MỤC LỤC
Lời nói đầu
MỤC LỤC.........................................................................................................................1
1.Quan niệm về con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.................................2
2.Mục tiêu giải phóng con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.......................4
3.Vai trò động lực của con người trong Cách mạng Việt Nam.......................................6
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
I.
Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
1
1. Quan niệm về con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người không tồn tại một cách
chung chung, trừu tượng mà chỉ có con người mang đậm sắc thái lịch sử, cụ thể
đó là nhân dân, những người lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột. Con người,
theo Hồ Chí Minh, được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp: “Chữ Người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. rộng hơn nữa là cả loài người”1. Ở đây, con người trong quan niệm của
Hồ Chí Minh được biểu hiện như một phức hợp: vừa là một con người cụ thể,
vừa là một cộng đồng xã hội, từ gia đình, giai cấp, dân tộc đến nhân loại nói
chung. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người không chỉ là một thực thể sinh học,
mà còn nhấn mạnh và khẳng định rõ cái đóng vai trò quyết định trong việc hình
thành bản chất con người là mặt xã hội. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như
ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi
ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con
người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung vì nếu như
những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính
tích cực của họ sẽ không phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm
khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không
phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”. Trong quan
điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, phải là
một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi
con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo
hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại
biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với
loài người trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không tồn tại như một
phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa mà được đề cập
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 644.
2
đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo
khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc
Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
người nô lệ mất nước và những người cùng khổ. Logic phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo logic phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm “giai cấp vô sản cách
mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích
căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người nhận
thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới
được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận về thực chất chỉ là sự cụ
thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là
mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực
chính của sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý
luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, con người sinh ra, lớn lên trong môi trường xã hội, do
đó, các điều kiện, hoàn cảnh xã hội làm nảy sinh trong con người cả cái thiện và
cái ác. “Ngủ thì ai cũng như lương thiện. tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền. Hiền, dữ
đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Vì vậy, “ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi”2. Con người bị chi phối bởi lịch sử - xã hội, nhưng lịch sử - xã hội
không dừng lại một chỗ, mà thường xuyên vận động, phát triển; bởi vậy, bản
chất con người không phải là “nhất thành bất biến”. Hồ Chí Minh luôn tin tưởng
rằng, bản chất con người là luôn hướng thiện.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr.558.
3
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người thương yêu con
người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, lòng thương yêu
nhân dân, thương yêu nhân loại là không bao giờ thay đổi. Người có một niềm
tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ
Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành
từ rất sớm. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân.
Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan
điểm của Mác, Ăng ghen, Lê nin: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân
chính ra lịch sử.
Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của
“cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người,
tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó
chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát
huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực
tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết
định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
2. Mục tiêu giải phóng con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chí Minh đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền
đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống
4
lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Cuộc
chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi nếu không dựa vào lực lượng của toàn
dân.
Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã
hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ Người
cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách quan.
Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với
những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: “Nói một
cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động
thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
được sống đời hạnh phúc”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người luôn là mục tiêu của mọi hành
động cách mạng. Với tư tưởng này, Người đã khẳng định rõ mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng con người phải do chính bản thân con người thực hiện.
Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, hoạt động cách mạng ở nước
ngoài, Người đã nhận định: Chính sự áp bức và thống trị tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân sẽ thúc giục nhân dân Đông Dương và các dân tộc thuộc địa khác vùng
dậy tranh đấu đòi quyền làm người. Theo Hồ Chí Minh, “người cùng khổ” bao
gồm người dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa bị áp bức. Đó là những
người cần phải được giải phóng. Người sớm nhận thấy sức mạng to lớn của
quần chúng lao động bị áp bức khi họ được giác ngộ, được tổ chức, lãnh đạo.
