Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Trả lời ý kiến cho rằng người nghèo việt nam đang hưởng an sinh xã hội thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.72 KB, 29 trang )

Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội ( ASXH)
1.
2.
3.
4.
5.

Khái niệm
Đặc điểm ASXH
Các bộ phận cấu thành ASXH ở Việt Nam
Các tổ chức liên quan đến ASXH ở Việt Nam
Đối tượng nghèo

Phần 2: Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam
1. Bảo hiểm xã hội
2. Dịch vụ
2.1 . Nhà ở, điện, nước và xử lý rác thải.
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.1.4
2.2

Nhà ở
Điện
Nước sạch
Xử lý rác thải


. Hệ thống giáo dục, đào tạo.
2.2.1. Tình hình đi học
2.2.2. Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi các cấp
2.2.3. Tác động gánh nặng tài chính đè lên vai người nghèo

2.3. Hệ thống chăm sóc y tế
2.3.1 Tỷ lệ điều trị
2.3.2 Tâm lý nhóm người nghèo khi mắc bệnh
2.3.3. Những rào cản tiêu cực khiến người nghèo khó tiếp cận hệ thống y tế
2.3.4 Công bằng y tế

3. Trợ cấp gia đình
4. Trợ giúp xã hội
4.1 Trợ giúp xã hội thường xuyên
4.2 Trợ giúp đột xuất
4.3 Kết quả
5.Các quỹ tiết kiệm
5.1.Tiêu chí của các quỹ tiết kiệm xã hội
5.2Sản phẩm và dịch vụ
5.3 Các quỹ tiết kiệm xã hội ở Việt Nam
Phần 3. Chính sách và định hướng ASXH
1. Chính sách AXXH
2. Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Kết luận


Lời mở đầu
Cuộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày càng có cuộc
sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “ sinh lão bệnh tử ” không chừa một ai,
luôn luôn tồn tại những khó khăn ,rủi ro khó lường từ các hoạt động của con người,

từ thiên nhiên, dịch bệnh, các quá trình phát triển kinh tế - xã hội … Điều đó có
tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của con người, để tồn tại và phát triển còn
người đã có nhiều biện pháp để khác phục khó khăn. An sinh xã hội ra đời đã ngăn
chặn và hạn chế bớt những khó khăn, rủi ro trên.
Truyền thống tương thân ,hỗ trợ, san sẻ nhau đã xuất hiện từ thửa xưa.Cho đến
ngày nay tinh thần ấy vẫn được phát huy mạnh mẽ và được thể hiện dưới những
hình thức ngày càng đa dạng như: bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình,
các chương trình xóa đói giảm nghèo, các quỹ tiết kiệm… Đối với nước ta ,bảo
đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của
Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bên vững của đất nước.
Vậy an sinh xã hội là gì? Thực trạng ASXH ở nước ta như thế nào? Người nghèo
đã được hưởng chế độ ASXH một cách tốt nhất hay chưa? Vai trò của chính phủ
như thế nào trong việc giúp cuộc sống của người dân được nâng cao hơn , đảm bảo
công bằng hơn?... Bằng những phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp những
thông tin từ sách báo, internet, những số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam.. và
từ những gì thấy được ở thực tế, nhóm KTCC sẽ giải đáp những câu hỏi trên để
thấy rõ được vấn đề “Có ý kiến cho rằng người nghèo Việt Nam đang hưởng an
sinh xã hội thấp nhất” , đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp trong việc thực
hiện an sinh xã hội được tốt hơn, công bằng hơn.
Vì những hiểu biêt của chúng em còn hạn chế nên khó có thể tránh được thiếu sót
trong quá trình viết bài này.Rất mong cô và các bạn góp ý them để đề bài hoàn
thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn !


Nội dung
Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội (ASXH)
1.

Khái niệm

Theo tiếng Anh, ASXH được gọi là Social Security, được hiểu là sự đảm
bảo thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao
động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động và mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ
côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch
họa…
Theo tổ chức lao động quốc tê (ILO) đang sử dụng: An Sinh Xã Hội là sự
bảo vệ của xã với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện
pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do
bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, thất nghiêp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo các
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Việc có một hệ thống an sinh xã hội có thể làm thay đổi cuộc sống của mọi
người theo chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống ASXH
cũng làm thay đổi cuộc sống của họ theo một chiều hướng xấu đi.
Hệ thống ASXH của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực và
thậm chí là cả thế giới

2.

Đặc điểm của ASXH :





Trong quan hệ pháp luật của an sinh xã hội, thông thường có một bên tham
gia là nhà nước. Đối tượng bảo vệ của an sinh xã hội thường rất rộng lớn
bao gồm mọi thành viên của xã hội mà không có sự phân biệt thành phần
kinh tế, giới tính, tôn giáo, chủng tộc đẳng phái.

Nội dung của an sinh xã hội chính là sự bảo vệ của xã hội đối với thành
viên của mình.
Mục đích của an sinh xã hội là đảm bảo an toàn cuộc sống cho các thành
viên xã hội trước những rủi ro, biến cố. Để đạt được mục đích này các
quốc gia xây dựng những chương trình hành động với các mục tiêu cụ thể
trong từng giai đoạn phát triển.

3.

Các bộ phận cấu thành của ASXH ở Việt Nam

3.1

. Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ phận lớn nhất của an sinh xã hội. Có thể nói nếu không có bảo
hiểm thì không thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh. Bảo hiểm xã


3.5

hội có thể hiểu là sự đảm bảo thay thế hay bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập từ nghề nghiệp do bị
mất việc hoặc giảm khả năng lao động thông qua việc hình thành và sử
dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm
xã hội nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và
gia đình họ đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
.Trợ giúp xã hội
Đó là sự trợ giúp của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện
sinh sống thiết yếu khác với mọi thành viên của xã hội trong những điều
kiện bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để lo được cuộc sống

tối thiểu của bản thân và gia đình.
.Trợ cấp gia đình
Là hình thức áp dụng việc sử dụng cơ cấu thuế gắn với trách nhiệm gia
đình, người không có gia đình phải nộp thuế cao hơn người có gia đình,
gia đình ít con phải đóng thuế nhiều hơn gia đình nhiều con.
.Các quỹ tiết kiệm xã hội
Là quỹ tiết kiệm dựa trên sự đóng góp của các cá nhân. Những đóng góp
được tích tụ dung để chi trả cho các thành viên khi sự cố xảy ra. Đóng
góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định. Từng cá
nhân sẽ nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời không chia sẻ
rủi ro cho người khác…
.Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…

4.

Các tổ chức liên quan đến ASXH ở Việt Nam

3.2

3.3

3.4

5.

Bộ lao động - thương binh và xã hội
Bộ Y tế
Hội chữ thập đỏ
Ngân hàng chính sách xã hội.


