Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

cây cỏ chịu ngập úng tốt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 27 trang )

Sau đây là 1 số giống cỏ chịu ngập nước tự nhiên ở Việt Nam,
Thường hay trồng trong ruộng lúa cho trâu bò ăn và kinh
nghiệm của các bạn đã trồng nó
1.
-

-

-

Cỏ Lồng Vực:
Cỏ lồng vực có tên khoa học là Echinochloa crusgalli L. hay
còn gọi là cỏ gạo là loại cỏ dại hằng năm, mọc thành khóm,
nhiều chồi, mảnh, cao 70 – 75 cm, mọc bò lan.Rễ mọc từ
đốt dưới. Thân dẹt, gốc thường đỏ tím.
Cỏ lòng vực có thân hình giống như cỏ mật nước, nhưng cây
nhỏ hơn cỏ mật; thường loại cỏ này cùng với cỏ lông công
mọc lẫn trong lúa, gạo, người ta thường gọi là bông cỏ; hồi
xưa rất vất vả vì phải nhặt bông cỏ, vì nó thường mọc lẫn
trong lúa, hạt nhỏ, máy chà không thể làm vỏ của nó bong
ra; bây giờ có thuốc trừ cỏ rồi nên trong gạo ít thấy bông cỏ
nữa
Muốn có cỏ lồng vực giống cũng không khó. Chỉ việc đi dạo
cánh đồng lúa, nhìn kỹ xuống ruộng là thấy ngay những cụm
cỏ lồng vực thôi. Lội xuống đánh dấu chúng lại. Chờ đến
mùa lúa chín, cỏ lồng vực
cũng chín, và thường bị gặt
đập lẫn với thóc giống, thì
ta lội xuống ruộng gặt
những bông lồng vực này
về làm giống. Gieo trồng nó


cũng như gieo cấy Mạ thôi.


2.
-

-

Cây cỏ này có tên là: nga, có người gọi ngan cũng là nó;
có nguồn gốc từ vùng Tháp Mười, vì thấy nó mọc vùng
trũng nước lại có thân mập mạp, mềm nên người Bến Tre
đem về trồng cặp mé mương, chỗ trũng để tận dụng nuôi bò
(tăng diện tích trồng cỏ), tuy cỏ cung cấp chất dinh dưỡng
cho bò, dê,… không bằng cỏ voi (nói chung) nhưng có thể
cho gia súc ăn đa dạng cỏ để nó không bị ngán; vì thân mềm
nên bò dê, rất thích ăn và năng suất cao, sống lâu hơn hơn
cỏ mật nên thấy người ta cũng trồng nhiều.
ở Bến Tre, người nuôi bò hay trồng cỏ này. Đây là loài cỏ
sinh trưởng tốt trong điều kiện ngập nước.


3. Cỏ mật nước
-

Cỏ mật nước cũng nhiều loại, có loại cây to khoảng bằng
ngón áp úc, loại này cũng khá cao, cắt một bó (dùng một tay
chuối bó lớn) là vác không nổi luôn, cỏ này cũng nhanh phát
nhưng thời gian lưu gốc không lâu (chỉ cắt được khoảng 7
đến 10 lần là phải trồng lại).


4. Cỏ alpha rất giống cỏ xả lùng

I.

Giống cỏ nuôi bò chịu ngập nước nhập ngoại
1. Giống cỏ Paspalum atratum


-

Cỏ Paspalum atratum chịu được ngập úng và đất phèn rất
tốt. Theo công trình nghiên cứu khoa học “KHẢO SÁT
KHẢ NĂNG CHỊU NGẬP, SINH TRƯỞNG, NĂNG
SUẤT VÀ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA CỎ Paspalum
atratum của Thạc sĩ ðỗ Thị Thúy Diễm – Trường đại học An
Giang thì khả năng chịu ngập nước của giống cỏ Paspalum
atratum như sau:

-

Cây cỏ Paspalum atratum được trồng phổ biến ở những
vùng đất cao làm thức ăn gia súc vì nó có giá trị dinh dưỡng
và năng suất cao. Tỉnh An Giang trong những năm gần ñây
tình hình chăn nuôi gia súc nhai lại phát triển mạnh, tuy
nhiên lại bị ngập nước vào mùa lũ nên nguồn cỏ xanh cho
gia súc thiếu nghiêm trọng.
Hiện nay chưa nghiên cứu nào đánh giá khả năng chịu ngập
của loài cỏ này tại đồng bằng sông Cửu Long, vì thế ñề tài
“Khảo sát khả năng chịu ngập, sinh trưởng, năng suất và giá
trị dinh dưỡng của cỏ Paspalum atratum” được thực hiện.

