PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ: nhóm em muốn tìm hiểu rõ mối quan hệ biện chứng của nhận
thức và thực tiển, nhóm cảm thấy đề tài này hay, có thể giúp ích cho mọi người
trong việc muốn biết rõ tình trạng kinh tế của nước ta.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu về lý luận biện chứng của nhận thức và
thực tiển. Xác định rõ tính chất nền kinh tế của nước ta, tìm hiểu những thực trạng
trong nền kinh tế nước ta hiện nay từ đó đưa ra định hướng để đưa nước ta phát
triển trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN
THỨC VÀ THỰC TIỄN.
1.1 THỰC TIỄN LÀ GÌ?
1.1.1 Khái niệm thực tiễn.1
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
Trong lịch sử triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm
một cách đúng đắn về phạm trù này.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Hoạt động
thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác
động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục
đích của mình. thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có muc đích và
mang tính lịch sử - xã hội. Có 3 hình thức cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ
1 />
1
lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện
thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triễn.
Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là
hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhausong giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mốt quan hệ
đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đóng vai trò quyết định
với các hoạt động khác. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể
có các hoạt động khác. Các hoạt động khác suy cho cùng xuất phát từ hoạt
động sản xuất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người.
Nói như thế không có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội
và thực nghiệm khoa học là hoàn toafnthuj động, lệ thuộc một chiều vào
hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động kìm hãm hoặc
thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản
đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai
trò quan trọng đối với nhận thức.
1.2. NHẬN THỨC LÀ GÌ? PHẬN LOẠI NHẬN THỨC.
2
1.2.1 Khái niệm nhận thức.2
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sang tạo thế
giớ khác quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra
những tri thức về thế giới khác quan. Đó là quan niệm duy vật biện chứng
về nhận thức. Xuất phát từ 4 nguyên tắc cơ bản sau đây:
-
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
-
thức con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới
khách quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
óc của con người, là hoạt động tìm hiều khách thể của chủ thể; thừa
nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những
-
cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích
cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự
từ chưa biết đến biết, tư biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn
-
diện đến sâu sắc và toàn diện hơn…
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận
thức; là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là
quá trình đi từ trình độ nhân thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý
luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát
trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí
nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh
2 Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ ngĩa MÁC – LEENIN, năm 2012
3
nghiệm. Kết quả của nhận thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông
thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức đó có thể
bổ sung chi nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất, quy luận của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ
đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sơ của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho
nhân thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với
hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ
sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên,
nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ nó chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân
loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự
vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những
sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường
mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực
tế hàng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt
động của mọi người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác
và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu. sự kiện phản ánh này diễn ta dưới dạng trừu tượng
logích. Đó là các khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức
khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa có tính hệ
4
thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các
phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật
ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong
nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong
hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
1.3 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn là mối quan hệ biện chứng,
thực tiễn là cơ sở, động lực mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của
chân lý, ngược lại nhận thức tác động đến thực tiển, nhận thức đúng thì thực
tiễn đúng, có thể nói nhận thức quyết định thực tiển, từ đó nhận thức và
thực tiễn tác động qua lại, có mối quan hệ thống nhất với nhau. Đồng thời
cũng là hai mặt đối lập đấu tranh với nhau.3
1.3.1
Thực tiễn là cơ sở nhận mục đích của nhận thức.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức.
Hoạt động thực tiễn của con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội của
con người làm cho các đối tượng tự nhiên và xã hội bộc lộ ra những thuộc
tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài
liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật
vận động của thế giới, trên cơ sở đó mà hình thành các lý thuyết khoa học.
Ph. Ăngghen viết: “Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học
đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tưduy
của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư
tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên, chứ không phải
3 Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ ngĩa MÁC – LEENIN, năm 2012
5
chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu
nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát
triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” (C.Mác và
1.3.2
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.720.)
Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Nhận thức là để phục vụ cho hoạt động thực tiễn cải biến tự nhiên và xã
hội, thực tiễn là biến những cái đã nhận thức được thành sự thật, và đem cái
đó đi phục vụ con người, cuối cùng những gì ta nhận thức đượ cũng là đem
áp dụng vào thực tế, và nếu hợp lý và có kết qua tốt thì ta sữ dụng còn
không thì ta có thể sữa chữa hoặc bỏ đi. Có thể nói thực tiễn là mục đích
1.3.3
của nhận thức.