Đối tượng người nghèo

Bảng 1.Chuẩn nghèo của Chính phủ cho giai đoạn 2006 – 2010 (đồng)
Năm
2004
2006

Thành thị
218.000
260.000

Nông thôn
168.000
200.000


2008
2010

370.000
450.000

290.000
360.000

- Chuẩn nghèo của Chính phủ cho giai đoạn 2011 – 2015 ( đồng )
-

Thành thị: 500.000
Nông thôn: 400.000


Phần 2. Thực trạng của an sinh xã hội ở Việt Nam
Có 5 bộ phận chính cấu thành nên hệ thống ASXH. Để thấy rõ được tác động
ASXH đến người nghèo, chúng ta sẽ tập trung phân tích thực trạng nhóm dịch vụ
và BHXH.Trong 10 nhóm nhu cầu cơ bản, nhóm dịch vụ: (6) chợ; (7) bưu điện,
nhà văn hóa; (8) đường giao thông và (9) tư vấn, trợ giúp pháp lý về cơ bản là sẵn
có, không có sự khác biệt lớn về chất lượng cung cấp; khả năng tiếp cận của cả
người nghèo và không nghèo đô thị cũng dễ dàng như nhau. Do vậy, bài viết
không phân tích các nhóm này mà sẽ tập trung vào nhóm dịch vụ gồm: (1) nhà ở;
(2) nước sạch và vệ sinh môi trường; (3) điện sinh hoạt; (4) trường học và (5) trạm
y tế hay hệ thống khám chữa bệnh; và nhóm BHXH

1.Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội gồm : BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, Bảo hiểm
thất nghiệp và Bảo hiểm y tế .

Bảo hiểm xã hội (BHXH) mà trọng tâm là chế độ bảo hiểm hưu trí
được coi là một dịch vụ công để hỗ trợ và thậm chí là đảm bảo nguồn thu
nhập cho người dân khi về già. Hiện tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên đã chiếm
trên 9% dân số và số đối tượng tham gia BHXH mới chỉ bằng 20% lực
lượng lao động cả nước. Như vậy, độ bao phủ của BHXH không cao có
nghĩa là tỷ lệ người già có lương hưu còn thấp.
Năm 2012, có 10.437.000 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 40,6%,
tương ứng tăng hơn 03 triệu người so với năm 2007 (là năm đầu thực hiện
Luật BHXH); gần 140.000 người tham gia BHXH tự nguyện; thu BHXH bắt
buộc đạt hơn 89.612 tỷ đồng; chi trả cho 101.200 người hưởng lương hưu,
601.020 người hưởng BHXH một lần. Hiện, hằng tháng BHXH Việt Nam
quản lý, tổ chức chi trả kịp thời cho hơn 2,3 triệu người hưởng lương hưu
thuộc 02 nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước và Quỹ BHXH đảm bảo.
Hình thức chi trả lương hưu là bằng tiền mặt hoặc thông qua tài khoản thẻ

ATM. Ngoài ra, đã tổ chức thí điểm chi trả lương hưu bằng tiền mặt thông
qua hệ thống Bưu điện cấp xã đã triển khai trên phạm vi toàn quốc
bắt đầu từ năm 2013.







Tuy nhiên, có thể thấy diện bao phủ BHXH còn thấp hơn so với yêu cầu;
tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền BHXH còn xảy ra khá phổ biến và chưa
được xử lý triệt để; Quỹ Hưu trí, tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong
dài hạn; tình trạng lạm dụng quỹ còn phức tạp, chưa được kiểm soát một
cách hiệu quả; ứng dụng CNTT vào quản lý BHXH còn chậm, chất lượng
dịch vụ còn hạn chế; công tác thanh, kiểm tra, phối hợp trong quản lý, giải
quyết, xử lý vi phạm về BHXH chưa đáp ứng nhu cầu.

2. Dịch vụ
2.1 Nhà ở, điện, nước và xử lý rác thải
Nhà ở, điện, nước sạch là những thứ cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày của mỗi
con người nhưng ở nước ta, đối với người nghèo điều đó dường như vẫn còn khá
xa xỉ
2.1.1. Nhà ở:
a. Thành thị:
Vấn đề nhà ở cho người nghèo ở khu vực đô thị về cơ bản đã được giải quyết. Đã
có 68,4% số hộ thuộc nhóm nghèo ở nhà kiên cố và 13% ở nhà bán kiên cố. Tuy
vậy, vẫn còn 16,3% số hộ thuộc nhóm nghèo hiện đang sinh sống ở loại nhà thiếu
kiên cốvà đặc biệt là có 2,2% sống ở loại nhà đơn sơ, tạm bợ.
Bảng 2. Tỷ lệ hộ thành thị có nhà ở chia theo loại nhà

Đơn vị: %
Năm

Chung

Nhà kiên
cố

Nhà bán
kiên cố

Nhà thiếu
kiên cố

2002
2004
2006
2008
2010

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

31,5
38,7
41,4
46,2

46,1

55,4
52,4
51,3
48,4
49,0

0,0
0,0
0,0
0,0
7,5

Nhà tạm
và nhà
khách
24,6
20,4
16,0
13,1
5,6

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

So với các nhóm hộ gia đình có mức sống từ trung bình trở lên thì tỷ lệ hộ thuộc
nhóm nghèo phải sống trong các ngôi nhà chất lượng kém hơn còn khá lớn. Như
vậy, các chính sách về nhà ở cho người nghèo ở khu vực đô thị trong thời gian tới
đây cần chuyển từ lượng sang chất để đảm bảo cho người nghèo có được mái ấm
an toàn, hướng đến mục tiêu không để người nghèo ở khu vực đô thị phải sống

trong các ngôi nhà thiếu kiên cố, nhà tạm bợ ảnh hưởng không chỉ đến sinh hoạt
hàng ngày mà còn đe dọa cả sự an toàn và sức khỏe của người dân nghèo.


