Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Nguyên nhân gây tử vong mẹ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.6 KB, 3 trang )

Tên sách: Tử

vong mẹ ở Việt Nam.

Mã số: ĐVC 2609, Thư viện Đại học Y Hà Nội.
Chủ biên: PTS Trần Thị Chung Chiến.
NXB Y học – 1997.
(Trích lược một phần) Khi có thai, cơ quan sinh sản của phụ nữ phát triển hoàn
thiện. Sau khi đẻ, cơ quan sinh sản (trừ vú vẫn phát triển để tiết sữa) dần dần trở lại bình
thường. Thời gian trở lại bình thường của cơ quan sinh dục về hình thái và sinh lý là 6 tuần
lễ sau đẻ, cũng gọi là thời kì hậu sản.
Theo định nghĩa của WHO, tất cả những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp làm
cho người phụ nữ chết trong thời kì thai nghén, kể từ ngày đầu mang thai đến 42 ngày của
thời kì hậu sản đều xếp vào tử vong mẹ, trừ trường hợp chết vì tai nạn hay cố ý tự tử.
Trong định nghĩa này, ngoài các nguyên nhân trực tiếp là các tai biến và biến chứng thai
nghén và sinh đẻ (chảy máu, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thai nghén, nạo phá thai, đẻ khó,…)
còn những nguyên nhân gián tiếp là những bệnh của sản phụ xảy ra trong lúc có thai và cả
trước khi có thai mà vì thai nghén, sinh đẻ làm cho bệnh nặng lên gây chết mẹ (bệnh tim,
gan, sốt rét,…)
Người Việt Nam có câu “gái chửa, cửa mả” và mỗi lần sinh đẻ là một lần người phụ
nữ “vượt cạn” cũng là nói về sự nguy hiểm thường trực đối với người phụ nữ mỗi khi có
thai và sinh đẻ, liên quan đến sự chuyển biến từ một hiện tượng sinh lý bình thường nhanh
chóng thành bệnh lý, dẫn đến cái chết của người mẹ.
1/ Những nguyên nhân y học trực tiếp: chiếm hơn 80% tổng số ca chết mẹ ở các nước
đang phát triển.
A, Chảy máu sản khoa: đây là nguyên nhân chính, chiếm 30% tổng số ca chết
mẹ trên thế giới, hơn một nửa số ca chết đó ở các nước Nam Á và 19% ở các nước
Đông Nam Á. Chảy máu khó dự đoán trước và không thể phòng trừ được ngay.
B, Nhiễm khuẩn sau đẻ: là nguyên nhân phổ biến thứ 2, chiếm 20% các ca
chết mẹ. Nhiễm khuẩn sau đẻ thường liên quan đến việc nạo phá thai không an toàn,
thời gian chuyển dạ dài, đỡ đẻ không hợp vệ sinh. Tại Srilanka, nhờ loại trừ phá


thai, đã hạ tỉ lệ chết mẹ do nhiễm khuẩn sau kết thúc thai nghén từ 25% xuống còn
3% sau khoảng 30 năm.
C, Nhiễm độc thai nghén: Chiếm 10-15%, và xảy ra nhiều hơn ở 1 số nước
Mỹ Latin.
Triệu chứng: Tăng áp lực trong máu, phù mặt, chân tay và có protein trong
nước tiểu. Nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến sản giật, chết do suy tim,


