LỜI NÓI ĐẦU
Để hoàn thành chƣơng trình đào tạo và kết thúc sau 3 năm học tập và rèn
luyện tại Trƣờng cao đẳng Sơn La, đƣợc sự đồng ý của nhà trƣờng, Khoa nông
lâm, Bộ môn Lâm Sinh, tôi tiến hành thực hiện chuyên đề tốt nghiệp: "Nghiên
cứu, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao kỹ thuật canh tác nương rẫy gắn
với bảo vệ môi trường cho cộng đồng người Thái xã Chiềng Bằng - Quỳnh
Nhai, Sơn La”.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng và nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo: Chu Văn
Tiệp và các thầy cô giáo khác trong bộ môn, khoa nông lâm, trƣờng cao đẳng
Sơn La. Cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ, nhân dân xã Chiềng Bằng và
các bạn bè đồng nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Chu văn
Tiệp ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Do hạn chế về mặt thời gian và kinh nghiệm cũng nhƣ năng lực của bản
thân, hơn nữa đây là lần đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, nên
chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi kính mong nhận đƣợc sự
góp ý của bạn bè và sự chỉ đạo của các thầy cô giáo để chuyên đề tốt nghiệp tôi
đƣợc hoàn thành hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 10 tháng 4 năm 2013
Sinh viên
Là Văn Thuận
1
Chƣơng I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất dốc ở nƣớc ta chiếm ¾ diện tích tự nhiên toàn quốc, bao gồm cả ở đất
và đất canh tác. Trong đó chủ yếu là đồi, núi, là nơi cƣ trú của các cộng đồng
dân tộc thiểu số, đồng thời cũng là nơi đóng vai trò chính trong việc giữ cân
bằng sinh thái, môi trƣờng tự nhiên của xã hội. Mọi hoạt động nông, lâm của
con ngƣời đều ảnh hƣởng trực tiếp hay gián tiếp đến các diễn biến tích cực hay
tiêu cực của môi trƣờng và hệ sinh thái.
Trong thực tế nhiều năm nay ngƣời dân đã tiến hành nhiều hoạt động trên
diện tích lớn của đất đốc vì mục đích sản xuất lƣơng thực, khai thác nguyên vật
liệu, đặc sản và nhiều lý do khác làm thảm thực vật bị tàn phá, đất bị xói mòn
rửa trôi và giảm sức sản xuất. Một trong những hoạt động đó là tập quán du
canh, du cƣ, đốt nƣơng làm rẫy, tập quán canh tác lạc hậu của đồng bào. Trong
quá trình sinh trƣởng, phát triển cây trồng đã lấy mất đi một lƣợng dinh dƣỡng
từ đất. Bên cạnh đố sự thu hái sản phẩm không để lại tàn dƣ làm cho đất mau
chóng nghèo kiệt, do không sử dụng phân bón. Theo thống kê của Cục Kiểm
lâm, hàng năm diện tích đốt nƣơng làm rẫy lên đến hàng trục nghìn ha. Đốt
nƣơng làm rẫy dẫn đến nguyên nhân của hàng nghìn vụ cháy rừng trên phạm vi
toàn quốc. Hầu nhƣ diện tích đất đai dƣợc đồng bào sử dụng làm nƣơng rẫy cho
năng suất thấp nên mặc dù diện tích canh tác lớn nhƣng ngƣời dân vẫn không đủ
lƣơng thực đảm bảo cho cuộc sống hằng ngày.
Tây Bắc là vùng đất có nhiều thành phân dân tộc cùng sinh sống nhƣ dân
tộc Thái, H’Mông, kháng.... Với trình độ dân trí còn thấp, song có vốn tri thức
bản địa rất phong phú, trong đó chứa đựng những tri thức của cộng đồng về luật
tục, về quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trƣờng và phát triển sản xuất nông
nghiệp. Điều kiện kinh tế của ngƣời dân còn nghèo nàn, lạc hậu nhƣng so với
một vài năm trƣớc đây thì đời sống của ngƣời dân đang ngày càng đựơc cải
thiện do họ đã biết thực tế hóa sản xuất, biết khai thác tiềm năng tự nhiên. Với
địa hình chủ yếu là vùng đất có độ dốc lớn nên chủ yếu là trồng lúa nƣơng, cây
công nghiệp và cây ăn quả. Song do trình độ văn hóa và kỹ thuật còn hạn chế,
2
đầu tƣ về cơ sở hạ tầng chƣa cao nên năng suất còn thấp và ảnh hƣỏng không
nhỏ đến môi trƣờng xung quanh nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, nguồn nƣớc, đất bị
xói mòn...
Xã Chiềng Bằng, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La là một trong những xã
chậm phát triển, sản xuất mang tính tự cung, tự cấp. Cộng đồng ngƣời Thái ở
đây thuộc nhóm Thái đen với tập quán canh tác chủ yếu là nƣơng rẫy theo lối
quảng canh. Do địa hình phức tạp núi cao độ dốc lớn, nƣớc sinh hoạt và sản xuất
khó khăn, ruộng nƣớc canh tác ít, chăn nuôi hạn chế nên ngƣời dân đã khai phá,
đốt nƣơng làm rẫy và dẫn đến hiện tƣợng cháy rừng vẫn thƣờng xảy ra. Mặc dù
canh tác nƣơng rẫy là chủ yếu nhƣng chỉ canh tác vào mùa mƣa, mà xung quanh
nƣơng rẫy canh tác lại không hề có vành đai cây xanh nên thƣờng ngày sau khi
thu hoạch đất sẽ bị rửa trôi, xói mòn rất mạnh.
Vì vậy vẫn đề cải tiến kỹ thuật canh tác nƣơng rẫy cho ngƣời dân, xây
dựng luân canh hợp lý để nâng cao hiệu quả canh tác, tăng cƣờng mức thu nhập
cho ngƣời dân và hạn chế đến mức tối thiểu sự thiệt hại về tài nguyên đất do
canh tác của con ngƣời gây ra đang là một vấn đề cần đƣợc quan tâm. Song chƣa
có một đề tài nào nghiên cứu đƣa ra những giải pháp để nâng cao kiến thức canh
tác cho cộng đồng ngƣời Thái ở khu vực này. xuất phát từ thực tế đó mà chúng
tôi tiến hành chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao kỹ thuật canh tác nương rẫy gắn với bảo vệ môi trường cho cộng
đồng người Thái xã Chiềng Bằng, huyện Quỳnh Nhai”.
3
Chƣơng II
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
Canh tác cây thân gỗ cùng với cây công nghiệp trên cùng một diện tích là
một tập quán sản xuất lâu đời của nông dân ở nhiều nơi trên thế giới. Theo king
(1987), cho đến thời trung cổ ở châu Âu, vẫn tồn tại một tập quán phổ biến là
“chặt và đốt” rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây công mghiệp
hoặc sau thu hoạch nông nghiệp. Hệ thống canh tác này vẫn tồn tại ở Phần Lan
cho đến cuối thế kỉ 19, và vẫn còn ở một số vùng ở Đức đến tận năm 1920.
Nhiều phƣơng thức canh tác ở châu Á, châu Phi và khu vực nhiệt đới châu Mỹ
đã có sự phối hợp cây thân gỗ để nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác nhƣ: Gỗ, củi, đồ gia dụng....
Dân số thế giới ngày càng tăng, diện tích canh tác trên đầu ngƣời ngày
càng giảm di một cách đáng kể. Do vậy, để nuôi sống loài ngƣời ngày càng đông
đúc, thì ở các nƣớc đang phát triển ngƣời ta phải đi theo hai hƣớng là tăng năng
suất cây trồng và diện tích đất canh tác, sử dụng kỹ thuật tiên tiến và phân bón
hợp lí...
Trên thế giới trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình sản xuất, con ngƣời đã
có phƣơng thức canh tác phù hợp với từng đối tƣợng cụ thể. Vào cuối thế kỷ 19,
hệ thống Taungaya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanma dƣới sự bảo hộ của
thực dân Anh. Trong các đồn điền trồng cây gỗ Tếch, ngƣời lao động đƣợc phép
trồng cây lƣơng thực giữa các hàng cây chƣa khép tán để giải quyết nhu cầu
lƣơng thực hàng năm. Phƣơng thức này sau đó đƣợc áp dụng rộng rãi ở Ấn Độ
và Nam Phi.
Trong vòng thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, dƣới sự bảo trợ của Nhóm
tƣ vấn về Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR), nhiều Trung tâm nghiên
cứu nông nghiệp Quốc tế đƣợc thành lập ở nhiều khu vực trên thế giới nhằm
nghiên cứu nâng cao năng suất của các loại cây trồng và vật nuôi của vùng nhiệt
đới. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chỉ tập trung nghiên cứu các loại cây trồng
4
riêng rẽ trong khi thực tế lại canh tác một cách tổng hợp: Trồng xen các loại cây
nông nghiệp khác nhau, cây ngắn ngày với cây gỗ dài ngày...
Từ đầu thập niên 70, chính sách phát triển của Ngân hàng thế giới (WB)
đã bắt đầu chú ý hơn các vùng nông thôn nghèo cùng với sự tham gia của nông
dân vào các chƣơng trình phát triển nông thôn.
Trong chƣơng trình Lâm nghiệp xã hội của WB trong năm 1980 không
chỉ chứa đựng nhiều yếu tố của nông lâm kết hợp mà còn thiết kế trợ giúp nông
dân thông qua sản xuất lƣơng thực, thực phẩm bảo vệ môi trƣờng và phát huy
các lợi ích truyền thống của rừng. Trong thời gian này, bên cạnh phát triển nông
nghiệp, FAO đặc biệt nhấn mạnh vai trò của lâm nghiệp trong phát triển nông
thôn, khuyến cáo các nông dân và nhà nƣớc chú trọng đến lợi ích của rừng và
cây thân gỗ, khuyến cáo các nhà quản lí sử dụng đất kết hợp cả nông nghiệp và
lâm nghiệp vào hệ thống canh tác của họ.
2.2. Ở Việt Nam
Cũng nhƣ nhiều Quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông
lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời. Đây là những xã có thu nhập bình
quân đầu ngƣời lao động từ 150 - 200 USD/năm và là những vùng có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số có đời sống, dân trí chƣa cao và hơn 80% thu nhập
của ngƣời dân phụ thuộc vào đất canh tác nông nghiệp. Hệ thống giao thông
chậm phát triển, có nhiều nơi ô tô chƣa đến đƣợc trụ sở ủy ban nhân dân xã. Tỉ
lệ nhà tranh, tre lên đến 70%. Nhiều nơi nhƣ những vùng cao núi đá tỉnh Cao
Bằng, Sơn La, Điện Biên ngƣời dân còn đói. Phƣơng thức canh tác còn lạc hậu
nên năng suất, Sản lƣợng đạt đƣợc trên một số đơn vị diện tích thấp, dẫn đến
tình trạng mặc dù diện tích canh tác nƣơng rẫy lớn những vẫn không đủ ăn. Khả
năng tiếp cận thông tin khoa học công nghệ còn thiếu thốn, thiếu vốn đầu tƣ cho
canh tác, thiếu hiểu biết về môi trƣờng và pháp luật, do sự phân hóa của các
vùng miền ngày càng lớn. Hình thức canh tác chủ yếu là trồng cây lƣơng thực
nhƣ lúa, ngô, khoai , sắn. Các hình thức làm nƣơng rẫy gồm:
- Nƣơng rẫy cố định ( Chiếm 65 - 70% )
+ Nƣơng rẫy làm một vụ ( Chiếm khoảng 55 - 60 % )
5
+ Nƣơng rẫy làm hai vụ ( Chiếm khoảng 40 - 45%)
+ Loài cây trồng (ngô, khoai, sắn, lúa nƣơng, rong, riềng...)
- Nƣơng rẫy không định ( chủ yếu là trồng lúa nƣơng, ngô, chiếm 3035%).
Cơ cấu cây trồng trong tác nƣơng rẫy đƣợc tổng hợp nhƣ sau: Cây cung
cấp lƣơng thực nhƣ ngô, khoai, sắn chiếm 70% diiện tích, trong đó lúa nƣơng
chiếm 30 - 45% toàn bộ diện tích nƣơng rẫy. Diện tích sử dụng việc gây trồng
những nhóm cây còn lại là: Rau và đậu các loại chiếm 60%; Cây công nghiệp
ngắn ngày chiếm 8%; cà phê và chè chiếm 4%; còn lại là nhƣng loại cây khác
chiếm 12%.
Trung bình diện tích làm nƣơng rẫy tại các tỉnh vùng núi cao chỉ canh tác
đƣợc 1,5 vụ/năm. Năng suất bình quân 3,6 tấn/năm có vùng nhƣ Tây Bắc nắng
suất lúa nƣơng chỉ đạt trung bình 1,1 tấn /ha/vụ và lƣơng thực bình quân đầu
ngƣời còn thấp: Gạo đƣợc 146/ngƣời/năm, ngô đƣợc 56 kg/ngƣời/năm.
Do tình trạng dân số tăng cao trong những năm 60 - 70 của thế kỷ
trƣớcdẫn đến tình trạng đất đai bình quân đầu ngƣời dân giảm đi một cách nhanh
chóng. Chính vì lý do dân số tăng dẫn đến diện tích nƣơng rẫy ngày càng đƣợc
sử dụng với cƣờng độ cao hơn. Trƣớc đây chu kỳ luân canh có thể từ 5 - 8 năm
nay. luân kỳ sử dụng đất bị rút ngắn một cách đáng kể, chỉ còn từ 2 - 3 năm.