Dễ hiểu rằng để sống trong các ngôi nhà có chất lượng cao hơn đòi hỏi chi phí sẽ
lớn hơn cả về đầu tư ban đầu của nhà nước, của người dân cũng như chi phí thuê
nhà trong trường hợp người dân không thể sở hữu các căn nhà đó. Với người
nghèo, một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận trong số họ không thể
tiếp cận được với nhà kiên cố có thể cũng là bởi lý do này. Do vậy, các chương
trình nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, người nghèo đã được triển khai trong
vài năm qua nếu không có sự điều chỉnh trong hỗ trợ đầu tư xây dựng cũng như
các chính sách hỗ trợ trong việc mua nhà, thuê nhà cũng như cơ chế xét duyệt đối
tượng được mua, thuê nhà thì một bộphận người nghèo, cận nghèo sẽ còn gặp khó
khăn trong việc nâng cao chất lượng nhà ở của họ.
b. Nông thôn:
Bảng 3. Tỷ lệ hộ nông thôn có nhà ở chia theo loại nhà
Đơn vị: %
Năm

Chung

2002
2004
2006
2008
2010

100,0
100,0
100,0

100,0
100,0

Nhà kiên
cố
12,6
14,7
17
20,6
50,5

Nhà bán
kiến cố
59,2
61,0
63,7
63,3
32,9

Nhà thiếu
kiên cố
0,0
0,0
0,0
0,0
3,0

Nhà tạm và
nhà khách
13,1

8,9
7,4
5,5
1,9

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

Chương trình 134 (Quyết định 134/2004) về hỗ trợ nhà ở và đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc và Quyết định 167 về hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo đã giải quyết được cơ
bản nhu cầu về nhà ở và đất sản xuất cho hộ nghèo nhất.
2.1.2.Điện:
a. Thành thị:
Bảng 4. Tỷ lệ hộ thành thị chia theo nguồn thắp sáng chính của hộ
Đơn vị: %
Năm
Chung
Điện lưới
Điện ắc
Đèn dầu
Khác
quy, máy
các loại
nổ
2002
2004

100,0
100,0

98,2

99,0

0,4
0,4

1,1
0,5

0,3
0,1


2006
2008
2010

100,0
100,0
100,0

99,1
99,6
99,6

0,4
0,1
0,3

0,4
0,2

0,1

0,1
0,1
0,0

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

96,4% số hộ thuộc nhóm nghèo đã tiếp cận và sử dụng điện lưới quốc gia, số phải
dùng đèn dầu chỉ là 0,5%. Với các nhóm dân cư khác, gần như 100% hộ gia đình
đã sử dụng điện lưới.Điện lưới đã cung tới từng hộ gia đình nghèo ở khu vự đô thị
nhưng vẫn còn một tỷ lệ dù nhỏ các hộ gia đình nghèo, cận nghèo không sử dụng
điện lưới cho sinh hoạt hàng ngày của hộ. Rõ ràng nhu cầu tối thiểu về sử dụng
điện để thắp sáng là thiết yếu đối với mọi người dân nhưng một bộ phận nhỏ trong
số những người nghèo hiện vẫn không thỏa mãn được nhu cầu này cho thấy chi phí
về giá điện cũng như thiết bị điện là đắt đỏ, vượt quá khả năng của họ.
b. Nông thôn.
Từ nhiều năm nay, các chương trình phát triển điện lưới quốc gia chủ yếu hướng
về các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.Hệ thống cung cấp điện sinh hoạt cho
người dân vùng sâu, vùng xa đã từng bước được đầu tư nâng cao hiệu quả và mở
rộng phạm vi bao phủ của điện lưới quốc gia.

Bảng 5. Tỷ lệ hộ nông thôn chia theo nguồn thắp sáng chính của hộ
Đơn vị: %
Năm
Chung
Điện lưới
Điện ắc
Đèn dầu
Khác

quy, máy
các loại
nổ
2002
100,0
82,7
2,1
13,1
2,1
2004
100,0
91,6
1,3
5,7
1,4
2006
100,0
94,9
1,0
3,2
0,9
2008
100,0
96,8
0,5
1,7
1,0
2010
100,0
96,2

1,6
2,0
0,2
(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

2.1.3: Nước sạch
a.Thành thị
Bảng 6. Tỷ lệ hộ thành thị chia theo nguồn nước ăn uống chính
Đơn vị: %


Năm Chung Nướ
c
máy
riêng

Nước Nướ
máy c
công mua
cộng

Giếng
khoan

bơm

Giếng
khơi,
giếng
xây


2002
2004
2006
2008
2010

7,8
7,1
5,2
5,4
1,9

19,3
18,9
16,9
16,4
15,3

16,6
10,9
12,0
9,1
8,2

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0


43,9
49,8
57,2
60,7
66,5

1,9
1,1
0,9
1,0
1,9

Nướ
c
suối

lọc
0,3
0,2
0,5
0,4
0,5

Giếng Nướ
đất
c
mưa

Khác


3,9
4,2
1,3
0,9
1,1

3,9
3,1
1,8
1,5
1,3

2,5
4,7
4,2
4,7
3,3

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

Không như vấn đề nhà ở và điện sinh hoạt, nguồn cung nước ăn uống hàng ngày ở
khu vực đô thị đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết không chỉ với nhóm
người nghèo mà cả người không nghèo.
Việc đẩy mạnh các chương trình đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở trong đó có việc
cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư đô thị cần là một trong những hoạt động được
ưu tiên trong thời gian tới đây nhất là trong bối cảnh đô thị hóa có xu hướng diễn
ra với tốc độ nhanh hơn.
Tình trạng một bộ phận tương đối lớn nhóm người nghèo ở khu vực đô thị(21,7%)
còn phải sử dụng nguồn nước không đảm bảo như nước từ giếng đất, nước mưa là

một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, dễ gây
ra các dịch bệnh khó lường.
b.Nông thôn
Bảng 7. Tỷ lệ hộ nông thôn chia theo nguồn nước ăn uống chính
Đơn vị: %
Năm Chung Nướ
c
máy
riêng

Nước Nướ
máy c
công mua
cộng

Giếng
khoan

bơm

Giếng
khơi,
giếng
xây

2002
2004
2006
2008
2010


2,7
2,6
2,0
1,8
1,3

22,2
24,4
26,1
26,1
30,7

33,5
26,7
27,7
26,2
23,5

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

2,8
3,7
6,6
8,8
9,2


0,7
0,3
0,3
0,6
0,9

Nướ
c
suối

lọc
1,0
0,7
3,9
4,9
4,9

Giếng Nướ
đất
c
mưa

Khác

10,2
9,9
4,6
3,5
4,3


16,3
13,4
9,3
6,6
8,4

10,7
18,2
19,4
21,6
17,0


(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

Cũng là vấn đề nan giải như khu vực thành thị, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt
cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải thiện
thông qua các chương trình nước sạch quốc gia, chương trình nước sạch của
UNICEF và các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ.
2.1.4. Xử lý rác thải
a.Thành thị
Bảng 8. Tỷ lệ hộ thành thị chia theo cách xử lý rác
Đơn vị: %
Năm

