CHÙA PHẬT TÍCH – BẮC NINH
Đến với Du lịch Bắc Ninh du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng ngôi chùa có tên
hiệu là Vạn Phúc, tọa lạc ở sườn phía Nam núi Phật Tích, xã Phật Tích, huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chùa cách Hà Nội khoảng 25 km về phía Đông Bắc.
Khởi nguyên của chùa Phật Tích gắn liền với trung tâm Phật giáo Luy Lâu và sự
du nhập của Phật giáo Ấn Độ gắn liền với nhà sư Khâu-Đà-La. Chùa được dựng
vào khoảng thế kỷ VII-X. Đến thời Lý, chùa được đại trùng tu quy mô, trở thành
một trung tâm Phật giáo Việt Nam bấy giờ. Vào năm 1057, vua Lý Thánh Tông
đã cho dựng cây tháp và đúc pho tượng mình vàng. Vua còn tự tay viết chữ
“Phật” dài 1 trượng 6 thước được khắc vào bia đá.
tham quan chua phat tich, du lich bac ninh
Thời Trần đã cho lập một thư viện lớn trên núi Lạn Kha do danh nho Trần Tôn
làm Viện trưởng để giảng dạy các sinh đồ. Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết
hằng năm vào ngày mồng 4 tháng giêng mở hội xem hoa, nhiều người đến dâng
hương lễ Phật. Chính hội xem hoa này đã dẫn đến câu chuyện lãng mạn “Từ
Thứgc gặp tiên”. Từ năm 1991, Lễ hội Khán hoa mẫu đơn truyền thống vào ngày
mồng 4 Tết Nguyên đán được khôi phục và tổ chức long trọng tại chùa vẫn giữ
được những nét truyền thống từ ngàn xưa.
Năm 1383, vua Trần Nghệ Tông tổ chức thi Thái học sinh ở ngay trong chùa, lấy
đỗ 30 người.
Đời vua Lê Hy Tông, chùa được bà Trần Ngọc Am, đệ nhất cung tần của Thanh
Đô Vương Trịnh Tráng cho xây dựng quy mô tráng lệ vào năm 1686.
Chùa bị chiến tranh phá hủy hoàn toàn vào năm 1947. Năm 1959 và năm 1986,
chùa được dựng lại sơ sài. Năm 1991, chùa được xây dựng lại với kiến trúc đơn
giản hiện có, gồm ngôi chánh điện, nhà Tổ, nhà thờ Thánh Mẫu …
Chùa giữ được nhiều cổ vật điêu khắc thời Lý.
Ở thềm bậc nền thứ hai, có 10 tượng linh thú bằng đá to lớn phủ quỳ trên bệ hoa
sen là : sư tử, voi, trâu, ngựa, tê giác, mỗi loại 2 con đặt đối xứng trước cửa
chùa. Tượng thú có chiều cao trung bình 1,2m, chiều dài từ 1,5m đến 1,8m.
Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục vào ngày 12-12-2007: Chùa
Phật Tích – ngôi chùa có 5 cặp tượng linh thú bằng đá lớn nhất Việt Nam.
Sau ngôi chánh điện, còn một số đấu kê chân tảng. Đặc biệt, có một chân tảng
chạm khắc thật sinh động các nghệ sĩ đang biểu diễn các nhạc khí gồm : sáo
dọc, sáo ngang, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam, đàn tì bà, trống phách. Đó là dàn
nhạc bát âm cổ vào thời Lý. Bát âm là tám chất liệu âm thanh gọi chung cho 8
loại nhạc khí được chế tác bằng 8 chất liệu khác nhau : Thạch (đá, như đàn đá,
khánh đá), Thổ (đất, như trống đất của dân tộc Cao Lan), Kim (sắt, có dây bằng
sắt), Mộc (gỗ, như song loan, mõ), Trúc (hơi thổi, như tiêu, sáo), Bào (nhạc khí
làm bằng vỏ quả bầu, như tính tẩu, đàn bầu), Tì (dây tơ, như đàn nhị, hồ, líu),
Cách (da, như trống cái, trống chầu).
Sau chùa có ao Rồng chữ nhật dài 7m, rộng 5m, sâu 2,2m. Đáy ao có thềm đá
hình bán nguyệt đường kính 3,8m chạm nổi rồng khá lớn và hoa văn sóng nước.
Chùa còn có giếng cổ, dưới đáy có đầu rồng dài 0,53m, rộng 0,20 m, miệng
ngậm ngọc.