Theo kết quả nghiên cứu trong chậu cho thấy cây bị chết 10
ngày sau khi ngập ở ñộ sâu từ 40-60 cm. Cây chỉ có khả
năng chịu ngập nước ở độ sâu ngập 20 cm. Ở độ sâu ngập

-

-


-

-

này năng suất chất xanh và chất khô giảm theo thời gian
ngập.
Các thông số về chất lượng cỏ như vật chất khô, protein thô,
xơ acid, tỷ lệ tiêu hóa in vitro thì không có sự khác biệt,
ngoại trừ xơ thô và xơ trung tính. Khi cây cỏ này ñược trồng
ở chân ruộng ngập nước xấp xỉ 20 cm với 4 khoảng cách
trồng khác nhau (20 x 50 cm; 30 x 50 cm; 40 x 50 cm and
50 x 50 cm) cho thấy khoảng cách càng gần thì năng suất
chất xanh, năng suất chất khô càng tăng. Tuy nhiên khoảng
cách trồng không ảnh hưởng ñến các thông số về chất lượng
cỏ (vật chất khô, protein thô, xơ thô) trong suốt hai vụ (1 vụ
đầu và vụ tái sinh).
Đối với cỏ Paspalum atratum trồng trong điều kiện ngập
nước ngoài ñồng thì khoảng cách trồng 20 x 50 cm là
khoảng cách trồng tỏ ra thích hợp nhất và đều cho năng suất
cao nhất sau hai vụ thu hoạch. Theo đó, ước tính mỗi năm
thu hoạch được 7 vụ, đạt tổng sản lượng 183 t.ha-1.năm-1.

Mặc dù trồng trong điều kiện ngập nước nhưng chúng ta
thấy rằng năng suất cỏ Paspalum atratum vẫn cho năng suất
tương đương với nghiệm thức trồng trên cạn được chăm sóc
tốt như năng suất chất tươi trong thí nghiệm của Nguyễn
Tường Cát (2005), ñạt 200 t.ha-1.năm-1; Nguyễn Thị Mùi
và ctv (2005), ñạt 179 t.ha-1.năm-1 và Nguyễn Văn Phú
(2006), ñạt 110 t.ha-1.năm-1. Kết quả tương tự đối với năng
suất chất khô và năng suất protein thô


Giới thiệu đôi nét về giống cỏ chịu ngập nước Paspalum
atratum
-

-

-

Cỏ Paspalum atratum có nguồn gốc vùng á nhiệt đới của
Bắc Brazil, Argentina. Loài cỏ này được trồng phổ biến ở
hầu hết các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới tương đối ẩm
trên thế giới (lượng mưa 900-1800 mm) như: các nước Nam
Mỹ, phía Tây Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á.

* Đặc điểm sinh vật học của cỏ Paspalum atratum
Cỏ Paspalum thuộc họ hòa thảo chỉ sinh nhánh và mọc
thành bụi lớn, dày, thân to khỏe, thẳng đứng, hơi dẹt, phân
nhánh có dạng hình phểu, cao khoảng 60-200 cm, lá rộng,
phiến lá khi kéo thẳng có thể dài 50 cm, rộng 3-4 cm, bảng
lá có lông nhỏ bao phủ và rìa lá thì nhám.

Cỏ có nhiều hạt, trổ hoa vào cuối tháng 10. Kết thúc thu hạt
khoảng tháng 11 đến trung tuần tháng 12. Hoa cỏ Paspalum
có 5-9 chùm với 70-90 bông con. Hạt có màu hơi nâu đỏ và
có khoảng 200.000-400.000 hạt/kg.