Chung

Có người
đến lấy đi


2002
2004
2006
2008
2010

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

64,0
72,5
74,6
77,4
79,6

Vứt xuống
ao, hồ,
sông, suối,..
4,9
3,8
3,8
2,5
2,4

Vứt ở khu
vực gần

nhà
17,2
12,3
11,1
5,6
4,4

Khác
13,9
11,4
10,5
14,5
13,6

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

Tương tự như tiếp cận nguồn nước, gần 70% nhóm người nghèo chưa tiếp cận
được dịch vụ xử lý rác thải của các công ty vệ sinh môi trường đô thị. Rác thải của
nhóm nghèo chủ yếu được vứt xuống ao hồ, vứt ở khu vực gần nhà, v.v… Đây
cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường sống và là mầm mống gây ra các
dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.
Ở nhóm cận nghèo, cũng chỉ có 45,7% số hộ tiếp cận được dịch vụ xử lý rác thải
của hệ thống vệ sinh môi trường đô thị. Như vậy, còn nhiều hộ dân đô thị chưa tiếp
cận được dịch vụ này. Như vậy, chính sách và công tác về vệ sinh môi trường đô
thị [dịch vụ thu gom và xử lý rác thải] cần được chú trọng đầu tư hơn nữa để dịch
vụ này có ở mọi khu vực đô thị nước ta và việc có cơ chế hỗ trợ nhóm người nghèo
đô thị chẳng hạn như hỗ trợ một phần phí dịch vụ sẽ tạo điều kiện để các hộ gia
đình nghèo đô thị dàng tiếp cận được hệ thống này hơn.
b. Nông thôn
Bảng 9. Tỷ lệ hộ nông thôn chia theo cách xử lý rác

Đơn vị: %


Năm

Chung

Có người
đến lấy đi

2002
2004
2006
2008
2010

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

5,1
8,3
11,6
15,3
21,4

Vứt xuống
ao, hồ,

sông, suối,..
8,0
7,3
6,0
5,7
4,8

Vứt ở khu
vực gần
nhà
54,6
48,2
43,3
25,9
17,2

Khác
32,3
36,2
39,1
53,2
56,6

(Nguồn: Tổng cục điều tra dân số và nhà ở)

Hiện nay hầu hết rác thải của các khu vực ngoài đô thị, nông thôn đều chưa được
thu gom và xử lý đúng cách. Tại hầu hết các khu vực này, rác thải chỉ được thu
gom và thải ra một bãi đất trống của địa phương trong khi người dân hầu hết vẫn
sử dụng nước ngầm, nước mưa làm nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu. Điều
này khiến môi trường không khí, môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm, ảnh

hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Chưa kể đến rằng việc xử lý rác thải
kiểu này gây mất diện tích đất công cộng và sản xuất.
2.2. Hệ thống giáo dục, đào tạo.
“Hàng năm, ngành giáo dục đều vẽ ra kết quả lạc quan nhưng trên thực tế, một số
học sinh lớp bốn và lớp năm còn chưa đọc, viết thành thạo.” (Phỏng vấn sâu với
cán bộ Phòng Dân tộc, huyện Tiểu Cần, Trà Vinh).
2.2.1. Tình hình đi học
Theo kết quả Tổng điều tra dân số, năm 2009 Việt Nam có 24,7% dân số từ 5 tuổi
trở lên đang tham gia học tập trong hệ thống giáo dục quốc. Nhìn chung không có
sự khác biệt lớn giữa nam và nữ, giữa nông thôn và thành thị về tỷ lệ dân số từ 5
tuổi trở lên đang đi học.Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa các nhóm thu nhập. Tỉ
lệ dân số 5 tuổi trở lên ở nhóm nghèo nhất chưa bao giờ đến trường gấp gần 11,5
lần so với nhóm giàu nhất (16.2% và là 1.4%)
Bảng 10. Tình hình đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên năm 2009
Đơn vị: %
Chỉ số
Tỷ lệ đang
Tỷ lệ đã
Tỷ lệ chưa bao
đi học
thôi học
giờ đến trường
Chung
24,7
70,2
5,1
Giới tính
Nam
25,8
70,7

3,5
Nữ
23,6
69,7
6,7
Thành thị/
Thành thị
25,7
71,7
2,6


nông thôn
Tình trạng
kinh tế-xã hội
của hộ gia đình

Nông thôn
Nghèo nhất
Nghèo
Trung bình
Giàu
Giàu nhất

24,3
22,6
23,3
24,6
24,5
27,2


69,5
61,2
70,0
72,1
73,2
71,4

6,2
26,2
6,7
3,3
2,3
1,4

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009

Điều này chứng tỏ, người nghèo, đặc biệt là trẻ em nghèo không được hưởng hết tất
cả những ưu đãi, trợ cấp giáo dục của Nhà nước.Dù có chính sách miễn giảm học phí
nhưng tỷ lệ trẻ em chưa bao giờ được đến trường vẫn rất cao.Tỷ lệ học sinh nghèo bỏ
học vẫn còn tiếp diễn.Tác động của những chính sách trợ cấp giáo dục không hoàn
toàn đạt được hiệu quả.
2.2.2. Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi các cấp
Một trong những chỉ số quan trọng đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục đó là tỉ lệ
nhập học đúng độ tuổi các cấp. Năm 2009, tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi chung của tiểu
học là 95,5%; trung học cơ sở là 82,6%; Trung học phổ thông 56,7%; cao đẳng 6,7%
và đại học 9,6%.
Bảng 11. Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi các cấp, 2009
Đơn vị: %
Chỉ Số

Tiểu học
THCS
THPT
Cao đẳng
Đại học
Chung

95,5
82.6


Tình trạng
kinh tế - xã hội của
hộ gia đình
56,7
6,7
9,6
Nghèo nhất
88,9
59,0
23,2
0,3
0,3
Nghèo
95,3
78,7
44,2
1,8
1,0
Trung bình

97,0
86,7
56,1
7,8
5,5


Giàu
97,5
89,6
64,6
8,6
10,6
Giàu nhất
98,3
94,9
82,3
11,6
26,3
Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009

Phân tích tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi theo tình trạng kinh tế- xã hội của hộ gia đình
cho thấy, cấp học càng cao thì sự khác biệt càng lớn. Đối với hộ nghèo nhất, tỉ lệ
nhập học đúng độ tuổi ở bậc học cơ sở: Tiểu học là 88,9%, THCS 59,0%, còn hộ giàu
nhất là 98,3% và 94,9%. Mặc dù được coi là bậc học phổ cập giáo dục nhưng tỉ lệ
nhập học đúng độ tuổi, đặc biệt của THCS ở các hộ gia đình nghèo nhất vẫn còn rất
thấp. Sự khác biệt lớn nhất là tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc học đại học. Trong khi
nhóm hộ gia đình giàu nhất có tỉ lệ nhập học đại học là 26,3% thì tỉ lệ này ở nhóm hộ
gia đình nghèo là 0,3% (gấp 86,7 lần). Điều này cho thấy cơ hội tiếp cận giáo dục,
đặc biệt giáo dục bậc cao cho người nghèo còn rất thấp.

