Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thử nghiệm sinh sản nhân tạo và ương giống cá ngựa hippocampus kuda (bleeker, 1852)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

LÊ VĂN HIỆP

THỬ NGHIỆM SINH SẢN NHÂN TẠO VÀ ƯƠNG GIỐNG
CÁ NGỰA Hippocampus kuda (Bleeker, 1852)
TẠI QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHÁNH HÒA - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

LÊ VĂN HIỆP

THỬ NGHIỆM SINH SẢN NHÂN TẠO VÀ ƯƠNG GIỐNG
CÁ NGỰA Hippocampus kuda (Bleeker, 1852)
TẠI QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngành:

Nuôi trồng thủy sản

Mã số:


60620301

Quyết định giao đề tài:

1013/QĐ-ĐHNT

Quyết định thành lập HĐ:
26/11/2015

Ngày bảo vệ:
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM QUỐC HÙNG
Chủ tịch Hội đồng:
PGS.TS. LẠI VĂN HÙNG
Khoa sau đại học:

KHÁNH HÒA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là một phần của đề tài cấp Tỉnh "Thử nghiệm
sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá ngựa” của Phòng NN&PTNT huyện Núi
Thành, tỉnh Quảng Nam do tôi làm chủ nhiệm đề tài và đã kiểm tra tiến độ đợt 2 xong.
Tôi xin cam đoan các kết quả, số liệu trình bày trong luận văn là kết quả
nghiên cứu và chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nào.

Tác giả

Lê Văn Hiệp


iii


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi đến Ban Giám Hiệu nhà trường, Viện Nuôi trồng Thuỷ
sản, Khoa sau đại học - Trường đại học Nha Trang sự kính trọng và lòng tự hào đã
được học tập và nghiên cứu tại trường trong những năm qua.
Xin chân thành cám ơn đến TS. Phạm Quốc Hùng đã giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Cho tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả
quý thầy cô đã giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Viện Nuôi trồng thuỷ sản - Trường đại học
Nha Trang.
Xin chân thành cảm ơn Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Núi Thành, UBND
huyện Núi Thành, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam đã tạo điều kiện cho
tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập cũng như hoàn thành cuốn luận văn này.
Cuối cùng, là lời cảm ơn đến gia đình đã động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều
trong suốt thời gian học tập cũng như nghiên cứu thực hiện đề tài.

Lê Văn Hiệp

iv


MỤC MỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... iii
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................iv
MỤC MỤC..................................................................................................................v

DANH MỤC THUẬT NGỮ VÀ CHỮ VIẾT TẮT...................................................viii
DANH MỤC CÁC BẢNG .........................................................................................ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ .......................................................................x
TRÍCH YẾU ĐỀ TÀI .................................................................................................xi
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 - TỔNG LUẬN .......................................................................................4
1.1 Sơ lược vai trò của cá ngựa ....................................................................................4
1.2 Tình hình nghiên cứu và nuôi cá ngựa trên Thế giới và ở Việt Nam.......................5
1.2.1 Đặc điểm hình thái cá ngựa đen .......................................................................... 5
1.2.2 Đặc điểm phân bố cá ngựa đen............................................................................ 5
1.2.3 Đặc điểm dinh dưỡng của cá ngựa ...................................................................... 5
1.2.3.1 Đặc điểm chung ............................................................................................... 5
1.2.3.2 Dinh dưỡng của cá ngựa giống......................................................................... 6
1.2.3.3 Dinh dưỡng của cá ngựa trưởng thành.............................................................. 7
1.2.3.4 Nhu cầu dinh dưỡng của cá ngựa...................................................................... 9
1.2.4 Đặc điểm sinh trưởng........................................................................................ 12
1.2.5 Đặc điểm sinh sản ............................................................................................. 12
1.2.6 Khả năng thích ứng với các yếu tố môi trường .................................................. 14
1.2.6.1 Nhiệt độ ......................................................................................................... 14
1.2.6.2 Ánh sáng........................................................................................................ 15
1.2.6.3 Độ mặn .......................................................................................................... 15
1.2.6.4 pH ............................................................................................................... 16
1.2.6.5 Oxy

........................................................................................................... 16

1.2.6.6 NH4+/NH3 ...................................................................................................... 16
1.2.6.7 NO3- / NO2- .................................................................................................... 17
1.2.7 Tình hình nuôi cá ngựa...................................................................................... 19
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................21

v


2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu.......................................................21
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu: ...................................................................................... 21
2.1.2 Thời gian nghiên cứu: ....................................................................................... 21
2.1.3 Địa điểm nghiên cứu: ........................................................................................ 21
2.2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................22
2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu ....................................................................... 22
2.2.2 Sản xuất giống cá ngựa ..................................................................................... 22
2.2.2.1 Hệ thống bể nuôi............................................................................................ 22
2.2.2.2 Nguồn nước nuôi dưỡng cá và ương giống..................................................... 23
2.2.2.3 Nuôi dưỡng cá trong bể xi măng có thể tích 4 m3 ........................................... 23
2.2.3 Ương cá ngựa giống từ khi sinh sản đến 4 cm ................................................... 24
2.2.4 Ương cá ngựa giống từ 4 cm lên đên 5 - 6cm .................................................... 25
2.2.4.1 Bố trí thí nghiệm ............................................................................................ 25
2.2.4.2 Hệ thống thí nghiệm...................................................................................... 25
2.2.4.3. Cá thí nghiệm................................................................................................ 26
2.2.4.4. Thức ăn......................................................................................................... 26
2.2.4.5. Chế độ quản lý chăm sóc............................................................................... 26
2.2.5. Phòng trị bệnh.................................................................................................. 27
2.2.6. Phương thức thu thập và xử lý số liệu .............................................................. 27
CHƯƠNG 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................29
3.1 Chọn cá bố mẹ, nuôi dưỡng và cho đẻ..................................................................29
3.2 Kỹ thuật ương nuôi cá giống ................................................................................29
3.2.1 Ương cá ngựa giống từ khi sinh sản đến 4 cm ................................................... 29
3.2.1.1 Kết quả sinh sản và tỷ lệ sống của cá ngựa giống đến cỡ 4 cm ....................... 29
3.2.1.2 Tăng trưởng về chiều dài của cá ngựa giống ương đến 4cm. .......................... 32
3.2.1.3 Tăng trưởng về khối lượng của cá ngựa giống ương đến 4cm........................ 33
3.3 Ương cá ngựa giống từ 4 cm (Giai đoạn cho ăn hoàn toàn bằng Mysida đông lạnh)

đến 5 – 6 cm ..............................................................................................................36
3.3.1 Thí nghiệm ảnh hưởng của các loại độ mặn khác nhau lên tăng trưởng về chiều
dài và khối lượng của cá ............................................................................................ 36
3.3.1.1 Điều kiện môi trường các bể thí nghiệm độ mặn ............................................ 36
3.3.1.2 Ảnh hưởng của độ mặn lên sinh trưởng.......................................................... 37
vi


3.3.2 Ương cá giống từ 4 cm đến 6 cm....................................................................... 41
3.3.2.1 Kết quả ương nuôi của 2 đợt .......................................................................... 41
3.3.2.2 Tăng trưởng về chiều dài ở các bể ương nuôi cả hai đợt. ................................ 41
3.3.2.3 Tăng trưởng về khối lượng ở cá ương trên 4cm lên 5-6 cm. ........................... 42
3.4 Phòng trị bệnh......................................................................................................46
CHƯƠNG 4 - KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT................................................................47
4.1 Kết luận ...............................................................................................................47
4.2 Đề xuất ý kiến......................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................48
PHỤ LỤC

vii


DANH MỤC THUẬT NGỮ VÀ CHỮ VIẾT TẮT
CITES

Convention on International Trade in Endangered Species of
Flora and Fauna(Công ước về buôn bán quốc tế loài nguy cấp
của Flora và Fauna

DHA


Docosa Hexaenoic Acid

EPA

Eicosa Pentaenoic Acid

HUFA

Highly unsaturated fatty acid

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

PUFA

Polyunsaturated fatty acid

ppm

parts per million

SSS

Sức sinh sản

TS.

Tiến sĩ


UBND

Uỷ ban nhân dân

viii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sinh trưởng của cá ngựa đen nuôi. .............................................................12
Bảng 1.2: Sức sinh sản của một số loài cá ngựa cái và khả năng ấp của cá ngựa đực .13
Bảng 1.3: Thời gian phát triển phôi của một số loài cá ngựa trên thế giới. .................13
Bảng 3.1: Tỷ lệ sống khi vận chuyển và tỷ lệ sinh sản ..............................................29
Bảng 3.2: Số lượng cá giống sau 2 đợt sản xuất và tỷ lệ sống ....................................29
Bảng 3.3: Các yếu tố môi trường trong bể nuôi đợt 1.................................................30
Bảng 3.4: Các yếu tố môi trường trong bể nuôi đợt 2.................................................31
Bảng 3.5: Sinh trưởng của cá ngựa ương đến 4 cm ....................................................34
Bảng 3.6: Một số yếu tố môi trường trong hệ thống bể thí nghiệm độ mặn ................36
Bảng 3.7: Các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều dài của cá ương ở các mức độ mặn ........38
Bảng 3.8: Các chỉ tiêu sinh trưởng về khối lượng của cá ương ở các mức độ mặn .....40
Bảng 3.9: Tỷ lệ sống cá ương từ 4cm đến 6 cm ở cả 2 đợt .......................................41
Bảng 3.10: Sinh trưởng của cá ngựa ương đến 6cm ...................................................43
Bảng 3.11: Các yếu tố môi trường trong bể ương lên 5-6 cm (đợt 1)..........................44
Bảng 3.12: Các yếu tố môi trường trong bể nuôi ương nuôi lên 5-6 cm (đợt 2) ..........45

ix


DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình 2.1 Hình dáng ngoài cá ngựa đen đực (a) và cái (b) ..........................................21

Hình 2.2 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu .................................................................22
Hình 2.3. Hệ thống các bể ương trong trại sản xuất giống .........................................22
Hình 2.4 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống......... 25
Hình 2.5 Hệ thống bể nhựa thí nghiệm đặt trong Trại giống......................................26
Hình 3.1 Tỷ lệ sống của cá ngựa từ khi mới sinh đến 4 cm .......................................30
Hình 3.2 Tăng trưởng về chiều dài của cá ngựa đợt 1................................................32
Hình 3.3 Tăng trưởng về chiều dài của cá ngựa đợt 2................................................32
Hình 3.4 Tăng trưởng về khối lượng của cá ngựa đợt 1.............................................33
Hình 3.5 Tăng trưởng về khối lượng của cá ngựa đợt 2............................................33
Hình 3.6: Sinh trưởng về chiều dài của cá ở các mức độ mặn....................................38
Hình 3.7: Sinh trưởng về chiều dài của cá ở các mức độ mặn....................................38
Hình 3.8: Sinh trưởng về khối lượng của cá ở các mức độ mặn.................................39
Hình 3.9: Khối lượng của cá sau 7 tuần ương ở các mức độ mặn ..............................40
Hình 3.10 Tăng trưởng về chiều dài ở các bể cá ương trên 4cm đợt 1 .......................41
Hình 3.11 Tăng trưởng về chiều dài ở các bể cá ương trên 4cm đợt 2 .......................42
Hình 3.12 Tăng trưởng về khối lượng ở bể ương cá ngựa trên 4 cm..........................42
Hình 3.13 Tăng trưởng về khối lượng ở bể ương cá ngựa trên 4 cm đợt 2 .................43
Hình 3.14 Bệnh cá ngựa do nguyên sinh động vật gây ra ..........................................46

x


TRÍCH YẾU ĐỀ TÀI
Những nghiên cứu trước đây cũng như việc sản xuất giống và ương nuôi cá ngựa
thương phẩm hiện nay chủ yếu tại các vùng có độ mặn cao và ổn định. Tuy nhiên, cá
ngựa đen sống ở cửa sông, nơi có độ mặn thường xuyên biến động nguồn thức ăn cho
cá ở giai đoạn giống(mới sinh cho đến dưới 4cm) cũng khó tìm trong những ngày mưa
gió ở khu vực Quảng Nam. Do đó, để xây dựng một qui trình sản xuất giống và nuôi
cá ngựa thương phẩm ổn định, có thể nhân rộng cho nhiều vùng, nhiều địa phương,
việc xác định độ mặn, tim thức ăn và mùa vụ nuôi thích hợp cho sản xuất giống và

nuôi cá ngựa thương phẩm cũng là yếu tố cần thiết.
Trước những yêu cầu cấp thiết đó, tôi đã thực hiện đề tài Thử nghiệm sinh sản
nhân tạo và ương giống cá ngựa Hippocampus kuda (Bleeker, 1852) tại Quảng Nam.
Đề xuất được quy trình sản xuất giống cá ngựa phù hợp với điều kiện thực tiễn tại
Quảng Nam, góp phần tạo ra nghề nuôi mới, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người dân ven biển.
Từ cá đực mang trứng trong tự nhiên được đưa về cho sinh sản nhân tạo và cho
ương cá con lên kích cở 4 cm bằng cách sử dụng thức ăn Copepoda, Nauphli Artemia.
Tiếp tục cho ương cá lên kích cở 6 cm bằng thức ăn Mysida đông lạnh, để xác
định được độ mặn thích hợp cho cá ở giai đoạn ương bố trí thí nghiệm với 4 nghiêm
thức 5‰, 20‰, 25‰, nước biển bình thường 30‰.
Thời gian thực hiện từ tháng 7.10.2014 – 01.11.2015, việc cho sinh sản nhân tạo
và ương cá ngựa lần đầu tiên được thực hiện tại Quảng Nam. Bước đầu đề tài chúng
tôi cũng đã thành công với một số kết quả như sau:


Cá Ngựa đen (H. kuda) cho sinh sản lần đầu đạt tỷ lệ đẻ là 80% - 83%, bình

quân mỗi cá đực đẻ khoảng 498 – 501 con cá con; tỷ lệ sống của cá ngựa giống đến
4cm đạt 65-79,9%.


Kích thước trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ương đến 4 cm là:

40,63±1,81 mm đến 46,7±3,21 mm


Khối lượng trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ương đến 4cm là:

209,27±30,18 mg đến 346,80±58,41 mg.

xi




Tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá về chiều dài ương đến 4 cm là từ 2,31%

đến 2,48 % / ngày.


Tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá về khối lượng ương đến 4 cm là từ 5,1%

đến 5,61 % / ngày.
Chúng tôi cũng đã cho làm thí nghiệm ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau
lên sinh trưởng và phát triển của cá ngựa kết quả thu được:
+ Kích thước trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ở độ mặn 15‰: 61,70 ± 0,70a
mm; 20‰: 63,90 ± 0,46b mm; 25‰: 67,23 ± 0,67c mm; 30‰: 67,30 ± 0,72c mm.
+ Khối lượng trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ở các mức độ mặn 15‰ :
668,77 ± 28,84a mg; 20‰: 712,23 ± 8,80b mg; 25‰: 752,83 ± 13,04c mg; 30‰:
759,60 ± 19,77c mg.


Kích thước trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ương đến 6 cm là:

58,53±3,86 mm đến 65,60±2,40 mm


Khối lượng trung bình của cá ngựa Đen (H. kuda) ương đến 6cm là:

613,13±50,28 mg đến 781,1±40,50 mg.



Tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá về chiều dài ương đến 6 cm là từ 0,28%

đến 0,52 % / ngày.


Tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá về khối lượng ương đến 6 cm là từ 0,97%

đến 11,685,61 % / ngày.
1. Việc nuôi dưỡng cá bố đẻ bước đầu đã ứng dung thành công trong việc chọn cá
bố cho đẻ tỷ lệ thành thục và sinh sản đạt 80%, cũng đã thử nghiệm chọn mua cá bố tại
địa phương và cá cho sinh sản tốt, tỷ lệ sống cao, sinh trưởng phát triển tốt.
2. Ương nuôi cá giống lên 4 cm mặt dầu ở đợt 1 tuy khó khăn về thức ăn
Copepoda sống do ở thời điểm này đang là mùa mưa, nhưng với nguồn thức ăn
Copepoda đông lạnh và Nauplii Artemia thì việc ương nuôi cũng đem lại kết quả tốt
tăng trưởng trung bình sau 80 ngày tuổi ở đợt 1là: 40,63,4±1,81mm đến
42,73±2,57mm và tăng trưởng về khối lượng là 209,27±30,18 mg đến 282,80±38,40
mg; với nguồn thức ăn Copepoda gây nuôi ở đợt 2 kết quả đêm lại cao tăng trưởng về
chiều dài từ 42,9±3,42 mm đến 44,83±1,93 mm và tăng trưởng về khối lượng từ
278,3±41,11 mg đến 346,80±58,41 mg.
xii


3. Cá ngựa giai đoạn cá giống từ 4 – 7 cm có thể sinh trưởng ở điều kiện độ mặn
từ 15‰ - 30‰. Tuy nhiên điều kiện độ mặn tốt nhất cho sinh trưởng của cá là 25‰ 30‰ với tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng (2,05 - 2,07 %/ngày). Ở điều kiện
độ mặn thấp hơn 25‰ thì cá sinh trưởng chậm, tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối
lượng dao động trong khoảng (1,81 – 1,91 %/ngày)
4. Ương nuôi cá ngựa từ 4cm đến 6 cm ở cả 2 đợt cá đều sinh trưởng và phát triển
tốt, với nguồn thức ăn Misida đông lạnh và đôi lúc cho ăn Artemia, Ruốt đông lạnh cở

nhỏ tỷ lệ sống đạt Đợt 1: 86% đến 95%; Đợt 2: 96 – 99% kích thước bình quân sau
40 ngày nuôi là: Đợt 1. 58,53±3,86 mm đến 63,33±3,59 mm; Đợt 2. 60,03±5,55 mm
đến 65,60±2,4 mm và khối lượng bình quân đạt Đợt 1. 613,13±50,28 mg đến
719,43±219,70 mg và Đợt 2. 619,37±155,57 mg đến 781,1±40,50 mg.
Để hoàn thiện hơn quy trình sản xuất giống và ương nuôi cá ngựa cần có thêm:
1. Nghiên cứu loại thức ăn mới thay thế được thức ăn Copepoda và Misida để
người nuôi chủ động trong việc sản xuất giống cá ngựa.
2. Hiện nay, trong nuôi cá ngựa giống một trong những vấn đề vẫn còn thường
gặp đó là dịch bệnh làm cho cá chết hàng loạt, vì vậy cần nghiên cứu các bệnh trên cá
ngựa để giúp hạn chế rủi ro.

xiii


MỞ ĐẦU
Các loài thuộc giống cá ngựa có dược tính cao nên được dùng làm thuốc chữa
bệnh ở nhiều nước châu Á. Còn ở phương Tây cá ngựa được nuôi làm cảnh. Theo ước
tính hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa được tiêu thụ trên thế giới cho các mục
đích trên. Chỉ tính riêng ở Trung Quốc hơn 20 tấn cá ngựa khô (khoảng 6 triệu con)
được sử dụng hàng năm cho mục đích đông y [31], [36]. Trước đây kích thước thương
phẩm của cá ngựa thường lớn hơn 120 mm chiều dài thân nhưng hiện nay chỉ ở mức
lớn hơn 60 mm do số lượng cá lớn ngày càng giảm [12].
Việt Nam là một trong 5 nước đứng đầu về xuất khẩu cá ngựa trên thế giới, cùng với
Ấn Độ, Indonesia, Mexicô và Thái Lan [47], [31]. Lượng cá ngựa xuất khẩu của Việt
Nam ước đoán khoảng 6,5 tấn (tương đương với 2,2 triệu con) mỗi năm, chủ yếu là sang
Trung Quốc [31].

Do nhu cầu tiêu thụ cá ngựa ngày càng lớn, dẫn đến sự khai thác quá mức, làm
cho nguồn lợi cá ngoài tự nhiên ngày càng giảm. Điều này thể hiện qua sự suy giảm
kích thước trung bình của cá khai thác được và sản lượng đánh bắt hàng năm. Vì thế

việc phát triển nghề nuôi cá ngựa vừa để tạo sản phẩm, vừa nhằm giảm áp lực khai
thác tự nhiên, góp phần bảo vệ nguồn lợi là điều hết sức cần thiết.
Nghề nuôi cá ngựa đã được chú ý rộng rãi ở khắp nơi. Nuôi cá ngựa có tiềm năng
rất lớn về mục đích bảo tồn và khả năng phát triển trở thành một nghề đem lại lợi
nhuận cho người nuôi trồng thủy sản tại các quốc gia có nguồn lợi cá ngựa. Ngày nay,
một số nghị định thư đã được thiết lập cho một số loài vùng ở nhiệt đới có nguy cơ tiệt
chủng ở các quốc gia thuộc khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương [33]. Ở Việt Nam kể từ
tháng 5 năm 2004, việc xuất khẩu cá ngựa được kiểm soát bởi CITES (Convention on
International Trade in Endangered Species of Flora and Fauna). Để tiếp tục xuất khẩu
cá ngựa, Việt Nam phải chứng minh việc thương mại cá ngựa không đe dọa đến sự tồn
tại lâu dài của quần đàn cá ngựa tự nhiên [31].
Ở nước ta, nghề nuôi cá ngựa mang tính chất thương mại chỉ mới xuất hiện vài
năm gần đây, chủ yếu ở qui mô nhỏ và chưa được phổ biến rộng rãi. Một trong những
trở ngại chính cho việc phát triển nuôi cá ngựa là người nuôi chưa chủ động được về
số lượng và chất lượng thức ăn trong quá trình ương nuôi [55]. Loại thức ăn chủ yếu
cho nuôi cá ngựa giống hiện nay là động vật phù du (thành phần chủ yếu là Copepoda)
thu từ các vực nước tự nhiên. Tuy nhiên nguồn thức ăn này thường không ổn định, khó
1