Việc rút ngắn luân kỳ sử dụng đất dẫn đến tình tình trạng độ phì của đất không
có thời gian và khả năng phục hồi tự nhiên. Việc sử dụng quá mức tài nguyên
đất đai là tài nguyên chính làm cho đất đai ngày càng thoái hóa, nghèo kiệt, năng
suất cây trồng ngày càng giảm. Trong khi đó nhu cầu lƣơng thực ngày càng
tăng, do vậy luân kỳ công tác ngày càng bị rút ngắn. Đây là vòng luẩn quẩn của
phƣơng thức canh tác nƣơng rẫy, dẫn đến tình trạng thiếu lƣơng thực ngày càng
trầm trọng và tình trạng nghèo đói ở các địa phƣơng vùng núi cao.
Theo số liệu thống kê năm 2004 , diện tích nƣơng rẫy của đồng bào dân
tộc ít ngƣời thuộc các tỉnh vùng núi cao là 1,2 triệu ha, phân bố rộng trên các
dạng địa hình có độ dốc trên 160 và độ cao từ 300m trở lên; tập trung chủ yếu ở
vùng trung du miền núi Bắc Bộ, đây là diện tích nƣơng rẫy đƣợc qui hoạch cho
6
đất lâm nghiệp, nằm trên những diện tích có độ dốc tƣơng đối lớn (trên 160 ).
Nên việc canh tác của ngƣời dân trở nên rất khó khăn mặt khác do trình độ dân
trí của đồng bào vùng cao việc tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến còn hạn
chế. Hầu hết họ canh tác theo lối quảng canh và không chú ý đến hiệu quả sử
dụng đất nên làm nƣơng rẫy thƣờng bị xói mòn mạnh, sức sản xuất của đất giảm
làm cho diện tích đất trống đồi núi trọc tăng lên. Từ đó ảnh hƣởng nghiêm trọng
đến môi trƣờng xung quanh đặc biệt là môi trƣờng đất và nƣớc.
Kiến thức bản địa cổ truyền là nguồn tài nguyên quan trọng của các Quốc
gia. Nó giúp cho con ngƣời tìm ra những giải pháp bảo vệ môi trƣờng và duy trì
các hệ sinh thái bên vững.
Kiến thức bản địa đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ở nhiều
cộng đồng kiến thức bản địa chỉ truyền khẩu nhƣng đã đƣợc tôn trọng đặc biệt.
Theo Ngô Đức Thịnh (1996) mọi sự phát triển đều phải đảm bảo tính kế thừa và
liên tục, mọi cộng đồng đều phải đi lên từ truyền thống vốn có của bản thân
mình.
Theo Hoàng Bính và Hoàng Xuân Tý (1998) thì ngƣời Thái Sơn La phân
loại đất canh tác theo mục đích sử dụng và hệ thống phân loại đất canh tác theo
địa chung, bằng cây chỉ thị nhằm xác định cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng
loại đất đai.
Theo Lê Trọng Cúc (1998), các kỹ thuật truyền thống có khả năng thích
ứng cao với điều kiện môi trƣờng tự nhiên, cũng nhƣ tập quán xã hội nơi sản
sinh ra chúng. Việc gắn kết kỹ thuật địa phƣơng với kỹ thuật hiện đại là phƣơng
pháp tốt nhất để ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào nông thôn miền núi.
Trong nhƣng năm gần đây Đảng và Chính phủ đã có những hỗ trợ ngƣời
dân vùng cao canh tác nông lâm nghiệp thay thế canh tác nƣơng rẫy truyền
thống cũ lạc hậu. Tuy nhiên tình trạng phát, đốt nƣơng làm rẫy vẫn thƣờng
xuyên xảy ra làm cho đất trở nên nghèo kiệt và làm một diện tích khá lớn rừng
bị cháy, ảnh hƣởng xấu đến tác động môi trƣờng và đa dạng sinh thái rừng Việt
Nam.
Một vài đặc điểm về ngƣời Thái ở Chiềng Bằng - Quỳnh Nha i- SơnLa
7
Ngƣời Thái sinh sống ở đây chủ yếu thuộc nhóm Thái đen.
* Dân số: 6.369 ngƣời (tháng 3 năm 2013)
* Lịch sử: Ngƣời Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên
xa xƣa có mặt tại Việt Nam rất sớm.
* Họat động sản xuất: Canh tác lúa nƣớc, canh tác nƣơng rẫy, chăn nuôi
nhỏ lẻ quy mô gia đình, mang tính chất tự cung, tự cấp là chính. Họ làm ruộng
cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang hai vụ lúa vụ lúa tẻ, làm nƣơng để trồng
thêm lúa và hoa màu, cây thực phẩm cây thuốc nhuộm để dệt vải.
* Ăn: Ngày nay gạo tẻ trở thành lƣơng thực chính, gạo nếp vẫn đƣợc coi
là lƣơng thực truyền thống. Gạo nếp ngâm bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi.
Trên các mâm ăn không thể thiếu các món ớt giã hòa muối, tỏi, có mùi rau
thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nƣớng... gọi
chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loại nhai lại thì buộc phải có
nƣớc nhúng lấy từ long non làm nậm pịa. Thịt cá tƣơi thì làm món nộm,
nhúng(lạp, cỏi), ƣớp muối, thính làm mắm; ăn chính thích hợp nhất phải kể đến
các món chế biến từ cách nƣớng, lùi, đồ, sấy, sau mới đến canh, xào, rang,
luộc... Họ ƣa thích các vị: Cay, chua, đắng, chát, bùi ít dùng các món ngọt, lợ,
đậm, nồng ... hay uống rƣợu cất. Ngƣời Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre,
nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô.
* Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn đủ màu sắc đính hàng
khuy bạc hình bớm, nhện, ve sầu... chạy trên đƣờng nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn
nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng vải lụa màu xanh lá
cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có vận thêm áo dài đen, xẻ nách
hoặc kiểu chui đầu. Nữ thái đen đội khăn piêu nổi tiếng với các hình hoa văn
thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam giới mặc kiểu chân què có cạp để thắt lƣng; áo
cánh xẻ ngực có ở hai bên gấu vạt. Màu quần áo chủ yếu là màu đen, có thể màu
gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có
một lần áo trắng, tƣơng tự để mặc lót. Bình thƣờng cuốn khăn đen theo kiểu mỏ
rìu. Khi vào lễ cuốn khăn dài một sải tay.
8
* Ở: Nhà sàn, bốn mái mặt hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà
sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp long.
* Phƣơng tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra là gùi chằng dây
đeo vắt qua trán, dùng, ngựa cƣỡi, thồ.
* Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền gọi là bản. Tông tộc Thái gọi là
Đẳm. Mỗi ngƣời có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải noọng (Tất cả thành viên
sinh nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời); Lung Ta (Tất cả các thành viên nam
thuộc họ ngƣời đến làm rể).