2.2.3. Tác động gánh nặng tài chính đè lên vai người nghèo
Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều chương trình, chính sách hỗ
trợ cho người nghèo như trợ cấp giáo dục, thực hiện xã hội hóa giáo dục… nhằm
giúp họ có cơ hội được học mặc dù họ không đủ điều kiện vào các trường công; tuy
nhiên, gánh nặng tài chính của việc đi học thì không giảm (thậm chí tăng so với học
sinh có điều kiện tài chính tốt) với đa số học sinh nghèo khi họ phải tham gia học ở


các trường ngoài công lập, bất chấp một số chính sách giảm học phí đã được nhà
nước ban bố.

Bảng 12 . Chi giáo dục, đào tạo bình quân 1 người đi học trong năm 2010 theo
loại trường
Đơn vị: 1000 đồng
Chung
Nhóm nghèo 2.378
Nhóm cận
4.145
nghèo

2.323
3.847

Công lậpBán
Dân lập và Khác
công
tư thục
1.925
4.750
1.735

10.054
5.206
2.916

Nhóm trung
bình

5.674

5.517

9.164

4.989

3.823

Nhóm khá

7.405

7.116

9.984

9.650

5.546

Nhóm giàu


15.962

11.370

22.700

56.287

42.003

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2011)

Chi cho giáo dục đào tạo của hộ nghèo chỉ bằng 15% của hộ giàu, đây một phần là do
hộ nghèo được hưởng các chính sách ưu đãi trong giáo dục (chính sách miễn giảm
học phí, v.v…). Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ hộ nghèo hiện nay mới chỉ đáp ứng
được khoảng 50% các chi phí giáo dục của hộ gia đình. Do vậy, về cơ bản đầu tư cho
giáo dục của hộ nghèo vẫn thấp hơn nhiều so với hộ không nghèo. Đầu tư thấp không
thể có vốn nhân lực cao.Đây là vòng luẩn quẩn đẩy người nghèo rơi vào cảnh nghèo
trong xã hội.
Việc cho con cái theo học hệ thống trường dân lập-tư thục làm cho chi phí giáo dục,
đào tạo của hộ nghèo tăng lên gấp hơn 2 lần so với trường hợp họ cho con cái theo
học hệ thống công lập. Nhưng vì nhiều lý do như không có hộ khẩu,… khiến cho
những hộ nghèo buộc phải gửi con cái mình theo học hệ ngoài công lập, dù chi phí
rất cao
Trường dân lập là những trường có tỷ lệ học sinh thuộc các hộ nghèo
cao hơn các trường công lập.




Các cơ sở tư thục, dân lập (các hình thức cao của xã hội hóa/tư nhân hóa
giáo dục) không chú ý đến thực hiện các chính sách hỗ trợ (miễn, giảm học
phí, miễn phí xây dựng trường, cấp sách giáo khoa, cấp kinh phí ăn ở...) cho
con em các hộ nghèo có thể tiếp cận đến dịch vụ của họ.

Mặc dù XHH giáo dục làm tăng nguồn cung ứng dịch vụ giáo dục cho
toàn xã hội, người nghèo vẫn không được hưởng đầy đủ các ưu đãi đi kèm với
chính sách XHH

Chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm” thường có xu hướng bị
lạm dụng để thực hiện thu thêm các khoản nhằm cải thiện điều kiện học tập
của các trường công lập và các trường bán công
“Họ đã nói là miễn các khoản xây dựng trường cho hộ nghèo, nhưng khi họp
Hội phụ huynh vẫn quyết định đóng thêm các khoản phụ thu cài tạo điều kiện
học tập. Nhiều khoản thu lắm, như làm tượng đài họ cũng bắt chúng tôi phải
đóng tiền” ( nhóm hộ dân). Kết quả là, có tới 72,5% số hộ phải đóng tiền phụ
phí học tập (ngoài học phí) với số tiền trung bình là 1,4 triệu đồng/năm
học/hộ.
Trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng cơ hội tiếp
cận giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trẻ em . Vì vậy tỉ lệ biết chữ, tỉ lệ
nhập học ở bậc học phổ cập, tỷ lệ nhập học ở các cấp học ngày càng cao. Tuy nhiên,
xét về tỷ lệ nhập học ở các cấp học, càng lên cấp học cao thì số lượng học sinh nghèo
đến trường càng giảm; khả năng trang trải các dịch vụ giáo dục của người nghèo
thấp, học phí và các khoản đóng góp trường lớp đã trở thành gánh nặng đối với gia
đình nghèo; học sinh nghèo ít có cơ hội đi học thêm, phải dành thời gian giúp đỡ gia
đình và lao động kiếm sống, vì thế mà ảnh hưởng chất lượng học tập của các em.


2.3. Hệ thống chăm sóc y tế
2.3.1 Tỷ lệ điều trị

Phần lớn người nghèo đang phải chịu gánh nặng về chi phí dịch vụ y tế.Công
bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế giữa các nhóm dân cư đang là một thách thức
rất lớn


Bảng 13.Tỷ lệ người khám chữa bệnh trong 12 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập (2002-2010)
Đơn vị: %
Các nhóm thu
nhập
Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

Năm

Chung

2002
2004
2006
2008
2010
2002

2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010

16.5
32.4
33.8
34.2
37.5
18.0
33.0
34.4
33.3
39.0

18.4
34.1
35.2
33.9
41.2
19.5
35.2
36.5
34.4
41.5
22.0
36.7
36.3
35.4
45.5

Tỷ lệ người điều trị
nội trú
5.6
7.3
7.1
7.1
8.6
5.8
7.4
6.2
6.2
9.2
5.8
7.1

6.4
6.3
8.1
5.9
7.2
6.0
6.2
7.7
5.7
6.6
5.9
6.5
7.1

Tỷ lệ người điều
trị ngoại trú
11.6
28.7
30.4
30.2
32.7
13.1
29.4
31.7
30.0
34.7
13.7
30.7
32.5
30.6

37.1
14.8
31.9
34.1
31.5
38.1
17.7
34.1
34.3
32.7
42.9

Nguồn: Tổng cục thống kê, kết quả khảo sát mức sống dân cư


Bảng 14. Chi tiêu bình quân một người một tháng cho y tế phân theo 5 nhóm
thu nhập (2002-2010)
Các nhóm thu
nhập
Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

Năm


Chung

2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010
2002
2004
2006
2008
2010

395

306
313
562
742
505
425
413
734
1029
568
510
527
898
1167
718
695
684
1233
1483
1181
1263
1007
1687
2209

Chi phí điều trị nội
trú
760
640
985

1533
1900
1022
1093
1383
2133
2450
1148
1212
1688
2219
3038
1505
1977
2209
4329
3857
2717
3380
2681
4602
6363

Chi phí điều trị
ngoại trú
195
180
164
331
354

243
226
236
453
510
282
296
301
598
635
345
334
425
642
837
599
702
705
1137
1288

Nguồn: Tổng cục thống kê, kết quả khảo sát mức sống dân cư


Đơn vị: nghìn đồng

2.3.2 Tâm lý nhóm người nghèo khi mắc bệnh
Khi bị bệnh nhẹ phần đông người nghèo sẽ để tự hết hoặc áp dụng các phương
pháp cổ truyền như cắt lễ, cạo gió, xông hơi.Tỷ lệ không đi khám chữa bệnh và tự
điều trị rất cao ở nhóm đối tượng không có thẻ BHYT/thẻ KCB.