Đại đức trụ trì Thích Đức Thiện cho biết chùa mới tìm ra móng ngôi tháp cổ thời
Lý khi thợ đào móng xuống khoảng 3,2m để xây lại ngôi Tam Bảo vào trung tuần
tháng 11 vừa qua. Chùa đã tìm thấy nhiều viên gạch cổ có chữ đề ” Lý gia Đệ
tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”(vua thứ ba đời Lý, năm Long Thụy Thái
Bình thứ 4 xây dựng). Với phần móng tháp dài 9,1m, rộng 2,4m, các nhà khoa
học đoán định ngọn tháp cao khoảng 42m. Nhiều cổ vật quý giá khác cũng được
tìm thấy đó là : 2 phù điêu lá đề bằng đá, mỗi phiến nặng 40kg có chạm trổ hình
rồng chầu, một chiếc đầu rồng bằng đá được chạm hết sức tinh xảo, có bề
ngang 0,5m, cao 0,3m, mảnh 1/4 đài sen bệ tượng Phật và nhiều phù điêu,
mảnh vở có chạm khắc hoa văn.
Vườn sau chùa có 32 bảo tháp của chư Tổ, chư Tăng đã viên tịch từ thế kỷ XVII
đến thế kỷ XX.
Đặc biệt, ở điện Phật, có pho tượng đức Phật A Di Đà ngồi thiền định trên tòa
sen cao 1,85m, kể cả bệ là 2,8m. Đây là một kiệt tác điêu khắc bằng đá thời Lý ở
Việt Nam. Pho tượng đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục
vào ngày 04-5- 2006 : Chùa Phật Tích – địa danh du lịch nổi tiếng với bảo tượng
Phật bằng đá thời Lý lớn nhất Việt Nam.
Chùa còn thờ pho tượng táng một vị thiền sư được một số nhà nghiên cứu ngày
nay cho là tượng táng Thiền sư Chuyết Chuyết đã viên tịch tại chùa. Bảng giới
thiệu “Phục nguyên di hài thiền sư ở chùa Phật Tích” được gắn tại chùa cho biết
vào tháng 4-1991, Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường cùng các nhà khoa học đã bắt đầu
nghiên cứu di hài thiền sư là một người đàn ông chừng 65-70 tuổi, cao 1,50m.
Pho tượng bị những kẻ đi tìm của quý đập vỡ thành 342 mảnh. Các nhà khoa
học đã dùng phương pháp Geraximov, là phương pháp khôi phục lại mặt theo
xương sọ của người Nga. Pho tượng thiền sư đã được phục nguyên từ ngày 1201-1993 đến ngày 01-5-1993 thì hoàn thành. Đây là lần đầu tiên ở nước ta đã sử
dụng thành công phương pháp khoa học không có cốt bằng kim loại hoặc gỗ ở
bên trong, mà chất liệu chỉ bằng sơn ta, mạt cưa, vải màn … Chiều cao tượng
ngồi 67,3cm, nặng 10kg.
Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm
1962.
Cuối năm 2005, Đại đức Tiến sĩ Thích Đức Thiện đã thành lập Trung tâm tu tập
Phật Tích và Quan Âm viện. Chùa đã mở nhiều lớp tin học miễn phí cho học
sinh, đóng góp một phần chương trình phổ cập tin học trong huyện nhà.
Để bảo tồn nhiều di vật thời Lý và tôn tạo ngôi chùa có lịch sử gần 1.000 năm,
từng là một trung tâm giáo dục và văn hóa của Đại Việt, ngày 11-10-2008, Ủy
ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã cùng chùa tổ chức long trọng lễ khởi công trùng
tu, tôn tạo Di tích lịch sử văn hóa chùa Phật Tích với kinh phí khoảng 35 tỷ đồng
do Công ty cổ phần Tu bổ di tích và Thiết bị văn hóa trung ương thi công từ năm
2008 đến năm 2010, gồm : Tứ trụ, gác chuông, tòa Tam Bảo, nhà Tổ Đệ nhất,
phủ Mẫu … theo mẫu kiến trúc chùa Phật Tích thời Lê.
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp
đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được
dát ngoài bằng vàng. Trong gian chính của chùa vẫn đang thờ tượng phật A Di
Đà bằng đá xanh có từ năm 1057.
Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh
chùa đổi tên thành thôn Phật Tích (dấu tích của Phật).. Năm 1071, vua Lý Thánh
Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ “Phật” dài tới 5 m, sai khắc
vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong
buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa
được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn
Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am – đệ
nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa
về tu ở chùa này
Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị
quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947. Khi hòa bình lập lại (1954)
đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo
lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm
1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử – văn hoá
Chùa được kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, sân chùa là cả một vườn
hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc
Am là đệ nhất cung tần của chúaTrịnh Tráng tu ở chùa này nên có câu đối “Đệ
nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương”. Bà chẳng những
có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình
Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất
tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết
công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền
Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất
tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết
công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp
khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ
và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu. Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba
bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng
33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật