạt động nghề nghiệp.
Ở Việt Nam, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo được xác lập trên
cơ sở thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động
báo chí Việt Nam.
Năm 1995, Đại hội lần thứ 6 Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua “Bản
quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam”. Đến Đại
hội lần thứ 8 (2005), Hội nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý, sửa đổi thành 9 điều
“Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”, với yêu cầu
cao nhất là: “Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật, không lợi
dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật”. Những quy định này là
nhằm điều chỉnh hành vi của nhà báo, ngăn ngừa những hành vi không đúng
đắn, nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà chỉ mang tính tự giác trên cơ
sở trách nhiệm, lương tâm và lòng tự trọng của nhà báo. Căn cứ vào những
tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo
sẽ phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình trong hoạt động tác nghiệp. Quy
ước đạo đức báo chí Việt Nam là văn bản pháp quy đối với nhà báo.
Bên cạnh 9 điều quy định về đạo đức báo chí của Hội nhà báo Việt
Nam, nhiều tờ báo lớn ở Việt Nam cũng bắt đầu xây dựng những bộ quy tắc
riêng và phóng viên đều phải tuân thủ cùng với việc tuân thủ Luật báo chí.
Các cơ quan báo chí, tòa soạn đưa ra Bộ Quy tắc, trong đó có các quy định
14
nhằm hướng dẫn cách ứng xử cho phóng viên và các thành viên Ban biên tập
trong trường hợp có các vấn đề nảy sinh mà không có trong quy định pháp
luật, không có trong hợp đồng lao động hay cụ thể hóa các nội dung trong Bộ
quy tắc đạo đức báo chí của Hội Nhà báo. Ví dụ: Việc chi tiền cho đối tượng
để lấy thông tin báo này thể áp dụng còn báo kia thì không được. Hoặc việc
trả tiền nhuận bút cho người được phỏng vấn chỉ có một số báo áp dụng, còn
nhiều báo thì nhuận bút đó thuộc về người phỏng vấn…
1.1.3.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình:
Luận văn nghiên cứu “đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình”,
nghĩa là chỉ giới hạn trong phạm vi những nhà báo truyền hình chứ không đề
cập tới những nhà báo của loại hình báo chí khác.
Theo luận văn này, khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền
hình được hiểu như sau: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo truyền hình là
những quy tắc, chuẩn mực quy định về thái độ và hành vi ứng xử của nhà
báo truyền hình trong các mối quan hệ nghề nghiệp”.
Trong lĩnh vực truyền hình hiện nay mới chỉ có Đài truyền hình Việt
Nam (VTV) xây dựng, cho ra đời “Quy tắc tác nghiệp của Đài truyền hình
Việt Nam” (năm 2012) nhằm hướng đến chuyên nghiệp hóa và chuẩn hóa tác
nghiệp. Đối tượng thực hiện bộ quy tắc là tất cả những người tham gia sản
xuất chương trình được phát sóng trên các kênh của VTV. Bộ Quy tắc này
giúp những phóng viên, biên tập viên, những đối tác đóng góp nội dung cho
VTV… hiểu sự khác biệt giữa hành xử đúng và sai, khuyến khích họ tìm mọi
cách để hành động đúng. Mục đích cuối cùng là tạo ra những sản phẩm truyền
hình mang tiêu chuẩn đạo đức và tính báo chí cao nhất.
Bộ quy tắc được xây dựng trên cơ sở thực tế tác nghiệp tại VTV và phù
hợp với Quy tắc đạo đức nghề nghiệp làm báo của Hội Nhà báo Việt Nam.
Bên cạnh những quy tắc chung, bộ quy tắc có các tình huống và hướng dẫn
xử lý tình huống trong quá trình tác nghiệp thường ngày.
15
1.2. Vai trò của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong hoạt động
báo chí nói chung, trong truyền hình nói riêng
1.2.1. Vai trò của đạo đức nhà báo trong hoạt động báo chí
Để hiểu rõ hơn về vai trò đạo đức nhà báo trong hoạt động báo chí, cần
phải nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của đạo đức nhà báo trong xã hội.
Bởi lẽ hoạt động báo chí là một hoạt động đặc biệt, là loại hình hoạt động
thông tin chính trị xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin – giao tiếp, giải trí và
nhận thức của con người. Mặc dù ra đời muộn hơn so với các hình thái ý thức
xã hội khác, nhưng báo chí đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh
vực xung kích bởi khả năng phản ánh hiện thực một cách sinh động, đa dạng.
Thông tin báo chí có tính xã hội rất cao, đáp ứng sự quan tâm, sở thích, nhu
cầu, tác động cùng lúc tới nhiều tầng lớp nhân dân. Vì vậy, có thể nói, báo chí
có sức ảnh hưởng tới toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục…
Xã hội càng phát triển thì vai trò của báo chí càng phát triển và thể hiện
càng phong phú, đa dạng. Ngày nay, vai trò của báo chí ngày càng được nâng
cao trong đời sống xã hội, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời
sống của mọi người, mọi quốc gia. Nhờ khả năng tác động nhanh chóng và
mạnh mẽ vào ý thức xã hội và đôi khi biến ý thức đó thành hành động cụ thể,
báo chí giống như một quyền lực có tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành
động của con người trong xã hội. Ở nước Mỹ, báo chí được coi là cơ quan
“quyền lực thứ tư”, nghĩa là bên cạnh bộ ba quyền lực được công nhận chính
thức (lập pháp, hành pháp và tư pháp), xã hội còn thừa nhận thêm báo chí như
một thứ quyền lực nữa là quyền lực thứ tư - quyền lực của báo chí.
Ở nước ta, sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao tầm quan
trọng của báo chí. Người coi “Cán bộ báo báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng.
Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén sắc bén của họ”. Báo chí là một bộ phận
không thể thiếu của công tác cách mạng, có sức “ảnh hưởng trong dân chúng
rất mạnh” và “có một địa vị quan trọng trong dư luận” [40, tr.106]. Người
16
cũng khẳng định: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng” [28, tr.252].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo phải luôn tự nhận thức đầy đủ tính chất
và vai trò xã hội của các hành vi sáng tạo mà mình thực hiện, phải học tập tu
dưỡng đạo đức.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh
giá cao vai trò và tác dụng to lớn của báo chí, coi báo chí có “vai trò là tiếng
nói của Đảng, của Nhà nước và diễn đàn tin cậy của nhân dân, đóng góp tích
cực vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hoàn thành những nhiệm vụ chính
trị quan trọng về đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí,
bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa thế giới, góp phần tăng cường ổn định chính trị, tạo ra bầu
không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị
với bạn bè trên thế giới” [1].
Chính vì báo chí có vai trò quan trọng như vậy, nên mỗi người làm báo
trong tác phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân nhắc kỹ
lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra với xã hội. Ngành
nghề nào cũng cần có đạo đức, nhưng đối với người làm báo – những người
luôn được coi là đại diện cho tiếng nói của nhân dân thì đạo đức nghề nghiệp
lại càng đặc biệt được đề cao.
TS. Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông,
trong bài viết gửi báo chí nhân dịp kỷ niệm 89 năm ngày báo chí cách mạng
Việt Nam cho rằng: “Một thông tin bị hiểu sai lệch hoặc bị nhà báo làm cho
méo mó đi thì hệ quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân
mà còn gây hệ lụy cho cả cộng đồng. Ngược lại, một thông tin kịp thời, chính
xác và trung thực của nhà báo, với sự lan tỏa của nó sẽ có tác dụng tích cực
đến cá nhân, tập thể và đời sống toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề đạo đức của nhà
báo là câu chuyện luôn được đề cao và coi trọng nhất là trong thời đại bùng
nổ thông tin” [46].