`Người nghèo ít đến trạm y tế vì trạm không bán thuốc nợ, chưa tin tưởng vào
chuyên môn của nhân viên y tế, nghĩ rằng trạm y tế cho thuốc xí nghiệp nên không
tốt và đường sá xa xôi mà nhà không có phương tiện đi lại.Nếu có phương tiện thì
tiền xăng cũng mắc hơn tiền thuốc. Những người có thẻ bảo hiểm y tế cũng ít đến
trạm do ngại bệnh nhẹ mà lên xin thuốc thì thấy ngại.
Ở một số nơi, trạm y tế xã chưa đăng ký điều trị bảo hiểm y tế. Trạm có điều trị
bảo hiểm y tế thì bị giới hạn thuốc điều trị theo danh mục. Một lý do nữa được
nhiều người nhắc đến là nỗi lo bị đối xử không công bằng nếu điều trị bằng thẻ bảo
hiểm y tế. Ngoài ra, tuyến xã cũng không đủ ngân sách để điều trị miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi.
Trường hợp bệnh nặng, người dân ít đến trạm y tế vì nghĩ rằng trạm không dám
nhận bệnh nặng.Thông thường họ đi khám bác sĩ tư, đến thẳng trung tâm y tế
huyện hoặc bệnh viện tỉnh.Tình hình hiện tại đang đặt ra nhiêu thách thức trong
việc chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.
Việc chăm sóc sức khỏe cho người nghèo cần phải được giải quyết từ gốc rễ của
vấn đề. Đó là tính hiệu quả và bền vững của các chương trình chăm sóc sức khỏe
ban đầu. Trong thực tế, các chương trình này đang được thực hiện theo thói quen
từ trên xuống.
2.3.3. Những rào cản tiêu cực khiến người nghèo khó tiếp cận hệ thống y tế



Một số người nghèo và người dân tộc thiểu số chưa được cấp thẻ KCB.
Vướng mắc trong quá trình xác định đối tượng nghèo tại địa phương:
- Việc lập danh sách người nghèo được thực hiện thông qua việc ghi chép
bằng tay.


Chưa xây dựng được cơ chế để kiểm tra và kiểm tra chéo danh sách hộ
nghèo.

- Quy trình lập danh sách hộ nghèo rất phức tạp.
- Nguồn tài chính cho công tác quản lý hành chính hạn chế và không có
chế độ khuyến khích cho nhân lực thực hiện công tác này ở địa phương.
Chậm trễ trong in ấn và cấp phát thẻ KCB người nghèo.
Năng lực quản lý của cơ quan BHXH: Năng lực của cơ quan BHXH trong
công nghệ thông tin nhìn chung còn hạn chế về nhiều mặt: nhân lực, xây dựng
phần mềm quản lý và ứng dụng.
Tác động của Quỹ KCB cho người nghèo đối với đối tượng hưởng lợi
Quỹ KCB cho người nghèo có tác động tích cực tới việc CSSK cho người
nghèo trong nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cũng như giảm
gánh nặng tài chính cho nhóm đối tượng hưởng lợi. Tuy nhiên một số đối
tượng hưởng lợi chưa thực sự được hưởng lợi từ Quỹ KCB cho người
nghèo.Nhiều người nghèo không đi KCB tại các CSYT.
Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng dịch vụ của người nghèo:
- Chất lượng dịch vụ, đặc biệt tại tuyến xã còn hạn chế
- Kiến thức và thực hành về các vấn đề sức khoẻ và CSSK và tầm quan
trọng của CSSK của nhóm đối tượng nghèo còn hạn chế.
- Ngôn ngữ cũng là rào cản trong việc giao tiếp bởi vì không phải người
dân tộc nào cũng nói được tiếng Kinh và nhiều cán bộ y tế không nói
được tiếng dân tộc.
- Các hoạt động truyền thông còn hạn chế.
- Khoảng cách, khó khăn về giao thông và thiếu hiểu biết về CSSK của
một số đồng bào dân tộc thiểu số là những rào cản chính có ảnh hưởng
tới khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế.
- Hạn chế về quyền lợi do hạn chế trần điều trị, sự sẵn có của các dịch vụ
CSSK và thuốc, đặc biệt ở Trạm y tế xã cũng là yếu tố cản trở việc sử
dụng dịch vụ CSSKcủa người dân.
- Một số đối tượng gặp khó khăn về tài chính trong KCB do phải trả thêm
chi phí cho thuốc hoặc các chi phí gián tiếp khác như ăn uống và đi lại...
- Thủ tục hành chính là một rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ CSSK

tuyến trên.
-









2.3.4 Công bằng y tế
Hội thảo khoa học về kinh tế y tế lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam (7-8.12) hướng
đến mục tiêu đảm bảo công bằng y tế cho người dân.Tuy nhiên, rất nhiều quan
điểm cho rằng, tính công bằng trong y tế tại nước ta vẫn còn là thách thức lớn.


TS Dương Huy Liệu – Chủ tịch Hội khoa học kinh tế y tế Việt Nam (HEA) nhấn
mạnh, nhiều nhóm dân cư vẫn còn thiếu công bằng trong hưởng lợi từ hệ thống y
tế. Năm 2008, tỷ suất chết sơ sinh cao nhất ở hai vùng nghèo nhất là miền núi phía
bắc và Tây Nguyên (21-23 trẻ chết trên 1.000 trẻ sinh ra sống), so với tỷ suất chết
trẻ em dưới 1 tuổi là 8 trên 1.000 trẻ sinh ra sống ở vùng Đông Nam Bộ. Thấp còi
ảnh hưởng tới 46% trẻ em thuộc 20% hộ gia đình nghèo nhất, so với chỉ có 10%
trẻ em ở 20% hộ gia đình giàu nhất năm 2006.
Khả năng tiếp cận dịch vụ và chất lượng dịch vụ được hưởng cũng khác nhau.
Trong khi ĐBSH chỉ có 6,5% dân phải nằm điều trị nội trú tại trạm y tế xã thì vùng
Tây Bắc tỷ lệ này là 12%. Ở nhóm giàu nhất, 99,5% phụ nữ thuộc 20% hộ gia đình
giàu nhất được khám thai còn phụ nữ nghèo chỉ có 73,3%; 63,4% trẻ em dưới 5
tuổi con nhà giàu được điều trị bù nước tiêu chảy trong khi chỉ có 31% trẻ em
nghèo được điều trị….