khăn trong gây nuôi sinh khối với trình độ của người nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
Thông thường Copepoda được gây nuôi trong ao đất hoặc thu từ các ao nuôi hải sản.
Tuy nhiên mật độ Copepoda trong các ao này thường biến động lớn, dễ bị tàn lụi khi
thời tiết thay đổi hay vào mùa mưa. Do vậy cần phải tìm loại thức ăn thay thế đảm bảo
về chất lượng và chủ động được số lượng, chẳng hạn như khi mật độ Copepoda trong
ao cao ta có thể thu hoạch và lưu giữ trong tủ đông để sử dụng dần.
Do nhu cầu cá ngựa cao nên nguồn lợi cá ngựa tự nhiên hiện bị khai thác quá
mức, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi khác trên thế giới . Cá ngựa hiện tại
đã trở thành mặt hàng quí hiếm. Vì thế cần phải phát triển nghề nuôi cá ngựa vừa để
tạo sản phẩm cung ứng cho các thị trường trong và ngoài nước, vừa nhằm giảm áp lực

khai thác tự nhiên, góp phần bảo vệ nguồn lợi. Đồng thời sẽ tạo công ăn việc làm cho
một bộ phận ngư dân ven biển, góp phần tăng thu nhập.
- Đây là đối tượng nuôi mới ở Quảng Nam nói riêng và nhiều tỉnh miền Trung
Việt Nam nói chung.
- Cá ngựa có giá trị kinh tế rất cao (cá cỡ 5 – 7 cm có giá 12.000 – 15.000 đ/con),
nhu cầu thị trường tương đối lớn (hiện Việt Nam có một số công ty được cấp giấy
phép xuất khẩu cá ngựa và được tổ chức CITES thế giới chấp thuận cho xuất khẩu nếu
chứng nhận được cá ngựa có nguồn gốc nuôi nhân tạo.
- Quảng Nam có nhiều diện tích dọc ven biển, phù hợp với môi trường sống của
cá ngựa. Đồng thời có nhiều trại sản xuất tôm giống kém hiệu quả có thể chuyển sang
nuôi cá ngựa. Ngoài ra, Quảng Nam có một số cơ sở nuôi lồng bè nên có thể tận dụng
các lồng bè này nuôi kết hợp cá ngựa.
- Nguồn thức ăn để nuôi cá ngựa: Quảng Nam có một diện tích lớn vùng nuôi
thủy sản nước lợ, nên có thể tận dụng các ao nuôi này để gây nuôi thức ăn tươi sống
(Copepodaa) làm thức ăn cho cá ngựa giống.
- Thức ăn sử dụng phổ biến hiện nay cho nuôi cá ngựa ở giai đoạn thương phẩm
là tôm cám (Mysida) và ruốc (Acetes) có nhiều ngoài tự nhiên, giá thành rẻ nên có thể
chủ động trong quá trình nuôi bằng cách thu mua, cấp đông và lưu trữ trong tủ đông.
Những nghiên cứu trước đây cũng như việc sản xuất giống và ương nuôi cá ngựa
thương phẩm hiện nay chủ yếu tại các vùng có độ mặn cao và ổn định. Tuy nhiên, cá
ngựa đen là sống ở cửa sông, nơi có độ mặn thường xuyên biến động nguồn thức ăn
cho cá ở giai đoạn giống (mới sinh cho đến dưới 4cm) cũng khó tìm trong những ngày
2


mưa gió ở khu vực Quảng Nam. Do đó, để xây dựng một qui trình sản xuất giống và
nuôi cá ngựa thương phẩm ổn định, có thể nhân rộng cho nhiều vùng, nhiều địa
phương, việc xác định độ mặn, tìm thức ăn và mùa vụ nuôi thích hợp cho sản xuất
giống và nuôi cá ngựa thương phẩm cũng là yếu tố cần thiết.
Trước những yêu cầu cấp thiết đó, tôi đã thực hiện đề tài "Thử nghiệm sinh sản

nhân tạo và ương giống cá ngựa Hippocampus kuda (Bleeker, 1852) tại Quảng
Nam" là cần thiết.
* Mục tiêu của đề tài
Đề xuất được quy trình sản xuất giống cá ngựa phù hợp với điều kiện thực tiễn tại
Quảng Nam, góp phần tạo ra nghề nuôi mới, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người dân ven biển
* Nội dung nghiên cứu.
- Thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá ngựa.
- Ương cá ngựa giống từ khi mới nở đến 4 cm.
- Ương cá ngựa giống từ 4 cm đến 5 – 6 cm.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về khoa học: Hoàn chỉnh qui trình sản xuất giống tạo cơ sở xây dựng quy trình
nuôi thương phẩm cá ngựa. Góp phần bảo vệ nguồn lợi, quần đàn của cá ngựa.
- Ý nghĩa thực tiễn: Hoàn thiện qui trình sản xuất giống, từ đó chủ động được
con giống để phục vụ cho nuôi thương phẩm cá ngựa bằng lồng, bè và trong bể xi
măng. Giúp cho nghề nuôi cá ngựa ngày một phát triển.

3


CHƯƠNG 1 - TỔNG LUẬN
1.1 Sơ lược vai trò của cá ngựa
Ở Châu Âu, con người đã biết đến giá trị của cá ngựa từ vài trăm năm trước Công
Nguyên. Ở Châu Á, Trung Quốc chế biến cá ngựa thành thuốc cổ truyền cách đây 600
năm [47]. Gần đây các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu thành phần
phân tử các hợp chất trong cá ngựa ở cấp độ gen và protein [58]. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng cá ngựa chứa các phân tử miễn dịch có hai nguồn gốc khác nhau: từ yếu tố
di truyền bẩm sinh và từ hệ miễn dịch do quá trình chọn lọc tự nhiên. Dạng miễn dịch
từ quá trình tiến hóa qua chọn lọc tự nhiên bao gồm các peptide kháng lại các vi sinh
vật, các nhân tố tăng cường khả năng tiêu diệt các tế bào ngoại lai, các protein chống