* Cƣới xin: Trƣớc kia ngƣời Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể,
nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bƣớc, trong đó hai bƣớc cơ bản:
- Cƣới lên (Đong khửu): Đƣa rể lên cƣ trú nhà vợ, là bƣớc thử thách phẩm
giá, lao động của chàng rể. Ngƣời Thái đen có búi tóc ngƣợc lên đỉnh đầu cho
ngƣời vợ ngay sau lễ cƣới này.
- Cƣới xuống (Đong long ): Đƣa gia đình chở về với họ cha.
* Ma chay: Lễ tang có hai bƣớc cơ bản.
- Pông: Phúng viếng đƣa tiễn hồn ngƣời chết lên cõi hƣ vô, sau đó thiêu.
- Xống : Đƣa đồ tang lễ ra bãi tha ma và kết thúc bằng lễ gọi ma trở về
ngụ tại gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
* Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm củi đốt lửa ở bếp
mới. Ngƣời ta thực hiện nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác, thu điều
lanh, cúng tổ tiên, vui chơi.
9
Chƣơng III
ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng và địa điẻm nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao kỹ thuật canh tác
nƣơng rẫy gắn với bảo vệ môi trƣờng cho cộng đồng ngƣời Thái xã Chiềng
Bằng - Huyện Quỳnh Nhai - Tỉnh SơnLa.
3.1.2. Địa Điểm nghiên cứu: Xã Chiềng Bằng - Quỳnh Nhai
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm nâng cao kiến thức trong kỹ thuật
canh tác nƣơng rẫy gắn với bảo vệ môi trƣờng cho cộng đồng ngƣời Thái tại địa
phƣơng.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Để đạt đƣợc mục tiêu trên đề tài sẽ tiến hành một số nội dung nghiên
cứu sau:
3.3.1. Nghiên cứu kiến thức bản địa trong canh tác nương rẫy và bảo vệ
môi trường.
3.3.1.1. Mức độ sử dụng các kỹ thuật bản địa vào canh tác
3.3.1.2. Kỹ thuật bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi
trường
3.3.1.3. Các hệ canh tác tại khu vực nghiên cứu
3.3.1.4. Tập quán chăn nuôi
3.3.1.5. Sự phối giới
3.3.2. Nghiên cứu hiện trạng sử dụng đất và công tác quản lý nương
rẫy tại xã Chiềng Bằng.
- Các loại hình sử dụng đất.
- Công tác quản lý nƣơng rẫy.
3.3.3. Đánh giá hiệu qủa của hệ thống cây trồng đến đời sống và môi
trường xung quanh.
10
3.3.3.1. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và tiềm năng của khu vực.
3.3.3.2. Đánh giá hiệu quả của loại hình sử dụng đất.
3.3.3.3. Đánh giá và lựa chọn cây trồng.
- Cây lâm nghiệp
- Cây ăn quả.
- Cây màu.
- Cây lúa.
- Cây công nghiệp dài ngày.
3.3.3.4. Đề xuất các giải pháp để nâng cao kiến thức canh tác nương rẫy
gắn với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững cho cộng đồng người Thái xã
Chiềng Bằng.
3.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp thu thập thông tin.
- Phƣơng pháp ghi chép.
- Phƣơng pháp PRA, RRA.
- Phƣơng pháp khảo sát.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phƣơng pháp chuyên gia.
3.4.1. Điều tra ngoại nghiệp
- Điều tra về phong tục, tập quán
- Điều tra về thu nhập kinh tế hộ gia đình.
- Mô hình canh tác nƣơng rẫy, sử dụng lâm sản, quản lí và bảo vệ rừng.
Quá trình điều tra đƣợc tiến hành theo các phƣơng pháp sau:
3.4.1.1. Phương pháp thu thập thông tin:
Kế thừa và thu thập các tài liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế từ
cơ cấu tổ chức đã nghiên cứu và từ chính quyền địa phƣơng, gồm có:
- Thông tin về kinh tế xã hội: Tài liệu về dân số, văn hóa, giáo dục, y tế,
cơ sở hạ tầng.
11
- Thông tin về điều kiện tự nhiên: Tài liệu về địa lí, thổ nhƣỡng, khí tƣợng
thủy văn, các bản đồ và các tài liệu khác có liên quan.
3.4.1.2. Phương pháp PRA, RRA:
Pháp hiện ra các mô hình canh tác, các loại cây trồng, vật nuôi phổ biến
bằng phƣơng pháp PRA, RRA với trình tự nhƣ sau:
Bước 1: Tìm hiểu khái quát khu vực xã Chiềng Bằng.
Gặp gỡ lãnh đạo nhằm:
- Trình bày mục tiêu yều cầu của nhóm nghiên cứu.
- Tìm hiểu khái quát tình hình của xã nhƣ:
+ Diện tích: Tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp.
+ Dân sinh: Dân số, hệ thống y tế, giáo dục, thu nhập…
+ Sản xuất nông lâm kết hợp: Các mô hình đã áp dụng tại địa phƣơng, cơ
cấu cây trồng, vật nuôi…
Bước 2: Khảo sát sơ bộ hiện trường để lựa chọn điểm nghiên cứu.
Sau khi đã có một số thông tin ban đầu do lãnh đạo xã cung cấp, tiến hành
khảo sát một số bản điểm nhằm quan sát và kiểm tra lại những thông tin đã đƣợc
cung cấp. Những số liệu thu đƣợc phải ghi chép lại vào sổ tay chi tiết để chuẩn
bị cho bƣớc phỏng vấn và thảo luận với ngƣời cung cấp thông tin hay các hộ gia
đình.
Quan sát các loại hình canh tác chủ yếu, các loại cây trồng, quan sát xem
ngƣời dân làm gì và làm nhƣ thế nào?
+ Chọn bản điểm điều tra: Tiến hành chọn 6 bản có cộng đồng ngƣời Thái
sinh sống để điều tra phỏng vấn. Gồm có: Bản Bó Ban, Bản Huổi Quổy, Bản
Huổi Púa, Bản Co Trặm, Bản Co Hả, Bản Bung.
+ Chọn các cá nhân phỏng vấn: Thƣờng cán bộ nông – lâm nghiệp, cán bộ
địa phƣơng…
Bước 3: Khảo sát trên diện rộng.
Xây dựng các bản câu hỏi để phỏng vấn hộ gia đình.
12
Công việc khảo sát đƣợc tiến hành tại các buổi trao đổi với cán bộ địa
phƣơng, tại các hộ gia đình, trên đồng ruộng, trên nƣơng…
Thời gian phải thuận lợi cho ngƣời dân nhƣ vào buổi trƣa.
Để phỏng vấn có hiệu quả cần đƣa ra những câu hỏi dễ hiểu để đạt đƣợc
sự giải thích và quan điểm của từng cá nhân, ghi chép cẩn thận vào mẫu biểu,
kiểm lại tính thực tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp.
Bước 4: Phân loại hệ thống cây trồng canh tác.
Bằng phƣơng pháp lập bảng cho điểm với kết quả đánh giá tiêu chí cao
nhất là 10 điểm, thấp nhất là 0 điểm. Phƣơng pháp cho điểm là một biểu mà
hàng trên là tên các loại cây trồng chủ yếu ở địa phƣơng, cột bên trái là ghi các
tiêu chí đánh giá cây trồng và mô hình canh tác, các ô, các hàng còn lại để ghi
kết quả đánh giá. Hàng cuối cùng để ghi tổng số điểm.
Bước 5: Phân tích lịch mùa vụ.
Nhằm cung cấp khá chi tiết thông tin về các yếu tố trong thôn bản nhƣ
lịch gieo trồng các loại cây chính, các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, lịch
sử dụng lao động, lịch chăm sóc…
3.4.2. Công tác nội nghiệp
- Xác định phong tục tập quán canh tác có ảnh hƣởng gì đến môi trƣờng
xung quanh.
Tổng hợp các số liệu về thu thập để đánh giá hiệu quả kinh tế một số mô
hình canh tác.
- Xử lí các số liệu đã thu thập đƣợc.
- Lựa chọn những giải pháp ƣu tiên vừa góp phần nâng cao kiến thức canh
tác vừa đảm bảo môi trƣờng không bị ô nhiễm.
Trong công tác nội nghiệp tiến hành theo một số phƣơng pháp sau:
3.4.2.1. Phương pháp tổng hợp và xử lí số liệu
- Xử lí và phân tích thông tin đƣợc tiến hành bằng máy tính.
- Tập hợp những thuận lợi khó khăn đƣợc tiến hành trong quá trình phỏng
vấn.
13
- Từ bảng điểm đánh giá về một số loại cây trồng kết hợp với thực tiễn để
rút ra nhận định chung nhất cho một loại cây trồng .
3.4.2.2. Phương pháp chuyên gia
- Nhằm điều chỉnh và hoàn thiện những giải pháp đã đƣợc hình thành sau
khi phân tích tài liệu ngoại nghiệp.
14
Chƣơng IV
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
4.1.1. Vị trí địa lí, ranh giới
Xã Chiềng Bằng là xã vùng I của huyện Quỳnh Nhai, Xã nằm ở phía đông
nam của huyện Quỳnh Nhai, cách thị xã Sơn La 60km, cách huyện Quỳnh Nhai
1km. Có vị trí địa lí cụ thể sau:
- Phía bắc giáp xã Chiềng ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Phía đông giáp xã Mƣờng Sại, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Phía tây giáp Mƣờng Giàng, huyện Quỳnh Nhai và xã Phổng Lái huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
- Phía nam giáp xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, Sơn La.
Xã Chiềng Bằng đƣợc chia thành 25 bản, dân số toàn xã có 1.293 hộ, với
6.369 nhân khẩu. Toàn xã có 3 dân tộc anh em cùng sinh sống chủ yếu là dân
tộc Thái chiếm 90% là dân sở tại còn lại là dân tộc Kinh chiếm 3% và Kháng
chiếm 7% là dân nhập cƣ.
4.1.2. Diện tích tự nhiên
Tổng diện tích tự nhiên xã Chiềng Bằng là: 4078,1 ha.
4.1.3. Địa chất
Địa chất chủ yếu gồm 2 loại:
- Nhóm đá Macma axit gồm có: Granit, Liparit.
- Nhóm đá axit và đá biến chất: Phiến sét, phiến thạch biến chất và Sparit.
4.1.4. Đất đai
- Đất đai đƣợc hình thành chủ yếu trên đất Feralit phát triển trên đá sa
thạch và phiến thạch sét.
4.1.5. Khí hậu
Xã Chiềng Bằng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ
rệt trong năm.
15
- Mùa khô từ tháng 10 năm trƣớc đến tháng 3 năm sau, cuối tháng 12 năm
trƣớc đến tháng 3 năm sau thƣờng xen kẽ gió tây nam khô nóng và thƣờng xuất
hiện sƣơng muối.
- Mùa mƣa thƣờng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9 trong năm, đặc điểm
khí hậu mùa mƣa trung bình đạt từ 200mm/ tháng.
- Nhiệt độ trung bình trong năm đạt tối đa là 280C, thấp nhất là 15,5 0C.
- Độ ẩm không khí trung bình đạt 85%.
- Số giờ nắng trung bình đạt 1900 giờ đến 1960 giờ/ năm.
4.2. Đặc điểm văn hóa xã hội, kinh tế địa phƣơng
4.2.1. Dân số, dân tộc, lao động, phân bố dân cư, tỉ lệ tăng dân số
- Dân số: 6.369 ngƣời.
+ Nam: 3.178 ngƣời.
+ Nữ: 3.191 ngƣời
- Số hộ: 1.293 hộ, Bình quân 4,5 ngƣời/ hộ
- Tỉ lệ tăng dân số còn: 1,2%.
- Phân bố dân tộc của xã Chiềng Bằng đƣợc thể hiện qua bảng (%):
Thái
Kháng
kinh
DT khác
90
6
3
1
- Số lao động từ độ tuổi 14 trở lên là 4.633 ngƣời.
- Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp chiếm 10% diện tích toàn xã.
4.2.2. Tập quán canh tác, sinh họat văn hóa, phong tục địa phương
* Tập quán canh tác:
- Canh tác nƣơng rẫy là chính, với phƣơng thức quảng canh, chƣa thâm
canh, ít sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu để nâng cao năng suất cây trồng, kỹ
thuật chọc lỗ bỏ hạt, cuốc hố bỏ hạt để phát triển tự nhiên dựa vào độ phì có sẵn
của đất, không làm chủ mùa vụ cây trồng, sản xuất bấp bênh, thiếu ổn định,
chƣa áp dụng khoa học tiên tiến. Tự túc, tự cấp trong sản xuất. sản xuất vẫn du
canh, chƣa thâm canh nƣơng rẫy, đây là nguyên nhân chính đƣa tới tình trạng
16
xâm phạm vào rừng nhƣ: Khai thác gỗ, củi, măng, sẵn bắn thú rừng, động vật
đem bán.
- Ngƣời dân khai thác tài nguyên sẵn có từ rừng, việc chăn nuôi phát triển
theo tự nhiên.
* Sinh hoạt văn hóa, phong tục địa phương:
- Trong xã tỉ lệ ngƣời Thái cao nhất, ít nhất là dân tộc Kinh. Ngƣời Thái ở
nhà sàn kiên cố, nhà bố trí ngăn nắp gọn gàng. Ngƣời kháng cũng ở nhà sàn
nhƣng cấu trúc đơn giản hơn. Ngƣời kinh chủ yếu là dân nhập cƣ từ dƣới xuôi
lên làm ăn sống ở nhà đất, mái thấp thể hiện cuộc sống không ổn định lâu dài.
- Sinh hoạt văn hóa: Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng.
4.2.3. Tình hình kinh tế địa phương
* Các hoạt động kinh tế:
- Kinh tế chậm phát triển, mang tính tự cung, tự cấp, canh tác lạc hậu
(quảng canh), canh tác lúa nƣớc, nƣơng rẫy.