Về chi phí bệnh viện, năm 2008, chi tiêu cho y tế từ tiền túi hộ gia đình (chi tư)
ước chiếm 52,4% tổng chi toàn xã hội, chi từ quỹ BHYT chỉ chiếm 17,6% dù năm
đó 44% dân tham gia BHYT.
“Chi tư cao hơn 50% tổng chi cho y tế toàn xã hội thì đó là dấu hiệu của một cơ chế
tài chính mất công bằng quá mức.Như vậy thì ai ốm đau nhiều sẽ phải chi trả nhiều,
không có sự chia sẻ đầy đủ của nguồn tài chính công (ngân sách Nhà nước và
BHYT).Tính chất tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế càng thể hiện rõ.Sự mất cân
bằng y tế ngày càng trầm trọng hơn”- PGS.TS Phạm Lê Tuấn, Vụ trưởng Vụ kế
hoạch tài chính – Bộ Y tế nhấn mạnh.

3.Trợ cấp gia đình
Là hình thức áp dụng việc sử dụng cơ cấu thuế gắn với trách nhiệm gia đình, người
không có gia đình phải nộp thuế cao hơn người có gia đình, gia đình ít con phải
đóng thuế nhiều hơn gia đình nhiều con.
Ví dụ: Sẽ trợ cấp cho gia đình nghèo nuôi con nhỏ
“Mức trợ cấp được tính theo phương án bằng 15% mức chi tiêu bình quân của các
hộ nghèo (khoảng 300.000 đồng/hộ/tháng)”
Đó là điểm nhấn quan trọng của dự thảo Dự án “Tăng cường hỗ trợ xã hội để giúp
đạt mức sống tối thiểu cho mọi người dân” do Bộ LĐTBXH công bố ngày
16.2.2012
Mục tiêu của Dự án này là giảm nghèo trước mắt và cải thiện phúc lợi cho trẻ em.
Trong đó, sẽ thí điểm phương thức trợ cấp trực tiếp bằng tiền mặt cho các hộ gia
đình nghèo có trẻ em từ 0-15 tuổi.
Địa bàn dự kiến trong giai đoạn đầu sẽ được triển khai tại 8-10 tỉnh với khoảng 2030 huyện với nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB) khoảng 100 triệu USD.


4. Trợ giúp xã hội
Cùng với BHXH, TGXH là một trong hai trụ cột quan trọng trong hệ thống ASXH
ở Việt Nam.Ở nước ta hiện nay đang thực hiện hai hình thức trợ giúp xã hội, đó là
trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp đột xuất.

4.1. Trợ giúp xã hội thường xuyên
Mục tiêu của chính sách TGXH thường xuyên là hướng tới giải quyết vấn đề công
bằng, ổn định và phát triển bền vững của quốc gia. Để thực hiện mục tiêu này, Nhà
nước đã có hàng loạt các chính sách cụ thể để trợ giúp những đối tượng cần TGXH
thường xuyên như chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, chính sách trợ giúp y tế,
chính sách trợ giúp giáo dục, đào tạo và một số chính sách khác. Đối tượng được
nhận trợ giúp xã hội thường xuyên theo quy định của pháp luật hiện hành gồm có:
-

Trẻ mồ côi;
Người cao tuổi cô đơn hoặc không có người nương tựa trong gia đình nghèo;
Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH;
Người khuyết tật nặng;
Người mắc bệnh tâm thần mãn tính;
Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động và thuộc hộ nghèo;
Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi;
Hộ gia đình có từ 2 người trở lên là người khuyết tật (NKT) nặng;
Người đơn thân thuộc hộ nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi.

Như vậy, các đối tượng được TGXH thường xuyên là “bộ phận của đối tượng bảo
trợ xã hội đang sống tại cộng đồng, gặp một trong các hoàn cảnh không còn khả
năng lao động, không tự chăm sóc được bản thân, có khó khăn kinh tế hoặc hoàn
cảnh khác dẫn đến khó khăn trong việc tự đảm bảo các nhu cầu cơ bản của cá nhân
như những người bình thường khác cần đến sự trợ giúp của Nhà nước, xã hội”.
Theo số liệu của Cục Bảo trợ Xã hội (Bộ LĐ, TB & XH), tính đến năm 2010,cả
nước có 1439 ngàn người thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên cộng
đồng và về mức độ bao phủ của chính sách là “1,5% dân số vào năm 2009 và đã
thực hiện cho 9,22% đối tượng bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, mức độ bao phủ của mỗi
nhóm đối tượng khác nhau, cao nhất là người đơn thân, trẻ em mồ côi và thấp nhất
là người nhiễm HIV/AIDS và người tàn tật. Cụ thể đã bao phủ trên 95,58% người

đơn thân nghèo đang nuôi con, 65,16% trẻ em mồ côi, 28,66% hộ có từ hai người
tàn tật nặng, 8,71% người cao tuổi (bao gồm cả người cao tuổi cô đơn và người
trên 85 tuổi), 7,47% người tàn tật (bao gồm cả tâm thần) và chỉ có 1,06% người
nhiễm HIV/AIDS” (Cục Bảo trợ Xã hội, 2010: 16). Như vậy, nếu so sánh với mục
tiêu đặt ra của chính sách thì mức độ bao phủ của TGXH thường xuyên với các đối
tượng bảo trợ xã hội ở Việt Nam hiện còn khá thấp.


4.2.Trợ giúp đột xuất:
Về trợ giúp đột xuất (TGĐX), theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng
thụ hưởng chính sách TGĐX là những người, hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả
thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng gây ra.
Bảng 15: Tổng hợp kết quả trợ giúp đột xuất giai đoạn 2001 – 2010
STT
1
2
3
4
5
6

Chỉ tiêu
Số người chết (người)
Số người bị thương (người)
Nhà sập, đổ, trôi, cháy (nhà)
Nhà hư hại, ngập (nhà)
Người thiếu đói được cứu trợ (1000 người)
Tổng thiệt hại (tỷ đồng)

Số lượng

4.305
3.737
138.043
1.453.031
1.467
19.063

Nguồn: Cục Bảo trợ Xã hội, Bộ LĐ, TB & XH, 2011: 18

4.3. Kết quả:
Tóm lại, qua xem xét hai trụ cột chính trong hệ thống ASXH Việt Nam là BHXH
và TGXH, có thể thấy rằng hệ thống ASXH Việt Nam đang thay đổi không ngừng,
ngày càng mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh. Song những kết quả
đạt được vẫn còn khá khiêm tốn, đối tượng được thụ hưởng chính sách vẫn chiếm
một phần nhỏ trong dân số và chưa vươn tới toàn bộ những đối tượng khó khăn
nhất.