oxy hóa, các phân tử có khả năng giải độc, các lectin và protein có liên quan đến quá
trình tạo máu…Các phân tử miễn dịch từ di truyền bẩm sinh của cá ngựa có thể cùng
tác dụng trong quá trình chống oxy hóa và chống lão hóa của cơ thể. Một điều đáng
nói nữa là cá ngựa có chứa enzyme sinh tổng hợp prostaglandin là chất đóng vai trò
điều hòa thần kinh, hormone và hệ miễn dịch. Prostaglandin và tiền chất của nó có khả
năng kích thích sự tiết hormone oxytocin và sự cường dương bằng cách tác động đến
vùng điều khiển tình dục của tuyến yên trong não người. Ngoài ra chính hàm lượng
cao của DHA – vật liệu cơ bản để sản sinh tinh trùng, liên quan chặt chẽ đến khả năng
sản sinh tinh trùng được tìm thấy trong cá ngựa đã giải thích và chứng minh cho tác
dụng tăng cường sinh lý ở nam giới của cá ngựa.
Khi nghiên cứu về thành phần các chất trong cá ngựa Đỗ Tuyết Nga và cộng sự
(1991)[16] cho thấy cá ngựa đen có thành phần lipid cao nhất ở phần nội quan, chiếm
14,67% ÷ 15,27%; thành phần protein cao nhất ở phần đầu, da và xương. Những axít
amin không thay thế rất cần thiết cho con người như: Licine, Histidine, Arginine,
Threonine, Phelinaline, Valine, Methionine, Leucine, Isoleucine đều có trong cá ngựa.
Hàm lượng các axít amin cần thiết cho sự tăng trưởng của trẻ em như Histidine,
Arginine và Methionine đều cao ở cá ngựa đen.
Cá ngựa còn được dùng để chữa một số bệnh như các chứng nhức mỏi, viêm
nhiễm, viêm tấy đường hô hấp, những vết thương do té ngã, gãy xương, bệnh tim và
tuần hoàn máu, cao cholesterol, bệnh gan thận, hình thành hệ miễn dịch, chữa bệnh
khó sinh nở [4], [14], [47]. Ngoài ra cá ngựa có hình dạng kỳ lạ nên còn được nuôi làm
4


cảnh ở nhiều nước trên thế giới. Như vậy cá ngựa là một mặt hàng quí và rất cần cho
con người.
1.2 Một số đặc điểm sinh học và tình hình nghiên cứu và nuôi cá ngựa trên Thế
giới và ở Việt Nam.
1.2.1 Đặc điểm hình thái cá ngựa đen
Cá ngựa có hình dạng đặc biệt với cơ thể gồm nhiều đốt xương vòng, các đốt

vòng có gai gồm: 1, 4, 7 và 11 ở thân; 1, 4, 8, 11, 14, 16, 18 và 20 ở đuôi. Đầu to có
dạng như đầu ngựa gập thẳng góc với trục thân. Không có vây đuôi, đuôi thường được
cuộn lại để bám vào giá thể [1], [12].
Cơ thể cá thường có màu đen, kết cấu bề mặt da dạng sần, hoặc có màu vàng
lợt, màu kem với các chấm tối màu (đặc biệt là với con cái) hoặc màu nâu đỏ nhạt, có
thể là màu cát. Chiều dài lớn nhất 30 cm, thường gặp 10 – 20 cm [1], [12].
1.2.2 Đặc điểm phân bố cá ngựa đen
Cá ngựa bơi đứng, di chuyển chậm nên thường “ngụy trang” trong các thảm
cỏ biển, rạn san hô, màu sắc thay đổi theo môi trường sống [12]. Cá ngựa đen phân bố
ở vùng biển Ấn Độ-Thái Bình Dương; Pakistan và Ấn Độ, Australia, New Guinea,
Indonesia, Malaysia,Philippines, Thái Lan, đến Nam Nhật Bản, Trung Quốc, Đài
Loan, Hawaii. Ở Việt Nam từ Bắc đến Nam ở vùng nước ven bờ, đặc biệt là ở Khánh
Hòa và Bình Thuận [1], [12], [36].Cá ngựa đen có khả năng sống ở biển nhưng đẻ ở
cửa sông [8], [9].
1.2.3 Đặc điểm dinh dưỡng của cá ngựa
1.2.3.1 Đặc điểm chung
Một trong những khó khăn gặp phải trong nuôi các loài cá biển là tìm ra loại
thức ăn thích hợp, đảm bảo về chất lượng và chủ động được về số lượng. Cá ngựa là
một đối tượng có giá trị kinh tế được nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam rất
quan tâm nghiên cứu, nuôi thử nghiệm. Để nghề nuôi được phát triển thì ngoài việc
nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản, phân bố, môi trường..., vấn đề dinh dưỡng
đã được nhiều tác giả quan tâm.
Theo một số tác giả, cá ngựa thuộc nhóm bắt mồi ít chủ động. Mõm có dạng
ống, không có răng, không có dạ dày, ruột thẳng [44]. Chúng theo dõi con mồi ở
nhiều tư thế, vị trí khác nhau. Trong điều kiện nuôi nhốt chúng có thể ăn nổi hoặc ăn
đáy ngay cả khi con mồi bám vào thành bể. Khi phát hiện con mồi, cá chọn vị trí thích
5


hợp và đớp mồi nhanh. Tần suất bắt mồi trong 5 phút là 10 - 15 lần, nếu những thức

ăn không thích hợp cá sẽ nhả ra [10], [12].
Hầu hết các loài cá ngựa có phổ thức ăn tương đối giống nhau: Artemia,
Mysida, Copepoda, Rotifer, Isopoda... [39], [44], [56], [58]. Chúng có thể tiêu hóa các
loại mồi khác như: Amphipoda, cá nhỏ hoặc động vật không xương khác. Theo quan
sát của Đỗ Hữu Hoàng và cộng sự (1998) ở ngoài tự nhiên một số loài cá ngựa không
ăn thực vật như tảo và rong biển. Nhưng các mảnh cỏ biển được tìm thấy trong ruột
của một số loài như: H. guttulatus, có thể do chúng bám vào thức ăn của cá ngựa và
theo vào trong ruột [28].
Cá ngựa đen bắt mồi vào ban ngày, từ 6 giờ đến 18 giờ. Hoạt động bắt mồi
mạnh nhất vào 8 giờ sáng và 14 giờ chiều, nhưng lúc 14 giờ cường độ bắt mồi thấp
hơn lúc 8 giờ, ban đêm chúng ngừng kiếm ăn [10], [12], [17], [19]. Theo Trần Sương
Ngọc (1997)[17], Trương Sĩ Kỳ (2000)[12] cá ngựa đen có thể bắt mồi vào ban đêm
với điều kiện chiếu sáng liên tục.
1.2.3.2 Dinh dưỡng của cá ngựa giống
Qua phân tích mẫu thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa con (5 - 15 mm)
trong bể, cho ăn sinh vật nổi thu vớt ngoài tự nhiên thì thấy trong đó chủ yếu là bọn
Copepoda, các loài giáp xác lớn như Lucife, Amphipoda. Và không gặp thực vật trong
ống tiêu hóa của chúng [6], [10]. Theo Đào Xuân Lộc và cộng sự (1994)[15] khi sử
dụng thức ăn là tảo Spirulina khô, men bánh mì thì cá ngựa con không hấp thụ được và
tử vong sau 3 – 5 ngày nuôi. Kết quả nghiên cứu của Woods (2003b)[55] cho biết cá
ngựa giống loài H. abdominalis khi mới sinh không thể sử dụng được thức ăn tổng hợp
hiệu Golden Pearls, hầu hết chúng bị chết.
Các nghiên cứu trước đây của Trương Sỹ Kỳ và cộng sự (1993)[8], Vicent
(1996)[47] cho rằng thức ăn của cá ngựa giai đoạn giống là những động vật nổi
(zooplankton) đang còn sống và di động, phù hợp với kích thước của miệng. Nhưng
những năm sau đó đã có những nghiên cứu thành công cho cá ngựa giai đoạn giống ăn
thức ăn đông lạnh. Woods (2003b)[55] đã thành công nuôi cá ngựa giống loài
H.abdominalis khi cho ăn Copepoda đông lạnh (Cyclop-eeze Copepoda). Kết quả
nghiên cứu cũng xác định cá ngựa 1 tháng tuổi có thể tập cho ăn thức ăn đông lạnh mà
không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, nhưng tốc độ sinh trưởng chậm. Cá ngựa 2 tháng tuổi