Kỹ thuật trồng cỏ Paspalum atratum
* Thời vụ trồng
- Cỏ gieo bằng hạt tốt nhất gieo trong tháng 3-4 khi nhiệt độ
trung bình không khí trên 250C, trời chưa có mưa to.
- Cỏ trồng bằng khóm rễ có thể trồng vào mùa mưa từ tháng
3-8, không nên trồng vào các tháng 5 và tháng 7 trời nắng
to, dễ gặp gió Tây Nam thảm cỏ sẽ chết.
* Chuẩn bị đất trồng cỏ Paspalum atratu
- Trồng thâm canh trên diện tích rộng nên dọn sạch cỏ dại
bằng thuốc diệt cỏ. Cày lật úp đất, cầy sâu 20-25 cm. Sau
10-15 ngày thì cày vỡ đất sau đó bừa vỡ nhằm đảo đều đất,
đất được xốp triệt để, tạo điều kiên thoáng khí cho đất, diệt
sạch cỏ dại.
- Cần bừa vỡ 2 lần và cày lại, sau đó bừa san phẳng. Rạch
hàng bằng máy hay bằng cày trâu, hàng cách hàng 40-50cm,
nếu trồng bằng khóm thì rãnh phải sâu 10-15cm, gieo bằng
hạt thì rãnh chỉ cần sâu 7-10cm.


Lượng phân bón trồng cỏ Passpalum atratum thu chất xanh
như sau:
Không thâm
Trồng thâm
Loại phân bón

canh
canh
Phân hữu cơ hoai mục
(tấn/ha/năm)
15
25
Supe (kg/ha/năm)
350
450
Sulfatkali/Cloruakali
(kg/ha/năm)
150
200
Phân đạm Urê
(kg/ha/năm)
300
400
Vôi bột cho đất pH< 5
(kg/ha/năm)
1000
1000
Vôi bột được rải đều trên mặt đất trước khi bừa lần cuối.
Toàn bộ phân hữu cơ, phân lân và 75% phân kali được bón
lót vào rãnh trước khi trồng
Nếu thâm canh bón lót ½ lượng phân hữu cơ + lân + 2/3 kali
xuống rãnh luốn trước khi trồng. Còn lại ½ lượng phân hữu
cơ + 1/3 kali bón khi chăm sóc lứa cắt cuối mùa mưa
Phân đạm chia đều bón cho mỗi lứa cắt (5-7 lứa/năm).
Kỹ thuật trồng cỏ Paspalum atratum
- Trồng bằng hạt: yêu cầu lượng hạt từ 5-6 kg/ha (hạt có tỷ

lệ nảy mầm >75%). Hạt giống cần ngâm trong nước ấm
500C trong 25-30 phút hoặc ngâm hạt trong nước lạnh để hạt
cho hạt trương lên, sau đó để ráo nước rồi đem gieo. Trong
sản xuất có thể gieo thẳng nhưng tốt nhất là gieo trong vườn
-


-

-

ươm khi cây con đươc 5-6 lá thật đánh ra trồng sẽ giảm
được nhiều công làm cỏ.
Trồng bằng khóm: chọn bụi cỏ ở lứa cắt thứ 3 là tốt nhất.
Tách từ bụi lớn, cắt bớt phần lá để giảm sự thoát hơi nước
của khóm cỏ. Nếu vùng ẩm nên cắt bớt phần rễ già vì bộ rễ
cỏ Paspalum rất khoẻ và dài. Hom giống được tách ra có 2-3
rảnh, có thân rễ. Trồng với khoảng cách khóm từ 17-20cm.
Lấp kín đất và nén chặt gốc, lượng hom trồng từ 4-5tấn/ha.

* Chăm sóc thảm cỏ Paspalum atratum
Thảm cỏ gieo hạt: Kiểm tra mật độ cây sau khi gieo 10-15
ngày kiểm Gieo hoặc trồng dặm bằng cây con khi được 5-6
lá những nơi cây chết hoặc hạt không mọc.
Thảm cỏ trồng bằng khóm: cần trồng dăm những khóm
cây chết sau 7-10 ngày. Xới phá váng và nhổ cỏ dại sau khi
gieo trồng 3 tuần ngày. Xới sâu đất sau khi gieo trồng 30-35
ngày, kết hợp bón thúc phân Ure cho thảm cỏ