Thực tiễn là động lực của nhận thức.
Thực tiễn đề ra mục đích và nhu cầu cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức
phát triển. Thực tiễn làm nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải phát triển nhận
thức mới giải quyết được. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà con người chế tạo
những phương tiện kỹ thuật sử dụng trong nhận thức khoa học. Ph.
Ăngghen viết: “Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này thúc đẩy
khoa học hơn mười trường đại học” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập,
1.3.4
NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.6, tr.788.).
Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quân của nhận thức.
Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, hoàn thiện, điều chỉnh, sửa
1.3.5
chữa, hoàn chỉnh và phát triển nhận thức.
Tính thống nhất biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn.
Được thể hiện ở chỗ thực tiễn là xuất phát điểm của nhận thức, quyết
định sự hình thành và phát triển của nhận thức, là nơi thể nghiệm và kiểm
nghiệm tính đúng đắn của nhận thức; ngược lại nhận thức, nhất là nhận thức
lý luận, nhận thức khoa học khi nó phản ánh đúng bản chất và quy luật vận
động của sự vật, hiện tượng có thể giúp con người thông qua nhận thức của
6
mình mà xác định các biện pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của thực
1.3.6
tiễn.
Nhận thức đối vơi thực tiễn.
Nhận thức cũng tác động đến thực tiễn qua nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính, nhận thức phục vụ thực tiễn dẫn đến thực tiễn phát triễn đến vô
tận. Giúp ta tiếp cận những tri thức mới những khách thể mới. Nhận thức
1.4
quyết đinh thực tiễn.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, xem xét
nhận thức rồi mới đưa ra lý luận của nhận thức cho phù hợp, không nên áp
đặt, gượng ép chủ quan, duy ý trí.
Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông, nói được là phải làm
đước, có lý luận mà không dám thực hành thì đó cũng chỉ là lý luận suông,
lý luận phải đước thực tiễn hóa, áp dụng vào thực tế mới thấy được cái
đúng cái sai, rồi rút kinh nghiệm, tuy nhiên không nên cứ có lý luận mà áp
dụng, phải xem xét tình hinh thực tế thử có phù hợp không đã.
Thực tiễn mà không có lý luận soi đường là thực tiễn mù quang, thực
tiễn phải có nhận thức đi kèm, soi đường như mũi tên chỉ hướng cho thực
tiễn đi đúng. Nêu nhận thức sai lầm thì thực tiễn chắc chắn sẽ không thu lại
kết quả.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG ĐIỂM VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
2.1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN.
7
2.1.1 Quan niệm kinh tế thị trường.4
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất hàng hóa ra đời
từ khi tan rã chế độ công xã nguyên thuỷ, nó tồn tại và phát triển trong xã
hội nông nô, xã hội phong kiến và đạt tới đỉnh cao trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Sản xuất và lưu thông hàng hóa hợp thành kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế hàng hóa luôn có hai chủ thể kinh tế quan trọng - Cá
nhân và Doanh nghiệp. Được xem xét dưới hai góc độ: người cung ứng và
người tiêu dùng. Một khi các quan hệ kinh tế đều biểu hiện qua mua bán
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, người bán cần tiền, người mua cần hàng
và họ phải gặp nhau trên thị trường, thì nền kinh tế đó là kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; phong phú hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường.
Thị trường xuất hiện vào thời điểm kinh tế hàng hóa ra đời, nhưng không vì
thế mà gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường. Chỉ đến khi thị trường
được mở rộng phong phú, hoàn thiện, đồng bộ và trở thành nhân tố kích
thích sự tăng trưởng của hàng hóa đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa thì
kinh tế thị trường mới xuất hiện.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, sự hình thành và phát triển của kinh tế thị
trường là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều thế kỷ, qua nhiều phương
thức sản xuất khác nhau và đạt được sự hoàn thiện trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là thuộc
tính riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là kiểu tổ chức xã hội, là một thể chế
4 />
8
kinh tế phổ biến đối với tất cả các chế độ chính trị xã hội nào mà ở đó sản
xuất hàng hóa còn là tất yếu.
Nền kinh tế thị trường hiện đại có những đặc điểm cơ bản khác so với
kinh tế thị trường ở các thập kỷ trước, biểu hiện ở chỗ:
- Là một nền kinh tế mở trên phạm vi toàn thế giới, quyền tự do kinh
doanh của mỗi tổ chức, cá nhân được mở trên phạm vi toàn cầu.
- Từ sự buôn bán chủ yếu trong phạm vi của thế giới hai cực sang thế
giới đa cực. Tuy vậy, mỗi quốc gia đều tự nguyện gắn chặt với một số nước
khác thành những khối kinh tế có những lợi ích chung nào đó nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh và đảm bảo ổn định trong một trật tự kinh tế
mới.
- Với kinh nghiệm và kỹ thuật hiện đại, cho phép những nước đi sau rút
ngắn được thời gian và nếu xác định đúng chiến lược có thể từ một nước
nghèo nhanh chóng trở thành nước có nền kinh tế thị trường phát triển, xã
hội văn minh.
Các hàng hóa được sản xuất ra đều đem trao đổi, mua bán trên thị
trường. Đây là đặc trưng cốt lõi của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường.
Các sản phẩm làm ra phải được xã hội thừa nhận thông qua trao đổi, mua
bán trên thị trường. Đó là tấm gương phản ánh thực trạng nền kinh tế và
biểu hiện sự vận động của các quy luật kinh tế.
2.1.2 Quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa5
5 />
9
Dưới ảnh hưởng của điều kiện lịch sử - văn hóa - xã hội của các dân tộc
khác nhau, kinh tế thị trường được thể hiện dưới các hình thức khác nhau.
Mức độ hoạt động của quan hệ cung - cầu - giá cả và hàng - tiền do đó cũng
rất khác nhau. Chính vì vậy sẽ là sai lầm nếu cho rằng có thể áp dụng
nguyên bản mô hình kinh tế thị trường của nước này vào nước khác. Nhưng
cũng sẽ là sai lầm nếu việc xây dựng một nền kinh tế thị trường dân tộc mà
lại không tuân theo những ngyên tắc chung.
Chung ta cần phải hiểu về định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường
ở nước ta trên các quan điểm sau:
-
CNXH là khát vọng của con người về một xã hội văn minh, giàu có,
ai cũng có cuộc sống ấm no hạnh phúc xứng đáng với tài năng và
mức độ cống hiến của mình cho nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VII
đề ra mục tiêu định hướng của nền kinh tế nước ta là XHCN. Có
nghĩa rằng CNXH là định hướng mà nền kinh tế thị trường nước ta
-
hướng tới.
. Mặc dù kinh tế thị trường được hiện thực hóa ở các nước có chế độ
chính trị xã hội TBCN, nhưng không phải là thuộc tính riêng có của
chế độ chính trị xã hội này, mà là thuộc tính phổ biến mang tính quy
luật của tất cả các chế độ chính trị - xã hội dựa trên cơ sở kinh tế của
-
nó là nền sản xuất hàng hóa.
Trong hầu hết các hình thức tổ chức nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà
nước phong kiến, nhà nước TBCN, nhà nước nào cũng thừa nhận sự
cùng tồn tại của hai hình thức sở hữu: Sở hữu nhà nước và sở hữu tư
nhân. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước TBCN cũng chứng tỏ
rằng sự cùng tồn tại của hai hình thức sở hữu này không hề ngăn cản
quá trình lưu thông hàng hóa. Ngược lại chính nhờ có bộ phận sở
hữu nhà nước này mà một mặt các chính phủ có thể hạn chế bớt
10
được một phần những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Mặt
khác, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các hình thức sở
hữu, giữa các thành phần kinh tế.
2.1.3 Những đăc trưng cơ bản.6
- Nền kinh tế nước ta là nên kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thanh
phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. “Kinh tế nhà
nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.” Việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước
là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
-
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản.
Sự phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là đặc
trưng nổi bật nhất cuẩ thể chế thị trườngXHCN. Hai mặt kinh tế và
xã hội của nền kinh tế thị trường chủ động kết hợp với nhau qua luật
pháp, chính sách kinh tế và chíh sách xã hội. Thực hiện phúc lợi xã
hội thông qua ngân sách đề ra vừa khuyến khích mọi người làm giàu
chính đảng và tăng thu nhập cho nên kinh tế quốc dân. Chúng ta phải
gắn kinh tế, xã hội, quốc phòng thành thể thống nhất bảo đảm ổn
định quốc gia, đưa đến công bằng xã hội, không ngừng nâng cao
-
chất lượng cuộc sống nhân dân.