- Chăn nuôi gia súc, gia cầm ở qui mô gia đình.
- Trồng cây công nghiệp, kinh tế đồi rừng hạn chế.
* Thu nhập, đời sống:
- Thu nhập lƣơng thực bình quân đầu ngƣời 180kg/năm; thu nhập trồng
trọt và chăn nuôi bình quân đầu ngƣời 2triệu/năm.
- Tỉ lệ hộ nghèo trong xã vẫn còn.
* Những tác động bất lợi đến rừng:
- Địa hình phức tạp, nƣớc sinh hoạt, sản xuất khó khăn, ruộng nƣớc canh
tác ít, chăn nuôi hạn chế, để bù đắp thiếu hụt này cộng đồng đã khai phá, đốt
nƣơng làm rẫy, đặc biệt là những vùng rừng già cây tốt.
- Sức ép tăng dân số, nhu cầu đời sống thị trƣờng dẫn đến khai thác gỗ,
khai thác lâm sản, săn bắt thú rừng, đốt nƣơng làm rẫy... hiện tƣợng cháy rừng
thƣờng xuyên xảy ra.
4.2.4. Giáo dục, y tế
*Giáo dục: Xã có 2 trƣờng THPT, 2 trƣờng Tiểu học, 2 trƣờng Mầm non
và các bản đều có lớp mầm non cắm tại bản.
17
* Y tế: Trạm y tế xã có 3 y sỹ, 1 Bác sỹ, 2 nữ hộ sinh, 1 cán bộ chuyên
trách dân số, có 2 phòng khám, 1 phòng hành chính, 1 phong tƣ vấn, 2 phòng
bệnh nhân, 1 phòng trực, 1 phòng dƣợc, các bản đều có nhân viên y tế bản hoạt
động 25/25 bản.
4.2.5. Tình hình sử dụng đất đai, tài nguyên
Theo quyết định 08/2001/TTg ngày 11/1/2001 của Thủ tƣớng Chính phủ
về việc ban hành qui chế rừng đặc dụng, thì xã có 766,24ha. Nằm trong đất quy
hoạch phòng hộ. Các cộng đồng dân tộc ở đây vẫn đốt nƣơng làm rẫy, du canh,
du cƣ, khai thác rừng bừa bãi, chƣa hợp lí dẫn đến diện tích và chất lƣợng rừng
suy giảm.
4.3. Tài nguyên
Diện tích tự nhiên là: 4078,1ha.
Trong đó:
- Diện tích đất quy hoạch rừng phòng hộ là: 1128,24ha.
- Diện tích đất rừng đặc dụng là: 766,24ha.
- Diện tích thuộc khu phục hồi sinh thái là: 2153,32ha
4.3.1. Thảm thực vật rừng
- Kiểu thảm thực vật rừng kín thƣờng xanh Á nhiệt đới núi thấp
- Kiểu thảm thực vật rừng kín thƣờng xanh Á nhiệt đới núi thấp hỗn giao
cây lá rộng và cây lá kim: Thông nàng, kim giao, Sến, Sối đá, Re, họ đậu, Mộc
lan...
- Kiểu thảm thực vật rừng thứ sinh nhân tác kín thƣờng xanh Á nhiệt đới
núi thấp sau tác động của con ngƣời.
- Kiểu rừng kín thƣờng xanh ẩm nhiệt đới núi thấp: Họ Dẻ, Thầu dầu,
Long não, Trám...
- Tầng ƣu thế sinh thái: Họ côm, Hai mảnh vỏ, Ngái, Chẻo, Trâm ...
- Kiểu phụ nhân tác rừng kín thƣờng xanh ẩm nhiệt đới núi thấp.
- Kiểu phụ nhân tác rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới phục hồi sau
nƣơng rẫy.
- Kiểu thảm thực vật: Tre, Giang, Nứa xen cây gỗ.
18
- Trảng cỏ cây bụi gỗ thứ sinh phân tán.
4.3.2. Hệ thực vật rừng
Có 5 ngành thực vật, với 156 họ, 424 chi và 639 loài.
4.3.3. Hệ động vật rừng
- Lớp thú có: 21 loài.
- Lớp chim có: 22 loài.
- Lớp bò sát có: 10 loài.
Lớp ếch nhái có: 1 loài.
Theo nghị định 48/2002/NĐ - CP của Chính phủ có 46 loài đặc hữu quý
hiếm chiếm 18,25%.
19
Chƣơng V
KẾT QỦA NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
5.1. Kiến thức bản địa trong canh tác nƣơng rẫy và bảo vệ môi
trƣờng của cộng đồng ngƣời Thái xã Chiềng Bằng.
Nƣơng rẫy là loại hình canh tác phổ biến của cộng đồng ngƣời Thái ở
vùng cao, từ lâu đời nay ngƣời Thái đã phát, đốt nƣơng làm rẫy để trồng cây
lƣơng thực xen lẫn các cây lâm nghiệp..., nguồn thu nhập canh tác nƣơng rẫy đã
đáp ứn
g 50 - 70% nhu cầu đời sống ngƣời dân.
Tại xã Chiềng Bằng - Quỳnh Nhai - Sơn La là nơi sinh sốngchủ yếu của
nhóm ngƣời Thái đen, với những phong tục, tập quán đặc trƣng. Theo thống kê
xã Chiềng Bằng có 25 bản, trong đó có 22 bản là ngƣời Thái sinh sống ngoài ra
còn có cộng đồng ngƣời Kinh, kháng ...
5.1.1. Mức độ sử dụng các kỹ thuật bản địa vào canh tác
5.1.1.1. Kỹ thuật làm nương rẫy
Cộng đồng ngƣời Thái xã Chiềng Bằng chủ yếu là canh tác nƣơng rẫy,
tuy nhiên canh tác chỉ diễn ra vào mùa mƣa, còn mùa khô họ lại đi vào rừng
kiếm củi, sẵn bắn chim thú để tạo thêm nguồn thu nhập cho gia đình.
Thời gian phát rẫy tập trung vào tháng 12 và tháng 1, sau khi phát rẫy
xong thực bì đƣợc dải đều trên rẫy, những cây to đƣợc để lại, cây nhỏ thì đốt và
thực hiện đốt trắng.
Khi đốt rẫy ngƣời dân cũng ý thức đƣợc việc phòng cháy rừng nhƣ đốt
theo chiều gió, đốt từ trên cao xuống và khi họ rẫy thƣờng chọn ở khu rừng già
có nhiều loài cây, vì họ quan niệm rằng nơi nào càng rậm rạm thì ở đó đất càng
tốt. Tại những mảnh đất khu vực này ngƣời Thái chủ yếu trồng lúa nếp nƣơng
địa phƣơng theo phƣơng thức chọc lỗ tra hạt, tuy nhiên tỷ lệ và diện tích canh
tác theo hình thức này còn rất ít.
20
Qua điều tra cho thấy: Tháng 2 bắt đầu cuốc đất, tháng 4 (bắt đầu mùa
mƣa) thì chọc lỗ tra hạt và đến tháng 8 - 9 thu hoạch. Trong thời gian chăm sóc
làm cỏ 3 lần.
Ở những chỗ địa hình bằng phẳng thì họ dùng cuốc hoặc cày ải làm tơi
đất trƣớc khi trồng và ở khu vực này họ thƣờng trồng lúa nƣớc, nƣớc đƣợc lấy
từ các khe suối về qua các máng bằng tre và sử dụng kỹ thuật làm ruộng bậc
thang. Trồng lúa nƣớc một năm có hai vụ, vụ chiêm xuân thƣờng hết ngày 10/3
là trồng xong, đến cuối tháng 7 thì thu hoạch sau đó chuyển sang cấy lúa mùa.
Ngoài ra đất để trồng các cây lƣơng thực ngắn ngày trên nƣơng thì vào
cuối tháng 2 đầu tháng 3 cũng cuốc ải đất, dụng cụ chủ yếu là cuốc. Thƣờng ngô
và sắn cuối tháng tƣ phải trồng xong, đầu tháng 5 là rẫy cỏ, và chỉ trồng
1vụ/năm đến tháng 8 - 9 thu hoạch.
5.1.1.2. Kỹ thuật bảo quản hạt giống
Sau khi thu hoạch chọn lấy hạt tốt nhất treo lên gác bếp, vụ sau đem
trồng. Để bảo quản giống lúa tốt họ thƣờng chọn hạt chắc (sàng, sẩy kĩ), phơi
khô và đóng bao kín đến trƣớc khi cấy thì cho lên gác bếp 3 - 4 ngày. Cây sắn
thƣờng họ để cây sống ở trên nƣơng, khi trồng thì chặt khúc. Với cách làm nhƣ
vậy ngƣời thái gữi đƣợc nhiều giống tốt và duy trì cây trồng qua nhiều năm. Tuy
nhiên có một số ngƣời chỉ gữi hạt trong nilon, không bảo quản tốt nên dễ bị
hỏng.
5.1.1.3. Nguồn giống
Giống lúa bao gồm có giống lúa địa phƣơng (nếp bong, tam chiêm..),
thƣờng năng suất thấp, chủ yếu là sử dụng lúa lai`Trung Quốc 82, 83, lúa 63,
nếp 87 thƣờng cho năng suất cao, trung bình là 180kg thóc/ngƣời/năm. Ngô tẻ
thì mua giống có sẵn thƣờng là giống Ngô lai 10 Đan phƣợng - Hà Tây giá thành
hợp lí và cho năng suất cao, sau đó là Ngô lai 10 Chiềng Sung - Sơn La, còn
giống Ngô lai 10 miền Nam giá khá cao và ít ngƣời dân mua. Ngô nếp thì nguồn
giống chủ yếu đƣợc cất trữ từ các vụ thu hoạch trƣớc. Trong xã đƣợc sự đầu tƣ
về giống và vốn cho ngƣời dân nhƣ Chƣơng trình xóa đói giảm nghèo, Dự án
nuôi cá lồng, Dự án nuôi bò, lợn, vịt, gà.
21
5.1.1.4. Kỹ thuật sử dụng phân bón
Qua phỏng vấn một số hộ gia đình cho thấy việc đầu tƣ phân bón cho cây
trồng là rất ít, thƣờng sắn thì không bón phân chỉ bón cho ngô và lúa ruộng. Mỗi
năm bón phân NPK cho ngô và lúa ruộng khỏang 5 tạ ( tƣơng đƣơng 1,5 - 2
triệu đồng/năm). Cứ 10kg hạt giống ngô tẻ đầu tƣ 2 - 3 tạ phân, bón nhiều nhất
là 2 lần, lần đầu tiên thì bón đót và khi cây đã lên 4 - 5 lá thì bón một lần nữa,
riêng với ngô nếp thì trồng thƣa hơn (70cm một gốc, mỗi gốc 3 hạt) và cũng bón
lót. Với lúa thì hòa thêm đạm cộng NPK.
Họ còn cho biết: Trên nƣơng canh tác thời gian đầu cũng dùng thuốc diệt
cỏ nhƣng thấy cỏ không chết triệt để, phải làm lại nên dần dần cũng bỏ qua mà
chủ yếu dùng sức ngƣời để hạn chế cỏ dại. Ngoài ra ngƣời dân còn sử dụng
thuốc trừ sâu cho lúa, và cắt cây xanh vứt vào ruộng làm phân ( cây chó đẻ, cây
Pnăng, Plong ).
5.1.2. Kiến thức bản địa trong quản lí tài nguyên thiên nhiên và môi
trường
Đóng vai trò chính trong quản lí và bảo vệ rừng tại khu vực là cán bộ
Kiểm lâm viên, các cán bộ xã, trƣởng bản. Tuy nhiên mức tổ tham gia vào quản
lí bảo vệ rừng còn kém do trình độ cũng nhƣ năng lực còn hạn chế. Các thành
viên trong bản đều có quyền lựa chọn một vài khoảnh rừng để canh tác theo qui
định của cộng đồng.
Tại xã cùng với qui định về công tác quản lí, bảo vệ rừng do UBND
huyện quy định thì cộng đồng cũng đã có những qui định về quản lí, bảo vệ rừng
theo các hƣơng ƣớc, tục lệ cấm chặt phá rừng, nghiêm cấm chăn thả tự do và đã
có chính sách giao đất, giao rừng cho từng hộ gia đình.
Qua điều tra và phỏng vấn một số hộ gia đình về mức độ hiểu biết trƣờng
cho thấy với kỹ thuật canh tác lạc hậu (quảng canh), đang ngày càng làm cho đất
bị suy thoái và xói mòn. Họ cũng đã nhận thấy đất ngày càng xấu đi, năng suất
cây trồng giảm và họ đã khắc phục bằng cách bỏ hoang khu đất đó từ 2 - 3 năm
mới quay lại làm. Kiểu bỏ hoang này cho thấy một phần có thể cải tạo đƣợc đất
22
vì trong thời gian 2 - 3 năm không có sự tác động cơ giới vào đất nhƣng lại xảy
ra tình trạng ngƣời dân thiếu đất canh tác và thu nhập hàng năm giảm.
Nhìn chung kỹ thuật bảo vệ đất chƣa nhiều song cũng đã tiếp cận nhiều
kiến thức bản địa nhập cƣ nhƣ làm ruộng bậc thang, biết tận dụng nguồn phân
chuồng bón cho cây cải tạo đất, cũng đã áp dụng một số mô hình nông lâm kết
hợp.
Ngoài ra trong quá trình làm rẫy, ngƣời Thái chia diện tích nƣơng rẫy làm
nhiều ô nhằm tạo độ bằng tƣơng đối để dễ canh tác và ngăn giữa các ô là tạo bờ
bằng cỏ, cây bụi ô hoặc thân cây hoa màu khi thu hoạch (thân cây sắn). Với cách
làm này đã hạn chế đƣợc dòng chảy bề mặt, tăng lƣợng nƣớc thấm và hạn chế
xói mòn đất.