Mục tiêu giải phóng con người được Hồ Chí Minh nêu lên là: đem lại độc
lập, tự do, hạnh phúc cho mỗi con người. Mục tiêu đó vừa cụ thể, phù hợp với
từng thời kỳ cách mạng, vừa thể hiện tầm chiến lược lâu dài. Người khẳng định:
Đầu tiên là phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống
độc lập, tự do cho họ; sau đó phải hướng đến đáp ứng những nhu cầu thường
nhật của con người như ăn, mặc, ở, học hành; phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng
chiến lược là giải phóng con người với ý nghĩa đầy đủ nhất. Hồ Chí Minh chỉ có
một “ham muốn tột bậc” là đất nước hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do,
5
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó là mục tiêu
giải phóng con người mà Hồ Chí Minh luôn hướng tới. “Mục đích của chủ nghĩa
xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân”3. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương,
chính sách, quy định pháp luật đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân:
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”4. Người cũng yêu cầu: “Việc gì có lợi cho dân, chúng ta phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân chúng ta phải hết sức tránh” 5. Vì vậy trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong cả xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định
ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ
nghĩa.
3. Vai trò động lực của con người trong Cách mạng Việt Nam.
Cùng với mục tiêu giải phóng con người, Hồ Chí Minh luôn coi con người
đồng thời là động lực của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa có thắng lợi hay không, theo Người, phụ thuộc vào sự đóng góp của
từng người, của tất cả cộng đồng, của những người lao động bởi cách mạng là
sự nghiệp của họ. Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên
phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào song trước hết là giai cấp công nhân và
nông dân. Con người là động lực của cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
con người được đặt trong từng hoàn cảnh lịch sử nhất định, trong quan hệ nghĩa
vụ của họ đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, đối với giai cấp mình và đối với
bản thân mình. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. cho nên Nhà nước mới lấy công – nông – trí làm
nền tảng. Người cho rằng, suy cho cùng, sống ở đời và làm người là phải yêu
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 271.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 572.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 47.
6
nước thương dân, thương đồng loại bị áp bức đau khổ. Từ tình thương yêu như
vậy, con người phải thực hiện nghĩa vụ của mình, phải tham gia sự nghiệp cách
mạng dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chẳng
những đặt nhân tố con người trong các điều kiện cần và đủ, có tính tất yếu để
biến đổi cách mạng xã hội, mà còn với tư cách chủ thể lịch sử tạo ra, phát triển,
hoàn thiện, quy tụ các điều kiện đó lại nhằm thực hiện mục tiêu mà cách mạng
đề ra: “Vô luận việc gì đều do người làm ta, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều
thế cả”6.
Không phải mọi người đều trở thành động lực mà phải là những con người
được giác ngộ và tổ chức. họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được
nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam…
chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. con
người là động lực chỉ khi thực hiện hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy
cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người viết: “Muốn cách mệnh thành
công thì phải có dân chúng (công nông) làm gốc”. Trong kháng chiến kiến quốc,
Hồ Chí Minh nâng quan điểm “dân” lên một nấc thang mới “Nước lất dân làm
gốc”. Xem con người là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh đã thành lập các
hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, phù hợp với nhiệm vụ chính trị từng giai
đoạn để tập hợp, phát huy nhân tố con người. Người khẳng định: “Trong bầu
trời không có gì đáng quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận con người vừa
là sản phẩm của lịch sử, vừa là động lực phát triển của lịch sử. Người chỉ rõ:
“Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải có con người xã hội chỉ
nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công trên cơ sở ý thức tự giác đóng
góp công sức của con người. Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm sinh
thành của quá trình phát triển xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động tích cực,
chủ động của hàng triệu con người trong xã hội.
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 241.
7
Giữa con người - mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo
thành con người – động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh
của con người – động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được con người – mục tiêu
cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và
tổ chức. đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ
bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè
không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi
mới và sáng tạo.
Cần phải tăng cường giáo dục nhân dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước thì mới tạo ra được những con người mới, vừa là động lực, mục
tiêu của cách mạng.
II.
Vận dụng vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh vào chiến lược con người ở nước ta hiện nay.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những luận điểm cơ bản hết sức khoa học về con người và vai trò của con người
với tư cách là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới đã hết sức coi trọng vấn đề con người và chiến lược con người, đặt
con người ở trung tâm của sự phát triển. Đó là tư tưởng tất cả vì con người, tất
cả do con người – tư tưởng xuyên suốt thời kỳ đổi mới và là một trong những
nhân tố quan trọng làm nên thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới.
Tư tưởng cơ bản về con người của các nhà kinh điển đến Hồ Chí Minh
được phát triển thành luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Đó cũng là những luận điểm có tính nền
tảng của chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Ở nước ta trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, chiến lược con
người được đặt ta như một đòi hỏi tất yếu và cấp bách của sự phát triển đất nước
8
và là nguồn lực quyết định để đẩy mạnh công cuộc đối mới. Kế thừa tinh hoa
truyền thống, tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới hình thành
nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con
người một cách trừu tượng mà luôn xuất phát từ con người hiện thực cụ thể
trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều chiều khác nhau.
Với Đại hội VIII của Đảng, đất nước ta chuyển hẳn sang thời kỳ phát triển
mới. Những thành tựu to lớn, nhiều mặt của hơn 10 năm đổi mới đất nước
không chỉ đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội mà còn tạo nên
những điều kiện và tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người của Đại hội VIII là thực
hiện chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Vấn đề con người và chiến lược con người đã được Đại hội VIII của
Đảng cụ thể hóa thành quốc sách lớn thích ứng với những yêu cầu mới của thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là các chính sách nhằm phát huy
nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội. Mục đích cao nhất của hệ
thống chính sách này nhằm phát triển trí tuệ con người Việt Nam, nguồn vốn
quyết định nhất, quý giá nhất của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi công cuộc đổi mới đất nước đang đi
dần vào chiều sâu và phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức to lớn và phức tạp
thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải khơi dật trong nhân dân lòng yêu
nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa
nước ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ.
Tiếp tục một cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ đổi
mới, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: xã hội ta là xã
hội vì con người và coi con người luôn giữ vị trí trung tâm của phát triển kinh tế,
văn hóa và xã hội. Con người, trước hết là tiềm năng và sức mạnh trí tuệ, tinh
thần đạo đức là nhân tố quyết định và là vốn quý nhất của chúng ta trên con
9
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy đại hội IX chủ trương: chiến
lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các chủ trương chính sách nhằm phát huy nhân tố con người theo tinh thần
đại hội IX là xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn hóa
xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân. Quan
điểm đúng đắn đó được thể hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục đào tạo là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” và “mọi hoạt động văn hóa
nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện… văn hóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách
mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”.
Thực tiễn của quá trình cách mạng Việt Nam cũng chứng tỏ rằng trong
những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, trong những tình thế hết sức khó khăn, con
người Việt Nam đều rất sáng tạo, năng động và luôn tìm ra những đường hướng
đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế. thực tiễn lịch sử cũng chứng minh thời
kỳ nào, cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi điều kiện
cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt Nam luôn biết chuyển
từ tình thế khó khăn thành lợi thế phát triển mới trong đó con người là động lực
trung tâm.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo to lớn của con
người Việt Nam đã và đang được phát huy mạnh mẽ. tuy nhiên, có thể nhận thấy
tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam mà chúng ta chưa khai thác hết vẫn
còn rất lớn. thực tiễn đổi mới cho thấy chỉ với một cơ chế khoán 10 mà giai cấp
nông dân Việt Nam đã phát huy tính năng động sáng tạo ghê ghớm đủ sức làm
thay đổi căn bản bộ mặt của nền nông nghiệp nước nhà. Với đội ngũ cán bộ
10
khoa học kỹ thuật có trình độ, đội ngũ trí thức khá đông đảo và giàu tiềm năng
như hiện nay rất cần có một cơ chế như khoán 10 làm bật dậy và bừng sáng trí
tuệ Việt Nam trong thời đại kinh tế tri thức. như vậy vẫn đề mấu chốt là ở cơ
chế, chính sách. Chỉ cần xây dựng được hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp sẽ
khơi thông được nguồn lực con người cả ở trong nước và ngoài nước, cả tài lực
và trí lực dường như vô tận. điều đó sẽ tạo nên nội lực vô cùng mạnh mẽ, đưa
đất nước tiến nhanh và sớm về đích trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11