Tăng trưởng và phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
sự lớn mạnh của nhà nước, có tăng trưởng kinh tế mới có tăng thêm
thu nhập cho nền kinh tế, nhà nước có điều kiện nâng cao vai trò của
mình trong các hoạt động xã hội. Suy cho cùng bất cứ nhà nước cũng
muốn lớn mạnh do vậy rất cần có tiềm lực về kinh tế. Nhứng để tăng
trưởng ổn định thì cần yếu tố phát triển bền vững. Ngày nay phát
6 />
11
triển bền vững được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hét, nổi lên hai mục
tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh
nghiệm các nước đi trước cho thấy cần giải quyết vấn đề bảo vệ môi
-
trường sinh thái ngay từ buổi đầu của phát triển kinh tế.
Tốc độ phát triển kinh tế cao. Đây là yêu cầu rất quan trọng của định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng không phải l à điều kiện đủ bởi
lẽ nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng lại không phải có
-
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Vai trò lãnh đạo, quan lý của nhà nước. Đây là một điều kiện quan
trọng bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường chạy theo lợi nhuận, trong môi trường
cạnh tranh, cho nên nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp mà cần có
nhà nước mới có thể giải quyết được. Vì thế chúng t a muốn xây
dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
-
nghĩa chúng ta không thể không nói tới vai trò quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh
tế thế giới và khu vực. Thực ra đây không phải chỉ là đặc trưng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà xu hướng
chung của các nền kinh tế trên thế giới hiện nay. Ở đây muốn nhấn
mạnh sự khác biệt nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng với nền
kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. Trong điều kiện kinh tế hiện
nay chỉ có mở của kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới
mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
-
quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta,
Sự phát triển kinh tế thị trường gắn liền với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc. Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế hàng
hoá vận động theo cơ chế thị trường, thì cũng nảy sinh trong đời
sống thực tế những hiện tượng như: thương mại hoá cả những quan
12
hệ xã hội, sống vụ lợi, sùng bái đồng tiền, coi thường các giá trị nhân
văn làm sói mòn truyền thống văn hoá và đạo đức dân tộc. Việc mở
của và hội nhập những yếu tố văn hoá lai căng, mất gốc, xa lạ thuần
phong mỹ tục của dân tộc, Vì vậy trong điều kiện mở cửa, càng phải
coi trọng giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đi với tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại để làm giàu văn hoá của ta, ngăn chặn sự xâm
nhập của các sản phẩm văn hoá độc hại, lai căng, mất gốc
2.2 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG.
2.2.1 Sự cần thiết khách quan:7
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản
phảm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất
trong kinh tế hàng hóa không phải để thõa mã nhu cầu trực tiếp của người
sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của
người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong
đó toàn bộ các yếu tố “ đầu vào” và “ đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau,
chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc
và cùng bản chất.
Theo C.Mác, sản xuất va lưu thông hàng hóa là hiện tượng vốn có của
nhiều hình thái kinh tế- xã hội. Nhưng điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế
hàng hóa cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực
lượng sản xuất tạo ra.
7 />
13
Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
-
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hàng hóa chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển
cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu
vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của
phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng, và chất
-
lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân( gồm sở hữu cá thể, sở
hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân) , sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hẹ kinh tế giữa
-
họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa- tiền tệ.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự
khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có
lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau bề
trình độ kỹ thuật- công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí
-
sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hóa- tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối
ngoại, đặc biệt trong điều kiên phân công lao động quốc tế đang phát
triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là
người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường
thế giời. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách
quan thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ nó được.
14
2.2.2 Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường:8
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
còn mang nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá
vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự
xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa,buốc mỗi chủ thể sản
xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi
phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả,
đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của
người tiêu dung, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với
khối lượng bao nhiêu, chất lượng bao như thế nào. Do đó kinh tế hàng hóa
kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng
cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hóa và
dịch vụ
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hóa, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân
công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất. Vì thế phát huy được
tiềm năng, lợi thế của từng vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng
mở rộn quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo diều kiện ra đời của sản xuất lớn, xã hội hóa cao;
8 />
15
đồng thời chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giởi, hình thành
đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu
phát triển của đất nước.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với
nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của
nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động
quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai
thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thức tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác
được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của
nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần vào việc bảo đảm
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với
các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hóa
phát triển qua ba giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực
lượng sản xuất: sản xuất hàng hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế
thị trường hiện đại.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nên kinh tế, chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang kinh kinh tế hang hóa. Mô hình kinh tế của
Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội
chủ nghĩa( nói ngắn gọn là kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa)
16
Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát
triển, bởi lẽ cơ sở vật chất- kỹ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh
tế ít nhiều còn mang tính tụ cấp tự túc.Tuy nhiên, nước ta không lặp lại
nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước: kinh tế hàng
hóa giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự
do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng
nên kình tê thị trường hiện đại, đinh hướng xã hội chủ nghĩa theo kiều rút
ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để
phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, trong một thời gian tương đối
ngắn xây duwgj được cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế nước
ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới; đồng thời phải hình
thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3 THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
2.3.1 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai. Đó là do các nguyên nhân 9
Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vật,
một số cơ sở kinh tế được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong
nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.Theo UNDP, Việt
Nam đang ở công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 23 thế hệ ( có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao đ65ng thủ công cò chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng số lao động xã hội. Do đó, nâng suất, chất lượng, hiệu quả sản
9 />
17
xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới ( năng suất lao
động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao
thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông
trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém
phát triển làm cho các địa phương không thể được khai thác, các địa
phương không thể chuyen môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh.
Do cơ sở vật chất- kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát tireenr. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm.Nền kinh tế
nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, Nông
nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuất
khoàng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.
Khả năng cạnh tranh của cá doanh nghiệp trên thị trường trong nước,
cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. do cớ sở vật chất- kĩ thuật và
công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp. do đó khối lường hoàng
hóa nhỏ bé, chủng loại hàng hóa còn nghèo nàn, chất lường hàng hóa thấp,
giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh yếu.
2.3.2 Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng
chưa đồng bộ.10
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các
vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất.
10 />
18
Thị trường hàng hóa – dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực ( hàng giả, hành nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu
vẫn còn làm rối thị trường).
Thị trường hàng hóa sức lao động mới, một số trung tâm giới thiệu việc
làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nãy sinh hiện tượng
khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành
nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều,trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại
vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
nhiều trắc trở, nhưng nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất
thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều
ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ
đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đến mức
báo độngThị trường chứng khoáng ra đời nhưng chưa có nhiều “hàng hóa”
để mua – bán và mới có ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường
này.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế ở nước
ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó
sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.
2.3.3 Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại,
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát
triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa xo với hầu hết các nước khác.11
Toàn cầu hàng hóa và khu vực hóa về kinh tế đang đặt ra chung cho các
nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng
11 />
19
nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không
tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế
nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu
vực hóa và toàn cầu hóa, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện
đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát
huy nội lực, nhầm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Một số cơ chế, chích sác
còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
2.4 ĐỊNH HƯỚNG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM.
2.4.1 Mục tiêu pháp triển nền kinh tế thị trương.
Đưa đất nước thoát khỏi tinh trang lạc hậu, tưng bước trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, nhưng phải theo đinh hương xã hội chủ nghĩa.
Giúp đất nước ta tích lũy nhanh chóng về lượng để có một sự biến đổi
về chất, trở thành một nước chủ nghĩa xã hội thật sự. nền kinh tế thị trường
là nên kinh tế của nhiêu chế độ, nhưng đạt đến đỉnh cao ở chế độ tự bản,
chúng ta sử dụng nền kinh tế thị trường để tăng nhanh về các kiến trúc hạ
tầng, các cơ sở vật chất, để chuẩn bị cho môt đất nước của chế độ chủ nghĩa
xã hội, chứ không phải là thời kỳ quá độ nữa.
Đi đến công bằng xã hội, đảm bảo các quyền lợi của nhân dân, và nhân
dân được hưỡng các quyền lợi mà mình nhận được, công bằng giữa mọi
công dân với nhau, dần dần xóa bỏ khoáng cách giàu nghèo trong xã hội,
không còn những bất công nữa.