5.Các quỹ tiết kiệm
5.1. Tiêu chí của các quỹ tiết kiệm xã hội
-

Cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo và nghèo nhất nhằm
giúp họ bắt đầu công việc làm ăn hoặc sản xuất nhỏ.
Giảm nghèo thông qua các hoạt động tạo thu nhập, nhằm giúp người nghèo cải
thiện và an sinh cuộc sống gia đình.
Giảm tỉ lệ thất nghiệp trong người nghèo.
Giúp người nghèo chia sẻ trách nhiệm, xâh dựng và ý thức cộng đồng trong
việc bảo vệ môi trường xã hội lành mạnh.
Mở rộng cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cho số lượng người nghèo và
duy trì sự bền vững về tài chính của tổ chức.


5.2. Sản phẩm và dịch vụ


Để đáp ứng nhu cầu của người nghèo,Các quỹ tiết kiệm xã hội thiết kế và cung
cấp 4 loại sản phẩm tài chính và phi tài chính gồm có: sản phẩm cho vay, sản phẩm
tiết kiệm, sản phẩm giảm nhiều rủi ro, và sản phẩm phát triển cộng đồng.
 Sản phẩm cho vay
Do nhu cầu và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng khác nhau, nên mức vay,
lãi suất, thời hạn và chu kỳ hoàn trả của các sản phẩm vay sẽ tuy theo khả năng của
khách hàng. Tuy nhiên, trên 95% khoản vay được sử dụng để tạo thu nhập do loại
sản phẩm này thật sự phù hợp với người nghèo và nghèo nhất. Quỹ tiết kiệm xã hôi
cung cấp các loại sản phẩm cho vay như sau:
- Hai loại sản phẩm cho vay tạo thu nhập cơ bản là: vay góp tuần dành cho
nhân dân lao động và vay góp tháng dành cho công nhân viên có thu nhập
thấp. Mỗi sản phẩm cho vay được sử dụng ưu tiên để tạo thu nhập và thực
hiện hoàn trả theo tuần hoặc tháng.
- Vay cải thiện nhà ở, cung cấp cho những khách hàng có kết quả hoàn trả vốn
vay tốt trong 3 chu kỳ vay và cũng dành cho những khách hàng thuộc đối
tượng của Dự án Nâng cấp đô thị Việt Nam. Sản phẩm này được sử dụng để
cải thiện điều kiện nhà ở của khách hàng.
- Vay cải thiện nhà ở cho cán bộ đòan viên công đòan gặp khó khăn về nhà ở.
- Vay kinh doanh cung cấp cho những khách hàng thực hiện cơ sở sản xuất
nhỏ có khả năng tạo việc làm cho thành viên trong gia đình hay cho cộng
đồng.
- Vay cải thiện môi trường có thể cung cấp cho những khách hàng hay nhóm
khách hàng để cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường của cá nhân hoặc cộng
đồng.
- Vay xây nhà, cung cấp cho người lao động nghèo tái định cư để xây nhà mới
theo dự án CEP-BTC (Bỉ).

 Sản phẩm tiết kiệm:
- Các thành viên vay vốn quỹ tiết kiệm xã hội đều phải thực hiện tiết kiệm bắt
buộc. Tiền tiết kiệm này sẽ được sử dụng như nguồn quỹ cung cấp cho
những khách hàng gặp khó khăn trong hoàn trả cũng như những khách hàng
cần thêm vốn để thực hiện công việc tạo thu nhập.
- Sản phẩm tiết kiệm tự nguyện được cung cấp cho tất cả khách hàng như là
một nguồn quỹ an toàn và dễ dàng để khách hàng có thể sử dụng trang trải
những chi phí lớn.
- Sản phẩm giảm thiểu rủi ro
- Sản phẩm bào hiểm y tế tạo thuận lợi cho khách hàng tiếp cận những dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ công cộng.
- Sản phẩm phát triển Cộng đồng
- Phổ biến tài liệu về giáo dục sức khoẻ, vệ sinh cá nhân hay cộng đồng cho
khách hàng.


-

Thảo luận thông tin về các vấn đề xã hội.
Đa dạng hoá thông tin về ngành nghề và phát triển cơ sở sản xuất.

5.3. Các quỹ tiết kiệm xã hội ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có khá nhiều các quỹ tiết kiệm xã hội và có xu hướng tăng
lên,có khoảng 115 quỹ tín dụng vi mô và tiết kiệm được thành lập, cung cấp vốn
vay cho hơn 7.000 hộ với tổng số vốn lên tới 14 tỷ đồng tính đến năm 2013.Có thể
kể tên những tổ chức tiết kiệm tiêu biểu như : Quỹ tiết kiệm nhà ở dành cho người
có thu nhập thấp,Quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo,Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo
tự tạo việc làm (CEP)…các quỹ này thường hoạt động với những tiêu chí khác
nhau.Mặc dù hiện nay việc tiếp cận hoạt động dành cho người nghèo của các tổ
chức này còn nhiều hạn chế nhất là quỹ tiết kiệm hỗ trợ nhà ở dành cho người có

thu nhập thấp.Tuy nhiên Tại Việt Nam, gần 3 thập kỷ qua các quỹ tiết kiệm đã và
đang khẳng định được tầm quan trọng trong việc hỗ trợ người nghèo, người có thu
nhập thấp được tiếp cận các dịch vụ tài chính, ngân hàng một cách thuận tiện và
phù hợp. Các tổ chức quỹ tiết kiệm đang dần khẳng định vai trò nhất định của
mình trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.

Phần 3. Chính sách và định hướng ASXH
1.Chính sách AXXH










Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng cao và có lợi cho mọi nhóm dân được bổ
trợ bằng các chính sách bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội hiệu quả. Bảo vệ
việc chi cho mục đích xã hội và trợ giúp xã hội trong quá trình tái cấu trúc kinh
tế
Hệ thống theo dõi nghèo của Việt Nam đã bước đầu được cải thiện, hệ thống
này cung cấp thông tin cho hoạch định chính sách trong bối cảnh nền kinh tế
thay đổi nhanh chóng
Quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo: gắn công tác xóa đói, giảm nghèo với
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống chung của nhân dân và
huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, cận nghèo vượt
qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo và không bị tái nghèo.
Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, giảm khoảng cách giàu

nghèo.
Hội chữ thập đỏ hoạt động khá mạnh, các chính sách đối với thương bênh binh,
người già, trẻ em, người có công với cách mạng,…
Huy động vốn : Nhà nước ta đã có những chính ách thu hút vốn từ các doang
nghiệp trong và ngoài nước, từ các tổ chức quốc tế như FDI, IMF… Theo thống
kê, ngân sách TW đã phân bổ 1900 tỷ VNĐ cho chương trình, tổng vốn huy


×