5.1.3. Các hệ canh tác tại khu vực nghiên cứu
Hệ canh tác là một thuật ngữ đƣợc dùng trong nghiên cứu về quá trình
canh tác. Nó đƣợc hiểu là một hệ thống mà trong đó con ngƣời tiến hành một
phƣơng thức nhất định tạo nên những đặc điểm riêng biệt. Khi mô tả hệ canh tác
ngƣời ta phải kể đến điều kiện lập địa, địa hình, thổ nhƣỡng, cơ cấu cây trồng,
kỹ thuật canh tác...
Qua qúa trình khảo sát điều tra tại khu vực có thể sơ đồ hóa hệ thống canh
tác xã Chiềng Bằng nhƣ sau:
Các hệ canh tác
Hệ canh tác nông nghiệp
Hệ canh tác lâm nghiệp
Hệ canh tác
NLKH
Hệ
Hệ
Hệ
Hệ
Hệ
Canh tác
canh tác
canh tác
canh tác
canh tác
Nông
vƣờn
ruộng
rừng trồng
nghiệp
cây lƣơng
thực
23
Tại khu vực xã thì hệ thống canh tác nƣơng rẫy là chủ yếu, cơ cấu cây
trồng là lúa, ngô, sắn và một số hoa màu khác. Trong đó kinh tế hộ gia đình
chƣa phát triển, sản xuất tự cung, tự cấp, nguồn giống tự túc tùy theo ý thích của
từng hộ gia đình. Hầu nhƣ chế độ canh tác phụ thuộc vào tự nhiên, đất tốt, khí
hậu, thời tiết thuận lợi thì cho năng suất cao, chỉ có một số hộ gia đình kinh tế
khá mới đầu tƣ về vốn.
Nhìn chung sản xuất nông lâm kết hợp chƣa thật sự chú ý ở vùng đất dốc.
Tuy có nhận đƣợc một số mô hình trình diễn nông lâm kết hợp của một số
chƣơng trình đầu tƣ cùng với sự hƣớng dẫn của cán bộ khuyến nông - khuyến
lâm nhƣng do lâu thu đƣợc kết quả, không đáp ứng đƣợc nhu cầu trƣớc mắt về
kinh tế cho ngƣời dân nên ít đƣợc ngƣời dân chấp nhận.
Qua điều tra cho thấy: Khu vực sƣờn và đỉnh đồi: chủ yếu là trồng sắn vì
họ cho biết giá thành sắn rẻ, ít tốn công chăm sóc và hầu nhƣ không bón phân,
năng suất thu đƣợc chủ yếu dựa vào điều kiện thời tiết.
Ngoài ra còn quan sát thấy mô hình trồng cây lƣơng thực ngắn ngày nhƣ
cây ngô, đậu... ở dƣới tán cây cao su.
Chủ yếu là hệ thống vƣờn tạp trong đó trồng cây ăn quả nhƣ: mơ, mận,
nhãn, xoài, vải thiều ... và một số cây lâm nghiệp nhƣ Trám, lát hoa ... nhƣng
hầu nhƣ không đƣợc chăm sóc.
Là hệ thống canh tác ruộng nƣớc kiến trúc theo kiểu bậc thang sẽ hạn chế
đựoc sự xói mòn và cho năng suất lúa cao. Ở một số hộ gia đình sau khi thu
hoạch lúa còn kết hợp nuôi cá rô phi để tăng thêm thu nhập và tận dụng đƣợc
nguồn nƣớc sẵn có. Ngoài khu vực chân đồi thì ở những vị trí gần nguồn nƣớc
ngƣời Thái thƣờng tiến hành trồng ngô và một cây hoa màu khác, xen lẫn các
cây ăn quả (chủ yếu là cây nhãn, xoài, vải thiều... )
5.1.4. Tập quán chăn nuôi
Ngƣời Thái trong địa bàn nghiên cứu chƣa có sự đầu tƣ cho việc chăn
nuôi gia súc, gia cầm. Chăn nuôi chỉ phát triển nhỏ lẻ ở quy mô gia đình nhằm
tăng thêm thu nhập hằng năm cho ngƣời dân. Chủ yếu ngƣời Thái chăn nuôi
24
Trâu, bò, lợn, dê.... mỗi nhà thƣờng nuôi từ 6 - 7 con lợn, 2 - 3 con trâu, bò,
thƣờng thì trâu đƣợc dùng làm sức kéo, bò, dê để bán tăng thêm thu nhập.
5.1.5. Sự phối hợp giới
Ngoài phụ nữ Thái thƣờng phải chịu thiệt thòi hơn so với nam giới, họ ít
hiểu biết xã hội và ít đƣợc học hành hơn. Nữ giới và nam giới đều có quyền lợi
trong việc quản lí và bảo vệ đất đai. Phụ nữ thƣờng đảm nhận các công việc nội
trợ ngoài ra làm một số khâu công việc trên nƣơng nhƣ làm cỏ, gieo hạt, bảo
quản và cất trữ hạt giống, khi thu hoạch thì lấy thân cây (ngô), về làm thức ăn
cho gia súc hoặc thu gom, phơi khô (rơm, rạ), để làm chất đốt. Còn nam giới thì
quan tâm đến các công việc có tính chất bao quát hơn vì họ có điều kiện đi xa,
tiếp cận với nhiều cách làm ăn khác trong xã, trong huyện. Công việc của họ
thƣờng là cuốc đất, lên luống, gieo trồng theo hàng đồng mức và khơi dòng
chảy.
5.2. Hiện trạng sử dụng đất và công tác quản lí nƣơng rẫy
5.2.1. Các loại hình sử dụng đất ở xã Chiềng Bằng
Cơ cấu diện tích một số loại hình sử dụng đất tại xã Chiềng Bằng thông
qua bảng biểu sau:
Tình hình sử dụng đất ở xã Chiềng Bằng - Quỳnh Nhai - Sơn La
STT
1
Loại hình sử dụng đất
Tổng diện tích tự nhiên
4078,1
Diện tích có đất rừng
3281,56
Diện tích phân khu đất quy hoạch phòng hộ
1128,24
Diện tích phân khu phục hồi sinh thái
2153,32
Diện tích đất kinh tế
2
Diện tích (ha)
890
Diện tích đất ruộng nƣớc
22,64
Diện tích đất nƣơng
1200
Nhìn chung một số phần diện tích đất rừng tự nhiên đã bị khai thác
chuyển sang đất nông nghiệp, với địa hình chủ yếu là đất dốc và tập quán canh
tác lạc hậu (quảng canh) của ngƣời dân đã làm cho đất bị xói mòn, rửa trôi mạnh
và giảm độ phì nhiêu của đất. Tuy nhiên để hạn chế tác động này xã đã tiến hành
25