20
Xóa bỏ tình trang quan liêu, giúp nhân dân làm chủ đất nước, tham ô,
tham nhũng không còn nữa, từ đó đưa đất nước phát triển trở thành một
nước hiện đại, và có sức mạnh quân phòng bảo đảm chủ quyền quốc gia,
chống lại kể thù, chống lại các thế lực đi ngược lại các chủ chương của
Đảng.
2.4.2 Giải phát để phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.12
•
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xóa bỏ kinh tế thụ trường,
chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hia hình thức là sở hữu
toàn dan và sỡ hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hóa vận
hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách
đa dạng hóa các hình thức sở hữ, tức là khô phục môt trong những cơ sở
kinh tế hàng hóa.
Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triễn nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc
phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành
phân kinh tế và các tổ hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh
thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luận, đều
được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước
trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh
nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở
hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng
12 />
21
công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh
việc đổi mới kỹ thuât công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực
hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có
vốn Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường,
tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thẻ dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác
xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây
dụng phương án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt
việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế tư nhân( bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân) phát triển ở cả thành thị và nông thôn, Nhà nước tạo điều
kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Phát triển
kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế
tư nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng
•
cạnh tranh, gắn hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
Đẩy mạnh công nghệ hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa họccông nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.13
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Vì vậy để phát triển kinh tế hàng hóa, phải đẩy mạng phân công lao
động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân
công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại.
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt, gắn với công nghiệp hóa, với hiện đại hóa tận dụng mọi khả
13 />
22
năng để đạt trình đồ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng
nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tự công nghệ hiện
đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Cùng cới việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiêp hó, hiện đại hóa,
tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước,
cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý
cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tao nên sự tăng
•
trưởng kinh tế nhanh và bên vữn của toàn bộ nền kinh tế.
Hình thành và phát trienr đồng bộ các loại thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lức kinh tế đều thông
qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
một cách tôi ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủng tả cũng phải hình thành và phát triển
đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới chúng ta cần phải
- Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực
Nhà nước độc quyền kinh doanh; xóa bổ độc quyền doanh nghiệp;
tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển mạng thương mại
-
trong nước, tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và
thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở
rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và thị trường chứng
-
khoán
Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thì trường quyền sử dụng
-
đất và bất động sản gắn liền với đất
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, Đẩy
mạng xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào
tạo nghề.
23
-
Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ
chế, chính sách để phần lớn các sản phẩm khoa học công nghệ trở
•
thành hàng hóa.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế
khu vực và trên thế giời, mới thu hút được vốn, ký thuật và công nghệ hiện
đại để khai thác tiềm năng và thế mạng của đất nước nhằm phát triển kinh
tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng
kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoa và đa dạng hóa các hình thức
kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, cần đẩy mạng xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh
tế đối ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để
phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vống đầu tư nước ngoài
cần hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có
tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được
nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương
mại quốc tế, các diễn đàn, các tôt chức, các định chế quốc tế một cách có
•
chọn lọc với bước đi thích hợp.
Giữ vững sự ổn đinh chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Sự ổn đinh chính trị bao giờ cũng là nhân tố qan trọng đầu tiên để phát
triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài
nước yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn đinh chính trị ở nước ta hiện
nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
24
Hệ thống phấp luật đồng bộ là công dụng quan trọng để Nhà nước quản
lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho
hoạt động kinh tế, buốc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà
•
nước.
Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế của Nhà nước
Việc xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành
đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước có ý nghĩa hết sức quan trong đối với sự phát triển kinh tế hàng hóa ở
nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao
năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, thực hiện cải cách
nền hành chính quốc gia, Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh
tế , có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi
cho hoạt động kinh tế, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường.Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản
trị kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh, Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền
kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền lương và giá
cả.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trương đinh hướng xã hội chủ
nghĩa chính vì vậy trong quá trinh phát triển kinh tế không được quên đi
bản chất là XHCN mà chuyễn sang TBCN, kinh tế thị trường là nền kinh tế
có thể có ở tất cả các chế độ xã hội, không chỉ có TBCN mới có nền kinh tế
25