3. Kỹ thuật thu hoạch và sử dụng cỏ Paspalum atratum
* Kỹ thuật thu hoạch cỏ Paspalum atratum
- Cỏ Paspalum atratum cho thu hoạch lứa đầu lúc được 50-55
ngày tuổi. Cứ 30-35 ngày sau lại được thu cắt lứa tiếp
theo. Khi cắt, cần cắt sát gốc 5-7 cm. Một lần trồng có thể
thu hoạch được 3-4 năm nếu chăm sóc tốt.
- Thu hoạch theo kiểu cuốn chiếu, thu đến đâu làm sạch cỏ
dại và bón thúc phân đạm ngay trong giai đoạn trước 10
ngày sau khi cắt là tốt nhất. Không thu cắt cỏ quá lứa hàm
lượng xơ cao, thân lá cứng và giảm tỷ lệ ăn vào của gia súc
* Sử dụng cho gia súc
- Nhóm giống cỏ Paspalum atratum chủ yếu trồng thuần thu
cắt hang ngày cho gia súc ăn tươi. Lượng ăn vào khoảng
1,5-2 % khối lượng cơ thể gia súc (15-30 kg/con/ngày). Cỏ
Paspalum có thể trồng thu cắt cho cá


4. Phương thức trồng

- Cỏ Paspalum trồng thuần là tốt nhất và tỷ lệ sinh trưởng
trong mùa đông cao hơn các giống cỏ Ghinê
- Cỏ có thể trồng và phát triển tốt dưới tán cây ăn quả, cây
lâm nghiệp trong giai đoạn thiết lập cơ bản. Nhưng cỏ rất
cần đất ẩm, đất thấp, đất gần nguồn nước: Bờ sông, suối, ao
hồ. Cỏ có thể chịu được ngập úng khá dài vẫn cho năng suất
cao.
1. Cỏ Lông Para (Brachiaria mutica)
- Cỏ lông Para là loại cỏ lâu năm, có cả thân bò và thân
nghiên, tạo thành thảm cỏ có thể cao tới 1m. Cành cứng, to,
rỗng ruột, đốt dài 10 – 15 cm, mắt hai đầu đốt có 2 màu

trắng xanh và có khả năng đâm chồi. Thân và lá cỏ đều có
lông ngắn. Những loại cỏ này do nong-dan.com sưu tầm cho
các bạn tìm hiểu, chúng tôi không phải người bán giống cỏ.


-

Cỏ lông Para chịu khí hậu nóng ẩm, phát triển rất mạnh ở
chỗ đất bùn lầy, chịu được đất ngập úng chứ không chịu
được đất khô hạn, là cây cỏ phổ biến hầu hết các vùng đất
không thoát nước và đất ngập úng.

-

Phát triển mạnh ở chỗ đất bùn lầy, chịu được ngập nước. Có
thể sinh trưởng ở đất đỏ đất mặn, đất phèn… nhưng ưa đất
phù xa, đồng bằng. Para là cây cỏ nửa nước, nửa cạn và có
thể sống được cả ở những nơi nước chảy.
Cỏ lông Para dùng để chăn thả gia súc luân phiên vì cỏ
không chịu dược giẫm đạp và gặm quá nhiều. Thường được
đùng ở dạng cỏ xanh băm nhỏ cho ăn tại chuồng, không

-


-

thích hợp với ủ chua. Cỏ còn là nguồn phân xanh cho kết
quả rất tốt trên các vùng trồng dứa. Cỏ cạnh tranh rất khỏe
với cỏ dại, mọc lan trên mặt nước rát dày.

Năng suất xanh của giống cỏ lông Para đạt 70 – 80
tấn/ha/năm, có nơi đạt 90 – 100 tấn/ha/năm. Đặc biệt cỏ
lông para có khả năng phát triển tốt vào vụ đông xuân nên
nó chính là cây hòa thảo trồng cung cấp thức ăn xanh cho
gia súc vào vụ này rất tốt.

- CỎ GHINÊ (Panicum maximum )

Phạm vi ứng dụng: Thích hợp thu cắt, ủ chua và chăn thả nhẹ.

o

Nguồn gốc và phân bố


Cỏ Ghinê có nguồn gốc ở Châu Phi nhiệt đới và phân
bố rộng rãi ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới. Ở Australia, cỏ
này đã được đưa vào trên 30 năm nay và đã lan rộng ra các
vùng có khí hậu biển (không có sương muối ) nhiệt đới
và Á nhiệt đới
thuộc bang
Queensland với
lượng mưa hàng
năm khoảng
1000mm.

nước ta cỏ Ghinê
đã được đưa vào
Nam Bộ năm
1975 và

trồng phổ biến
Hình 6: Cỏ Ghinê (P. maximum
nhiều nơi trên
TD58)
cả nước. Một số giống cỏ ghi-nê phổ biến: P . maximum TD58,
P . maximum CIAT 673, P . maximum Common, P . maximum
Harmil, v.v.

o

Đặc điểm chung

Cỏ Ghinê là loài cỏ lâu năm, thân cao 2-3m, không có thân bò,
chỉ sinh nhánh và tạo thành bụi. Bẹ lá mọc quanh gốc có màu
tím, cả bẹ và lá đều có lông nhỏ và trắng, nhất là ở bẹ lá. Những
lá phía trên ngắn và có bẹ lá dài nên không che nắng ở những
lá dưới. Lá có khả năng xoay theo chiều nắng. Tỷ lệ lá/thân là
1,7, cụm hoa hình chuông là đặc trưng của cỏ,


cũng có lông nhỏ và mịn. Bộ rễ có nhiều nhánh, phát triển rất
mạnh. Cỏ phát triển tạo thành từng cụm như một cái phễu
hứng nước mưa nên khả năng chịu hạn cao.
Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của cỏ Ghinê từ
0
19,1-22,9 C, không chịu được sương muối nặng. Sinh trưởng
tốt trong những vùng có lượng mưa từ 800-1800 mm/năm.
Không chịu hạn được ở những vùng quá khô. Sống được trên
nhiều loại đất nhưng ưa đất nhiều màu mỡ và đất phù sa. Ưa
đất giàu canxi, oxyt sắt, tiêu nước tốt. Tốt nhất ở pH = 6, không

chịu được đất ẩm kéo dài. Chịu được ở đất mặn nhẹ. Là cây
phản ứng với ánh sáng ngày ngắn và tương đối chịu bóng. Nó
có thể mọc tốt ở những nơi cao tới 2500m so với mực nước
biển.

o

Gieo trồng và chăm sóc

Trồng vào mùa mưa, tốt nhất trồng ở đầu mùa
để đảm bảo tỷ lệ sống cao.

mưa

Chuẩn bị đất: Cày vỡ đất với độ sâu 20cm, bừa và cày
đảo (cày 2 lần), bừa tơi đất, nhặt sạch cỏ dại và san phẳng mặt
đất trồng. Nếu dùng hạt gieo thì chuẩn bị đất kỹ hơn, cày bừa
nhiều lần đảm bảo đất tơi nhỏ.
Phân bón cho 1ha trồng cỏ gồm:
Phân hữu cơ hoai mục: 10-15 tấn
Supe lân : 200-250 kg
Sulfat kali : 100-200 kg
Phân đạm urê: 300-350 kg


Các loại phân hữu cơ, lân, kali dùng bón lót theo hàng;
phân đạm dùng để bón thúc và chia đều cho mỗi lần thu hoạch
trong năm.
Giống: Gieo trồng bằng hạt cần 4-6 kg hạt tiêu
chuẩn/ha. Trồng bằng thân sử dụng 4-6 tấn/ha và được chuẩn

bị như sau: Khóm/bụi cỏ Ghinê làm giống được xén bỏ phần lá
ngọn để lại gốc cao khoảng 25-30cm. Dùng cuốc đánh khóm
cỏ lên, đập rủ đất khỏi rễ cắt bớt rễ để lại còn 4- 5cm. Sau đó
tách khóm thành các cụm nhỏ liền khối, đảm bảo mỗi cụm có
4-5 thân nhánh tươi.
Cách trồng: Đất sau khi rạch hàng, bón phân theo quy
định, đặt từng cụm giống vào thành hàng rạch với khoảng cách
35-40cm, dùng cuốc lấp kín 1/2 độ dài của thân giống (phần
gốc) và dùng chân dậm chặt đất lấp phần gốc để rễ cỏ tiếp xúc
chặt với đất tạo điều kiện độ ẩm cao, chóng nảy mầm và đạt tỷ
lệ sống cao.
Nếu dùng hạt gieo rải đều theo hàng rạch và dùng đất
nhỏ lấp kín hạt một lớp mỏng (không quá 1 cm) hoặc dùng tay
khỏa đều hạt với đất theo hàng trồng.
Chăm sóc: Sau khi trồng 15-20 ngày kiểm tra tỷ lệ
sống, những chỗ không có mầm mọc thì trồng bổ sung. Nếu là
cây con mọc từ hạt thì phải chờ đến khi phân biệt rõ (rất dễ
nhầm lẫn với cỏ dại) mới chăm sóc cỏ trong hàng và trồng tỉa
bổ sung. Chăm sóc làm cỏ dại 2 lần trước khi cỏ


phát triển tốt che phủ đất. Dùng phân đạm bón thúc khi thảm
cỏ nảy mầm xanh và sau khi làm cỏ dại.

o

Năng suất

Lứa đầu thu hoạch khi thảm cỏ trồng được 60 ngày
tuổi, các lứa tái sinh thu hoạch sau khi thảm cỏ có độ cao 45-60

cm (tùy theo mùa và trạng thái phát dục của cỏ). Phần gốc để
lại là 10-15cm.
Năng suất đạt từ 50-100 tấn tươi/ha và có thể lên tới
180 tấn/ha. Có thể cắt 8-9 lứa/năm. Cỏ Ghinê phát triển nhanh
trong mùa mưa và đây là một trong những loài có thể thay thế
Pangola vì giữ được năng suất đáng kể mặc dù độ ngon miệng
có kém hơn.

o

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng

Hàm lượng chất khô 20-30%, protein thô 5-9%, xơ thô
30-40%. Tỷ lệ tiêu hoá chất khô của cỏ diễn biến từ 64% (sau 2
tuần thu hoạch) xuống 50% (sau 8 tuần thu hoạch).

o

Sử dụng

Cỏ Ghinê có thể dùng để chăn thả hay thu cắt làm cỏ
xanh hoặc khô hoặc ủ chua. Chu kỳ sử dụng dài tới 6 năm, phụ
thuộc vào chế độ sử dụng. Có thể trồng xen với keo dậu, Stylo
để làm tăng giá trị dinh dưỡng của hỗn hợp cỏ.
Bảng 1.4. Thành phần hoá học cỏ Ghinê và tỷ lệ tiêu hóa (%)


Đặc điểm
Mẫu
Tươi,

40cm
Tươi,
80cm
Tươi,
mới có
Cỏ khô, 6
tuần
Cỏ khô, 8
tuần
Ủ chua
Tỷ lệ tiêu
hóa

Chất
khô

Tính theo vật chất khô (%)
Tro
Mỡ
DXKĐ

thô
29,9 11,2
1,6
48,5

25,0

Pro.
thô

8,8

25,0

8,8

32,8

12,9

1,5

44,0

28,0

5,3

39,6

10,6

1,4

43,0

88,6

11,9


31,7

12,0

3,2

41,2

89,7

6,6

35,5

13,2

1,8

42,9

20,0
57,2

6,3
58,4

39,7
67,5

19,6


2,7
55,8

31,7
57,2

Trồng cỏ Ghinê để chăn thả thì 2 lứa đầu tiên phải thu cắt, đến
lứa thứ 3 mới đưa bò vào chăn thả. Thảm cỏ chăn thả có độ cao
35-40 cm là hợp lý. Thời gian nghỉ để cỏ tái sinh mọc lại (chu
kỳ chăn thả) khoảng 25-35 ngày và thời gian chăn gia súc liên
tục trên một lô cỏ không quá 4 ngày

1. CỎ LÔNG PARA (Brachiaria mutica)
1.1. Nguồn gốc
Cỏ lông Para có nguồn gốc ở Nam Mỹ, phân bố nhiều
ở các nước nhiệt đới. Cỏ này được đưa vào Nam bộ năm 1875


và Trung bộ năm 1930 rồi sau đó ra Bắc bộ. Hiện


nay được sử dụng ở nhiều nơi và là một trong các loại cỏ Hòa
thảo tốt ở nước ta.
1.2. Đặc điểm chung
Cỏ lông Para là loài cỏ lâu năm thân có chiều hướng bò,
có thể cao tới 1,5m. Thân và lá đều có lông ngắn. Cánh cứng to
rỗng ruột, đốt dài 10-15cm, mắt 2 đầu đốt có màu trắng xanh.
Các mắt ở đốt có
khả năng đâm chồi và rễ dài, lá

dài đầu nhọn như hình tim ở
gốc. Bẹ lá dài, lưỡi bẹ ngắn.
Cỏ lông Para là cỏ sinh
trưởng trong mùa hè, thuộc cỏ
lâu năm. Nhiệt độ sinh trưởng
0
trung bình thích hợp 21 C. Nó
có thể sinh trưởng ở những
vùng cao tới 1000m so với mực
nước biển, thích hợp với những
vùng có lượng mưa cao
nhưng có thể tồn tại ở những