17
Trong một cuộc trao đổi ngày 17/1/2014 của tác giả luận văn với
nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Đỗ Quý Doãn, ông cũng cho
rằng: “Báo chí cũng như các ngành nghề khác đều có những trường hợp bị xử
lý mỗi năm. Nhưng báo chí có tác động lớn là bởi vì nhà báo là một người
hoạt động xã hội, hoạt động chính trị, một bài báo viết ra không phải cho một
người mà cho hàng triệu người đọc, đôi khi cả thế giới cũng biết. Vị trí xã hội
của nhà báo rất lớn, vì vậy đôi khi sai phạm chỉ rất nhỏ thôi nhưng tác động
lại rất lớn. Một khi đã mang nghiệp vào thân thì phải tu thân, bởi vì đây là
đang nói cho thiên hạ. Chưa tu thân mà đi nói người khác, nói thiên hạ, thế
giới thì không ai nghe được” (Phỏng vấn sâu).
Theo PGS. TS Nguyễn Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”
nhấn mạnh: “Trong xã hội, đối với một số nghề như nghề y, nghề giáo dục và
nhất là nghề báo, đạo đức nghề nghiệp đã và đang trở thành vấn đề được xã
hội quan tâm và đòi hòi ngày càng gắt gao. Bởi vì, nghề nghiệp báo chí không
chỉ tác động và liên quan đến cộng đồng, đến đông đảo cư dân, mà còn quan
trọng là việc tác động vào hệ thống giá trị tinh thần, tư tưởng, những quan
niệm giá trị đạo đức và nhân phẩm, giá trị của con người trong mối quan hệ
với dư luận xã hội. Trong xã hội hiện đại, cùng với quá trình đô thị hóa và
toàn cầu hóa, vai trò của báo chí ngày càng gia tăng nhanh chóng và cùng với
nó là sự quan tâm của xã hội đối với vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Và trong
điều kiện kinh tế thị trường, quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo cũng
đa dạng và phức tạp hơn” [9, tr.305].
Với những trách nhiệm chính trị - xã hội to lớn nhưng không kém phần
nặng nề như vậy, đòi hỏi nhà báo trong hoạt động nghề nghiệp của mình phải
nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình để có thể thực hiện
được nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Người có tài mà không có
đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài làm việc gì cũng
khó”[28, tr.252]. Câu nói của Bác Hồ vừa khẳng định giá trị cơ bản của một
18
con người là “tài” và “đức”. “Tài” chính là tài năng, là kiến thức, hiểu biết, kĩ
năng, kĩ xảo, kinh nghiệm sống… để con người có thể hoàn thành công việc
của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn,
những tình huống phức tạp. “Đức” chính là đạo đức, tư cách tác phong, lòng
nhiệt tình, là những khát vọng chân, thiện, mĩ... Người có “đức” biết tôn trọng
và bảo vệ chân lí, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá
nhân cho quyền lợi của tập thể. “Tài” và “đức” là những phạm trù khác nhau
nhưng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. “Có tài mà không có đức là người
vô dụng”, bởi vì tài năng do không được dùng để phục vụ nhân dân mà chỉ để
mưu cầu lợi ích cho cá nhân, cũng trở thành vô ích.
Có thể nói, điều này càng rõ ràng hơn đối với những người làm báo, bởi
như đã nói, báo chí là một quyền lực lớn trong xã hội, có ảnh hưởng rất rộng
rãi, liên quan đến số phận, lợi ích của nhiều người. Xã hội lên án những nhà
báo có tài nhưng không có đức, làm vẩn đục ngòi bút của mình vì những mục
đích vụ lợi, cá nhân, hoặc dù không cố ý nhưng với cách làm báo “chủ quan”,
xử lý nguồn tin không chuẩn mực cũng dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Giống như nhiều nghề nghiệp hiện đại khác, nghề báo đòi hỏi tính
chuyên nghiệp cao. Làm báo đòi hỏi bản lĩnh nghề nghiệp đặc biệt do báo chí
là một quyền lực lớn trong xã hội, có ảnh hưởng rộng rãi, liên quan đến số
phận, lợi ích của nhiều người. Trong ki đó, nhà báo chủ yếu hoạt động độc
lập, buộc phải lựa chọn và tự quyết những tình huống phức tạp. Do vậy, nghề
báo cũng mang dấu ấn cá nhân đậm nét. Bất cứ một sai lầm nào của một nhà
báo đều có thể ảnh hưởng đến uy tín, danh dự nghề nghiệp của chính mình,
cũng như cả giới báo chí. Vì thế, hành nghề một cách có lương tâm, giữ gìn
danh dự và bản lĩnh nghề nghiệp chính là yêu cầu lớn nhất, tổng quát nhất về
đạo đức của người làm báo trong hoạt động báo chí của mình.