thận và xuất huyết não. Ở Châu Phi, bệnh có xu hướng tiến triển nhanh vào giai
đoạn cuối của thai kì, thời gian bắt đầu có triệu chứng đến lúc chết chỉ có hơn 2
ngày. Ở các nước đang phát triển, bệnh thường gặp ở các phụ nữ quá trẻ và mang
thai lần đầu. Bệnh phổ biến ở phụ nữ da đen và Ấn Độ hơn phụ nữ da trắng. Nhiễm
độc thai nghén phụ thuộc vào chăm sóc sức khoẻ có chất lượng cao.
D, Đẻ khó/ Vỡ tử cung: Có thể từ phía mẹ (do thể chất kém, khung chậu nhỏ,
méo,…), có thể do ngôi thai bất thường, có thể do cả 2 (đầu và khung chậu không
cân đối). Nếu không điều trị chuyên khoa đủ cần thiết, sản phụ rất dễ chết do chảy
máu, vỡ tử cung, nhiễm khuẩn hoặc kiệt sức. Thường gặp ở những nước nghèo và
đang phát triển. Nguy cơ cao nhất với thai phụ quá trẻ, vóc người thấp nhỏ, từng gặp
biến chứng thai nghén. Vỡ tử cung hiếm gặp ở người mang thai lần đầu, phổ biến
hơn ở những người đã sinh nhiều con.
E, Nạo phá thai: Thường do nhiễm khuẩn hoặc chảy máu. Trên thế giới, tỉ lệ
nạo phá thai chiếm 30 - 45%o ở phụ nữ tuổi sinh đẻ . Nhìn chung, số phụ nữ nạo phá
thai ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn. Ước tính hàng năm có 100.000 - 200.000
phụ nữ thiệt mạng do nạo phá thai.
2/ Những nguyên nhân y học gián tiếp: Chiếm khoảng 20% trên thế giới.
A, Thiếu máu: Ở phụ nữ mang thai, tỉ lệ huyết sắc tố dưới 110g/lít là bị thiếu
máu. Ở các nước đang phát triển (trừ Trung Quốc), 2/3 số phụ nữ mang thai bị thiếu
máu. Tỉ lệ này ở các nước phát triển là 14%. Tỷ lệ cao hơn ở châu Á, châu Đại
Dương và châu Phi.
Thiếu máu làm giảm khả năng đề kháng. Bệnh nhẹ không trực tiếp gây tử

vong nhưng cùng với những nguyên nhân khác góp phần gây tử vong ở mẹ. Phụ nữ
thiếu máu dễ bị chết hơn khi mất máu, đồng thời dễ nhiễm khuẩn khi đẻ hơn.
B, Sốt rét: thường gặp ở người mang thai lần đầu. Có thể thấy một tỉ lệ nhỏ ở
các nước châu Phi và châu Á.
C, Viêm gan siêu vi trùng: Bệnh gặp nhiều ở phụ nữ mang thai hơn là phụ nữ
không mang thai, đồng thời tỉ lệ rủi ro ở phụ nữ mang thai cũng cao hơn gấp 3,5 lần
so với phụ nữ không mang thai.
3/ Những nguyên nhân không phải y học:
A, Trong thực tế có những nguyên nhân gây chết mẹ liên quan tới tính hợp lý của
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho thai phụ tác động đến biến chứng khi chuyển dạ
đẻ.
Ước tính có khoảng 10% sản phụ bị tăng biến chứng do ở xa sự giúp đỡ y tế và kết
quả là bị chết.


B, Những thiếu sót trong dịch vụ sức khoẻ: Hiện tượng này phổ biến trong các nước
đang phát triển. Những thiếu sót trong dịch vụ sức khoẻ bao gồm: thiếu thuốc, thiếu
trang thiết bị, thiếu máu để truyền, thiếu cán bộ được đào tạo, điều trị không cẩn
thận, xao lãng triệu chứng, không đủ giường nằm do bệnh viện quá tải,….
C, Những vấn đề về tình trạng xã hội: Địa vị của người phụ nữ trong cộng đồng
quyết định khả năng được chăm sóc y tế và chăm sóc sức khoẻ của họ. Ở những xã
hội mà phụ nữ được coi trọng hơn, họ sẽ nhận được sự chăm sóc của gia đình và trợ
giúp y tế tốt hơn những phụ nữ sống trong xã hội mà người phụ nữ kém được tôn
trọng hơn.
Tình trạng giáo dục cũng góp phần vào nhận thức xã hội đối với việc chăm
sóc sức khoẻ phụ nữ khi mang thai và sinh đẻ.





×