Hình 7: Cỏ Lông Para

vùng có lượng mưa thấp 500mm/ năm. Phát triển mạnh ở
những nơi đất bùn lầy, chịu được ngập nước (tới 60cm), cỏ
thường xuất hiện ở các bờ sông, suối, cống rãnh. Có thể sinh
trưởng ở đất đỏ, đất mặn đất phèn... nhưng ưa đất phù sa, đồng
bằng. Lông Para là cây cỏ nửa nước, nửa cạn và có thể sống
được ở những nơi nước chảy.


1.3. Năng suất
Năng suất cỏ thay đổi theo thời gian sinh trưởng, mùa
vụ và tính chất đất đai. Năng suất xanh của cỏ lông Para đạt
70-80 tấn/ha/năm, có nơi đạt 90-100 tấn/ha/năm. Đặc biệt, cỏ
lông Para có khả năng phát triển tốt vào vụ Đông-Xuân nên nó
chính là cây hòa thảo trồng cung cấp thức ăn xanh cho gia súc
vào vụ này rất tốt.

1.4. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng
Lá cỏ Para có tính ngon miệng cao song phần thân và
cỏ già tính ngon miệng giảm rõ rệt khi nuôi gia súc. Giá trị dinh
dưỡng của cỏ cao, mặc dù lượng chất khô ăn vào của gia súc
chăn thả có thể giảm do hàm lượng nước cao và nước đọng
trên lá và thân. Hàm lượng protein biến động từ 14-20% và tỷ
lệ tiêu hoá chất khô 65-80% ở lá và 55-65% ở phần cành ngọn.
Giá trị này giảm xuống chỉ còn 35-45% ở ngọn già.
Bảng 1.5. Thành phần dinh dưỡng của cỏ lông Para

Đặc điểm
Mẫu
Tươi, 6
tuần tuổi
Tươi, 10
tuần tuổi
Tươi, 14
tuần tuổi

29,5

Pro.
thô
14,2

% Tính theo vật chất khô
Tro
Mỡ DXKĐ

thô

26,6
12,4 1,9
44,9

39,8

13,2

29,4

12,0

1,5

43,9

36,3

11,9

28,5

11,3

1,8

46,5

Chất
khô



29,0
Tươi, giữa
ra hoa
Khô, thu
45 ngày
Khô, thu
55 ngày

9,4

30,8

9,9

2,0

50,9

12,0

27,3

10,7

2,9

47,1


10.4

27,9

9,9

3,0

48,8

1.5. Sử dụng
Cỏ lông Para không chịu được giẫm đạp do vậy chỉ nên
trồng để thu cắt làm thức ăn xanh cho ăn tại chuồng hay ủ chua
hoặc dùng để chăn thả gia súc luân phiên, cắt lứa đầu 45-60
ngày sau khi gieo, các lứa sau cắt cách nhau 30-35 ngày, cắt 510 cm cách mặt đất. Cỏ trồng 1 lần có thể sử dụng đến 4-5
năm. Cỏ còn là nguồn phân xanh cho kết quả rất tốt trên các
vùng trồng dứa. Cỏ cạnh tranh rất khỏe với cỏ dại mọc lan trên
mặt nước.

2. CỎ RUZI (Brachiaria ruziziensis)
2.1. Nguồn gốc và phân bố
Nguồn gốc ở Châu Phi nhưng cỏ Ruzi mọc tốt ở các nước
Châu Mỹ La-tinh, đặc biệt là vùng Caribê. Hiện nay có hầu khắp
ở tất cả các nước nhiệt đới và đang lan dần đến một số nước á
nhiệt đới. Cỏ Ruzi được nhập vào nước ta năm 1968 từ Cuba,
năm 1980 từ Australia và gần đây là từ Thái Lan (1996).
2.2. Đặc điểm chung
Cỏ Ruzi là giống cỏ lâu năm thuộc họ hòa thảo, nó có
thân bò rễ chùm bám chắc vào đất, thân lá dài mềm có lông mịn.
Cây có thể mọc cao tới 1,2 -1,5m, bẹ lá mọc quanh gốc. Cỏ Ruzi