Trong hoạt động nghề nghiệp, nhà báo có rất nhiều mối quan hệ mà qua
cách ứng xử với từng mối quan hệ đó, thể hiện rõ đạo đức nghề nghiệp của
mình. Đó là các mối quan hệ nền tảng như nhà báo với dân tộc, tổ quốc, với
19
nhân dân, với Đảng, Nhà nước. Nhà báo với các mối quan hệ trong môi
trường xã hội: với công chúng, với nguồn tin, với nhân vật trong tác phẩm của
mình. Nhà báo với các mối quan hệ nghề nghiệp: với ban biên tập, với đồng
nghiệp trong và ngoài tòa soạn, với cộng tác viên, thông tin viên…
Trong cuốn “Cẩm nang viết tin” Peter Eng và Jeff Hodson đã nêu ra
những quy tắc đạo đức nghề nghiệp như: Nhà báo giỏi chỉ phục vụ lợi ích của
công chúng. Đừng dùng nghề nghiệp của mình để làm lợi cho cá nhân. Đừng
dùng thông tin và từ nguồn tin của mình để kiếm tiền. Đừng dây dưa vào quan
hệ làm ăn với nguồn tin và đừng để mình bị sử dụng cho lợi ích của những
nhóm chính trị hay xã hội nào đó. Đừng kiếm tiền, quà hay sự giúp đỡ của
những người khác, kể cả các quan chức Chính phủ, các chính trị gia và các
thương nhân. Nhiều người trong số họ sẽ bảo rằng họ cho bạn những thứ này
chỉ là vì tốt với bạn, nhưng thực ra họ đang gây ảnh hưởng với những loại tin,
bài mà bạn viết. Họ đang hối lộ. Trong những tình huống như thế, bạn phải tự
cân nhắc nên làm gì? Tuy nhiên, điều quan trọng là phải luôn phấn đấu để đạt
được điều lý tưởng nhất: sự độc lập. Đừng nghĩ rằng quà hối lộ là một phần
thu nhập bình thường [32, tr.40].
Làm thế nào để nhà báo giữ được tính khách quan trong khi đưa tin, làm
thế nào để nhà báo giữ được tư cách, lòng tự trọng, vị trí xã hội của mình là câu
hỏi thường trực khi hoạt động tác nghiệp không chỉ của nhà báo mà cả lãnh đạo
cơ quan báo chí. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều nhà báo cho rằng, “phong bì”
là chuyện bình thường nếu người đưa phong bì coi đó là khoản tiền xăng cho
nhà báo. Nhưng nó sẽ không bình thường khi người ta đưa phong bì với những
ý đồ muốn điều khiển nhà báo theo những lợi ích riêng. Lúc này nhà báo nhận
phong bì sẽ trở thành công cụ của người khác và tự hạ thấp mình.
Như vậy, vấn đề là cái ranh giới giữa đạo đức và không đạo đức của
nghề báo thật mong manh. Do đó, nhà báo cần tự giữ mình là chính với thái
độ của người có trách nhiệm với cộng đồng và uy tín của bản thân, của cơ
quan và tổ chức Hội nghề nghiệp của mình là Hội Nhà báo.
20