có thể tập cho ăn Cyclop-eeze Copepoda với tỷ lệ sống và sinh trưởng thấp, và có thể
6


tập cho ăn Golden Pearls mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống nhưng sinh trưởng chậm.
Có nhiều sản phẩm đông lạnh được bán trên thị trường phục vụ cho nghề nuôi cá ngựa
giống [48]. Hiện nay một số cơ sở sản xuất cá ngựa đen tại Việt Nam đã thành công
trong nuôi cá ngựa giống bằng thức ăn là Copepoda đông lạnh kết hợp với Artemia
nauplii hay Copepoda sống (Copepoda được thu thập trong các ao nuôi tôm và cá,
bằng lưới vớt động vật nổi (mắt lưới 120 μm)) [13], [33].
Khi nghiên cứu về tính chọn lọc thức ăn của cá, Payne & Rippingale
(2000)[37] đã nhận thấy rằng ở giai đoạn 5 ngày đầu cá thích ăn Copepoda nauplii
hoặc những cá thể Copepoda có kích thước nhỏ. Sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ngựa
giống lớn hơn khi cho ăn bằng Copepoda nauplii so với cho ăn Artemia nauplii.
Copepoda nauplii được cá giống tiêu hóa rất tốt, trong khi đó Artemia nauplii thì không
thể. Khi cho cá ăn Copepoda có kích thước khác nhau, cá ngựa sau 5 ngày tuổi thích
những con có kích thước lớn hơn và tỷ lệ ăn tối đa là 214 Copepoda nauplii/h [41].

Khả năng phân loại và tiêu hóa thức ăn của cá có liên quan đến giai đoạn phát
triển của chúng. Cá có thể tiêu hóa hoàn toàn thức ăn trong 2,5 giờ đối với nhóm 5
ngày, 3,5 giờ ở nhóm 10 ngày và 4 giờ ở nhóm 15 ngày sau khi sinh [41].
Để xác định thời điểm cho ăn ban đầu thích hợp cho ương nuôi cá, Sheng và
cộng sự (2007)[42] đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thiếu thức ăn lên khả năng bắt
mồi, sinh trưởng và tỷ lệ sống loài Hippocampus trimaculatus Leach và H.kuda
Bleeker vừa mới sinh. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của loài H. trimaculatus cho ăn sau
khi nhịn đói 24 giờ là cao nhất. Thấp nhất ở cá cho nhịn đói đến 72 giờ sau khi đẻ. Và
tất cả cá đều chết sau 6 ngày nuôi. Tỷ lệ sống của loài H. kuda ở nhóm cho ăn sau khi
đẻ 24 và 48 giờ là cao nhất trong khoảng 7 ngày sau khi đẻ. Khi cho cá nhịn đói 72 giờ
và lâu hơn nữa cá có tỷ lệ sống thấp. Kết quả nghiên cứu nhận thấy cá ngựa con mới
sinh có thể ăn thức ăn ngay, nhưng tỷ lệ cá con có thức ăn trong ruột chưa đạt 100%.

Như vậy trong ương nuôi cá ngựa giống có thể sử dụng các loại thức ăn khác
nhau. Tuỳ điều kiện cụ thể, loài cá nuôi mà chọn loại thức ăn cho phù hợp, có thể chủ
động được về số lượng thức ăn, đảm bảo về chất lượng và có hiệu quả kinh tế cao.
1.2.3.3 Dinh dưỡng của cá ngựa trưởng thành
Nghiên cứu về dinh dưỡng cá ngựa giai đọan trưởng thành hầu hết các tác giả
đều nhận định: đối với cá lớn có kích thước lớn hơn 45 mm, phổ thức ăn của chúng
hoàn toàn thay đổi. Cá dinh dưỡng chủ yếu các giống thuộc họ tôm Palaemonidae,
7


nhóm bơi nghiêng. Ngoài ra trong ống tiêu hóa của chúng còn có ấu trùng giáp xác và
thân mềm. Nhưng số lượng và tần số xuất hiện của chúng rất thấp [6], [10], [12], [55].
Đối với Copepoda chúng không đóng vai trò quan trọng trong thành phần thức ăn của
cá trưởng thành vì tần số xuất hiện không cao và khối lượng của chúng quá bé [12].
Cho cá ngựa đen sống ở điều kiện tự nhiên (có khối lượng 2,0 – 3,2 g/con) đói
để tập cho ăn thức ăn hỗn hợp và kiểm tra sự bắt mồi của chúng. Mặc dù bị đói, cá vẫn
không chịu ăn mồi đến khi chết. Cá có khả năng sống được mà không ăn trong thời
gian 27 – 28 ngày [15].
Để xác định tính chọn lọc thức ăn của cá, Trần Sương Ngọc và cộng sự
(1997)[17] đã xác định tính ăn của cá ngựa đen đối với 2 loại thức ăn là tôm cám
(Mysida) so với Artemia trưởng thành tươi sống là 6,9 : 1. Mysida là loại thức ăn
được cá ngựa đen ưa thích hơn so với Artemia [19]. Trương Sĩ Kỳ và cộng sự
(1996)[10] xác định cả loài cá ngựa gai (H. histrix) và cá ngựa ba chấm (H.
trimaculatus) đều có chỉ số chọn lọc thức ăn đối với loại thức ăn là tôm cám bao giờ
cũng lớn hơn chỉ số chọn lọc thức ăn đối với Artemia và Carridae.
Có rất nhiều tác giả đã thực hiện nghiên cứu về ảnh hưởng của một số loại
thức ăn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ngựa. Nghiên cứu của Đỗ Hữu
Hoàng và cộng sự (2000)[6] cho thấy cá ngựa đen tăng trưởng nhanh nhất khi cho ăn
Mysida (chiều dài tăng từ 0,32 – 0,45 mm/ngày), kế đến là thức ăn Artemia làm giàu
bằng nhũ tương của ruốc (0,27 – 0,42 mm/ngày), Artemia làm giàu bằng Selco (0,21

– 0,46 mm/ngày) và Artemia làm giàu bằng tảo (0,19 – 0,42 mm/ngày) có tốc độ tăng
trưởng thấp nhất. Trong khi đó nghiên cứu của Job và cộng sự (2002) nuôi cá ngựa
đen giai đoạn 42 đến 98 ngày tuổi. Cho ăn Artemia trưởng thành được làm giàu bằng
nhũ tương của ruốc, nhũ tương của cá tạp, và nhũ tương của ruốc và cá tạp với tỷ lệ
1:1. Kết quả thu được khi cho ăn bằng Artemia làm giàu bằng nhũ tương của ruốc có
tỷ lệ sống cao nhất (73%), và cho ăn Artemia làm giàu bằng nhũ tương của ruốc và cá
tạp có tỷ lệ sống thấp nhất (40%). Nhưng không khác nhau về tốc độ sinh trưởng.
Nghiên cứu của Woods và cộng sự (2003a)[54] về ảnh hưởng của một số loại
thức ăn: Artemia làm giàu bằng Algamac-3050, Mysida (Amblyops kempi) đông lạnh
và kết hợp Artemia làm giàu bằng Algamac-3050 với Mysida (Amblyops kempi) đông
lạnh lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của loài cá ngựa Hippocampus abdominalis, với
lượng thức ăn cho ăn hàng ngày bằng 25% khối lượng thân. Sau 3 tháng nghiên cứu
8


kết quả thu được không có sự khác nhau về chiều dài, khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số
chuyển đổi thức ăn (FCR) giữa các nghiệm thức. Chỉ số SGR ở nghiệm thức chỉ cho
ăn bằng Artemia làm giàu bằng Algamac-3050 cao hơn so với nghiệm thức chỉ cho ăn
bằng Mysida đông lạnh (P<0,05). Hệ số chuyển đổi thức ăn giao động từ 6,14 đến
8,72 g khối lượng khô của thức ăn để cho tăng trưởng 1 g khối lượng khô của cá ngựa.
Lin và cộng sự (2007)[35] nghiên cứu về ảnh hưởng của một số loại thức ăn
khác nhau (ruốc sống, Mysida sống, Mysida đông lạnh và hỗn hợp của 50% Mysida
sống và 50% Mysida đông lạnh) lên sự phát triển của tinh hoàn và buồng trứng của cá
ngựa đen. Kết quả cho thấy khi cá ngựa ăn bằng ruốc sống buồng trứng và tinh hoàn
phát triển đến giai đoạn V ngắn nhất (87,6±3,84 và 89,2±3,71 ngày cho sự phát triển
của buồng trứng và tinh hoàn). Khi cho ăn bằng Mysida đông lạnh khoảng thời gian
phát triển của buồng trứng là chậm nhất. Đồng thời sức sinh sản của cá khi cho ăn
bằng ruốc sống cũng cao nhất. Thức ăn cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá con. Khi
cho cá mẹ ăn bằng ruốc sống cá con nuôi có tỷ lệ sống cao nhất (90,4±2,26%), cho ăn
bằng Mysida đông lạnh cho tỷ lệ sống đến 10 ngày nuôi thấp nhất (15,1±6,55%).

Như vậy cá trưởng thành có thể ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, trong đó khi
cho cá ăn bằng ruốc hay Artemia làm giàu bằng nhũ tương ruốc thường cho tốc độ sinh
trưởng cao. Một số loại thức ăn dễ chủ động như là Artemia được làm giàu, tôm cám
(Mysida spp.) đông lạnh có thể nuôi cá ngựa thương phẩm. Điều này có ý nghĩa rất lớn
trong việc chọn lựa và chủ động được nguồn thức ăn trong nuôi cá ngựa thương phẩm.
Khi nghiên cứu về khẩu phần thức ăn ngày đêm của cá ngựa gai (H. histrix)
cỡ 9,5 – 11,5 g (130 – 143 mm), Trương Sĩ Kỳ và cộng sự (1996)[10] cho thấy khẩu
phần thức ăn ngày đêm dao động 8,37 – 24,29% khối lượng cơ thể. Theo Trần Sương
Ngọc và cộng sự (1997)[17] thì khẩu phần ăn của cá ngựa đen cỡ 7,01 g là 12,48%
khối lượng thân. Nguyễn Tấn Sỹ và Trương Sỹ Kỳ (1999)[19] nhận định khẩu phần ăn
ngày đêm của cá ngựa thay đổi tùy theo loại thức ăn: đối với nhóm Artemia là 21,30%
- 23,93% và với Mysida là 24,78% - 30,00%. Như vậy trong nuôi trồng thủy sản
không nên cho ăn vượt quá 25% khối lượng cơ thể.
1.2.3.4 Nhu cầu dinh dưỡng của cá ngựa
Giai đoạn ấu trùng và giống của hầu hết các loại cá biển đòi hỏi con mồi sống
với hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là giai đoạn đầu khi mới ăn thức ăn [37]. Mặc
dù dinh dưỡng có tầm quan trọng rõ ràng trong sự phát triển, sinh trưởng và sự sống
9


của ấu trùng, nhưng người ta biết tương đối ít về nhu cầu dinh dưỡng đích thực của các
động vật thuỷ sinh ở giai đoạn ấu trùng khác nhau [22].
- Nhu cầu về lipid và các acid béo thiết yếu:
Khả năng tiêu hóa lipid của cá phụ thuộc vào chính chất lượng thức ăn lipid,
những lipid được cấu tạo từ các axit béo no thì khả năng tiêu hóa thấp. Những nghiên
cứu về khả năng tiêu hóa lipid trên nhiều loài cá cho thấy những axit béo không no có
số lượng carbon trong mạch carbon càng nhiều càng dễ tiêu hóa. Vì vậy, thức ăn có
axit béo họ PUFA hay HUFA có khả năng tiêu hóa rất cao, thậm chí đạt tới 100% [7].
Ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu của cá về các axit béo thiết yếu, lipid hoạt
động như một nguồn năng lượng. Nhìn chung 10 – 20% lipid trong các khẩu phần của

cá cho tốc độ sinh trưởng tối ưu mà không tạo ra một cơ thể quá béo (Cowey và
Sargent, 1979) [22].
Cá có một loạt các enzyme elongase và desaturase có khả năng biến đổi các
axit béo trong khẩu phần và các sản phẩm của quá trình sinh tổng hợp axit béo nội
sinh. Chúng không sở hữu các desaturase cần cho việc biến đổi thành C18:2n-6 và
C18:3n-3 từ C18:1n-9. Vì vậy, tất cả các n-3 và n-6 PUFA trong các loại lipid của cá
có nguồn gốc từ các n-3 và n-6 PUFA được tiêu thụ trong khẩu phần thức ăn và vì thế
chúng là các axit béo thiết yếu (các EFA) [22].
Điều quan trọng là trong suốt giai đoạn cá giống khẩu phần ăn đều cần có
hàm lượng HUFA cao, bao gồm DHA, 22:6n−3 và EPA, 20:5n−3. Nhu cầu về hàm
lượng HUFA của cá ngựa con chưa được biết. Tuy nhiên, Payne & Rippingale
(2000)[37] và Payne & cộng sự (1998) [52] cho rằng nhu cầu của chúng giống như
những loài cá biển khác.
Vấn đề chính để xác định ảnh hưởng của các loại HUFA khác nhau lên cá đó là
nhu cầu HUFA được xác định không chỉ bởi tổng giá trị tuyệt đối của HUFA trong thức
ăn mà còn bởi các HUFA khác như là yếu tố cạnh tranh gây sự kiềm chế (Rainuzzo và
cộng sự, 1997; Sargent và cộng sự, 1999 and Corraze, 2001) [56]. Và tỷ lệ DHA/EPA
đã được xem như một chỉ tiêu đặc biệt trong thời gian gần đây (Izquierdo, 1996;
Rainuzzo và cộng sự, 1997; Rodriguez và cộng sự, 1997 và Sargent và cộng sự, 1997).
Thức ăn của cá chứa DHA và EPA với tỷ lệ xấp xỉ 2:1 được xem là tỷ lệ tối ưu [37],
[56]. Chang & Southgate (2001) thông báo hàm lượng DHA >9,3 mg/g khối lượng khô

10


là tối ưu cho sinh trưởng và tỷ lệ sống của giống một loài cá ngựa nhiệt đới (H. kuda
thuộc nhóm này) giai đoạn từ 3 – 33 ngày tuổi [52].
Nghiên cứu của Woods (2003c)[56] về ảnh hưởng của việc làm giàu Artemia
bằng các sản phẩm có hàm lượng acid béo thiết yếu khác nhau lên tỷ lệ sống của cá
ngựa giống loài H. abdominalis cho kết quả: tỷ lệ DHA/EPA thấp nhất (0,31) ở

Artemia làm giàu bằng EPABSF/spirulina, cao nhất (1,21) ở Artemia làm giàu bằng
Algamac-3050. Cả hai kết quả làm giàu này đều cho sinh trưởng tốt hơn Artemia
được làm giàu bằng Super Selco® với tỷ lệ DHA/EPA là 0,46. Kết quả cũng đã xác
định rằng, cá cho ăn bằng Artemia làm giàu bằng Super Selco® cho tốc độ sinh
trưởng thấp nhất. Nhưng Artemia làm giàu bằng Super Selco® có hàm lượng n−3
HUFA cao nhất. Cũng theo tác giả này, nhu cầu đòi hỏi của EFA cho sự sinh trưởng
của cá ngựa H. abdominalis cuối giai đoạn giống không lớn về tổng lượng EFA.
- Nhu cầu về protein:
Protein là vật chất hữu cơ chủ yếu xây dựng nên các tổ chức mô của cá cũng
như động vật. Protein chiếm khoảng 60 – 75% tổng số vật chất khô của cơ thể. Nhu
cầu protein phụ thuộc vào việc sử dụng các amino axit để xây dựng nên các protein
mới hoặc để thay thế các protein già cũ. Thức ăn thiếu protein sẽ làm giảm tốc độ sinh
trưởng của cá vì chúng phải huy động các nguồn protein từ các tổ chức trong cơ thể để
đáp ứng nhu cầu amino axit, dẫn đến khối lượng bị giảm sút. Ngược lại, nếu thức ăn
thừa protein thì chỉ một phần protein được sử dụng, phần còn lại sẽ chuyển hóa thành
năng lượng hoặc sẽ bị đào thải, vì vậy gây lãng phí [7].
Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của protein đối với cá ngựa chưa nhiều,
nhưng nhìn chung nhu cầu protein của cá ngựa cũng giống như các loài cá biển khác.
Nhu cầu protein ở giai đoạn cá giống của nhiều loài dao động từ 30 – 56% của khẩu
phần. Như nhu cầu protein cá vược mõm rộng (Micropterus salmoides) là 40% (nguồn
protein là Casein và protein cá cô), cá hồi cầu vồng (Oncorhynchus mykiss): 40%
(nguồn protein là bột cá), cá cam (Seriola quinqueradiata): 55% (nguồn protein là
chình đất và bột cá) (Wilson, 1989) [22].
Nhu cầu protein của cá giảm cùng với việc tăng kích thước và tuổi. Ví dụ cá
hồi ở giai đoạn cá hương, nhu cầu protein từ 45 – 50% khối lượng khô của thức ăn,
giai đoạn cá giống giảm còn 40% và giai đoạn thương phẩm còn khoảng 35%. Cũng

11



tương tự với cá da trơn, giai đoạn giống nhỏ nhu cầu protein là 40% trong khi giai
đoạn giống lớn là từ 30 – 35% [7].
1.2.4 Đặc điểm sinh trưởng
Cá ngựa là loài sinh trưởng nhanh, cá đạt kích thước thương phẩm sau 6 tháng
nuôi, vòng đời ngắn. Hầu hết các loài cá ngựa đánh bắt được có tuổi từ 1 – 2 năm, kích
thước dao động 80 – 160 mm [12]. Job và cộng sự (2002)[33] cũng cho rằng cá ngựa
đen có tốc độ sinh trưởng nhanh (0,9 – 1,53 mm/ngày).
Theo Trương Sỹ Kỳ (2000)[12] sinh trưởng của cá ngựa đen nuôi theo thời
gian được trình bày ở bảng 1.1
Bảng 1.1 Sinh trưởng của cá ngựa đen nuôi.
Tháng nuôi
L (mm)
W (g)

1
31
-

2 3 4
5
6
7
8
9
10
11
48 70 92 118 134 142 148 153 157 160
2,3 4,83 8,1 10,3 14,3 15,2 -

Năm 2006, Hồ Thị Hoa đã nuôi thành công cá ngựa đen thương phẩm bằng

lồng ở vịnh Nha Trang. Cá ngựa đưa ra nuôi lồng có độ tuổi 45 ngày, 60 ngày và 75
ngày, với kích thước trung bình ban đầu là 45,63; 54,93 và 61,57 mm. Sau 60 ngày
nuôi cá đạt kích thước trung bình: 83,97; 92,03 và 97,90 mm, theo thứ tự. Tỷ lệ sống
tương ứng ở các kích thước là 60,3; 77,5 và 89,4%.
Như vậy cá ngựa có tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh, thời gian nuôi tương
đương những đối tượng thủy sản khác, nên nó là một đối tượng nuôi rất có triển vọng.
1.2.5 Đặc điểm sinh sản
Hầu hết các loài cá ngựa ở biển Việt Nam đều có mùa đẻ kéo dài quanh năm.
Tuy nhiên, tùy loài và vùng biển mà mùa đẻ rộ có thể thay đổi. Đối với loài cá ngựa
đen vùng biển Khánh Hòa mùa đẻ rộ thuộc các tháng 4, 5, 9, 10 và 12 [8], [12]. Cá
ngựa gai (H. histrix) từ tháng 5 đến tháng 11. Cá ngựa ba chấm (H. trimaculatus) từ
tháng 3 – tháng 5 và tháng 10 [8], [11], [12]. Cá ngựa loài H. comes được tìm thấy đẻ
quanh năm ở Philipines nhưng số lượng con đực mang trứng đạt cực đại vào tháng 7
và tháng 12, tương ứng với mùa mưa [38]. Mùa sinh sản ở vùng nhiệt đới kéo dài hơn
so với các loài cá ở vùng ôn đới, ví dụ H. whitei ở vùng ôn đới sinh sản từ tháng 10
cho đến tháng 8 [46].
Tuổi thành thục lần đầu của các loài cá ngựa rất khó xác định, chỉ quan sát được
vài loài, đa số là không giống nhau [49]. Các loài có kích thước nhỏ thì tuổi sinh sản
lần đầu sớm hơn so với các loài có kích thước lớn như: H. zosterae chín muồi sinh dục
12


×