cũng có khả năng chịu khô hạn trong mùa khô 4 tháng như cỏ


Ghinê nhưng phát triển thích hợp vẫn là vào mùa
mưa, nó có thể mọc
tốt ở những nơi cao
tới 2000m so với
mực nước biển. Cỏ
Ruzi ra hoa và kết
hạt tốt trong nhiều
điều kiện nên
dễ
dàng
thu
hạt
Hình 9: Thảm cỏ Ruzi


hơn nhiều so với cỏ Ghinê.
Cỏ Ruzi có thể trồng ở vùng đồng bằng, ven bờ đê, bờ
vùng hay ở vùng trung du miền núi với độ dốc không quá cao
0
0
(đồng cỏ cắt <8 , đồng cỏ chăn thả <15 ), pH thích hợp 5,06,8, không chịu đựng với đất có độ a xít cao. Nhiệt độ thích
0
0
hợp cho sự sinh trưởng của cỏ là 33 C vào ban ngày và 28 C
0
vào ban đêm. Nhiệt độ tối thiểu vào ban đêm là 19 C, nhưng
không có sương muối. Cỏ Ruzi cũng có khả năng chịu được

bóng rợp và vì vậy có thể trồng xen với một số cây trồng khác.
Cỏ Ruzi sinh trưởng mạnh trong mùa mưa, có khả năng chịu sự
dẫm đạp cao nên có thể được trồng làm bãi chăn thả gia súc.
2.3. Gieo trồng và chăm sóc
Trồng vào mùa mưa nhưng tốt nhất ở đầu mùa
để đảm bảo tỷ lệ sống cao.

mưa

Chuẩn bị đất: Cày vỡ đất với độ sâu 20cm, bừa và cày
đảo (cày 2 lần), bừa tơi đất, vơ sạch cỏ dại và san phẳng mặt
đất trồng. Nếu dùng hạt gieo thì chuẩn bị đất kỹ hơn, cày bừa
nhiều lần đảm bảo đất tơi nhỏ và thời gian chuẩn bị đất phải dài
nhằm giảm bớt hạt cỏ dại mọc. Rạch hàng với khoảng cách 4050cm, sâu 15cm (trồng bằng thân khóm) và 7-10 cm (gieo
bàng hạt)
Phân bón (cần đầu tư cho 1ha trồng cỏ):
+ Phân hữu cơ hoại mục: 10-15 tấn
+ Supe lân:
200-250 kg


+ Sulfat kali:
+ Urê:

100-200 kg
300-350 kg

Các loại phân hữu cơ, lân, kali dùng bón lót theo hàng,
phân đạm bón chia đều cho mỗi lần thu hoạch trong năm và
bón thúc.

Giống: Gieo trồng bằng hạt cần 4-6 kg hạt tiêu
chuẩn/ha. Phải xử lý hạt trước khi gieo. Phương pháp xử lý hạt
0
là ngâm hạt vào nước nóng ở nhiệt độ 80 C trong vòng 12-15
phút, sau đó rửa sạch hạt bằng nước lã ngâm thêm 1-2 giờ rồi
vớt ra đem gieo.
Nếu trồng bằng thân khóm sử dụng 4-4,5 tấn/ha và
được chuẩn bị như sau: Khóm cỏ Ruzi làm giống được xén bỏ
phần lá ngọn để gốc cao khoảng 25-30cm. Dùng cuốc đánh
khóm cỏ lên, đập rũ đất khỏi gốc rễ, cắt bớt rễ dài để lại còn 45cm. Sau đó tách khóm thành các cụm nhỏ liền khối, đảm bảo
mỗi cụm có 4-5 thân nhánh tươi.
Cách trồng: Đất sau khi rạch hàng, bón phân theo quy
định, đặt từng cụm giống vào hàng rạch với khoảng cách 3540cm, dùng cuốc lấp kín 1/2 độ dài của thân giống (phần gốc)
và dùng chân giẫm chặt đất lấp phần gốc để rễ cỏ tiếp xúc chặt
với đất tạo độ ẩm, chóng nảy mầm và đạt tỷ lệ sống cao.
Nếu dùng hạt, gieo rải đều theo hàng rạch và dùng đất
nhỏ lấp kín hạt một lớp mỏng hoặc dùng tay khỏa đều hạt với
đất theo hàng trồng.


×