Website: Email :
LỜI MỞ ĐẦU
Văn hoá là một khái niệm rất rộng bao gồm văn hoá vật thể và văn hoá
phi vật thể. Để nghiên cứu tìm hiểu những giá trị của một nền văn hoá rất khó
đòi hỏi cần có thời gian và sức lực nhưng để hình thành được một nền văn hoá
thì phải cần đến hàng nghìn năm thậm trí hàng vạn năm. Do vậy, vai trò của văn
hoá đối với mọi mặt đời sống- xã hội vô cùng lớn.
Mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá đã nhấn mạnh "Kinh nghiệm
của hai thập kỷ vừa qua cho thấy, tuy mọi xã hội ngày nay bất luận ở trình độ
phát triển kinh tế nào hay xu hướng chính trị nào thì văn hoá và phát triển là hai
măt gắn liền nhau". Nhận xét của tổ chức giáo dục khoa học và Văn hoá liên
hợp quốc (UNESSCO) năm 1998. Có nghĩa là hai mặt văn hoá và phát triển
luôn phải gắn liền nhau vì vậy muốn phát triển kinh tế phải dựa vào văn hoá trên
cơ sở của nền văn hoá có sẵn, phải đặt sự phát triển kinh tế trong môi trường văn
hoá của mình.
Kế thừa tiếp nhận những thành tựu của thời đại đúc rút những kinh
nghiệm của dân tộc. Đảng và Nhà nước đã nhận thức vấn đề này khi xác định
chiến lược phát triển của đất nước: kinh tế và văn hoá phải gắn liền với nhau hết
sức chặt chẽ. Và đứng trước sự tác động mạnh mẽ của các nền văn hoá từ các
nước phương Tây qua phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, trong nghị
quyết TW5 Quốc hội khoá VIII đã khẳng định Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta
quyết tâm "Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc"
muốn làm được điều này chúng ta phải bảo tồn và phát huy tiềm năng văn hoá
của dân tộc nói chung và văn hoá của tộc người nói riêng.
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là một ngành mang tính chất tổng hợp, có tác dụng góp phần tích
cực thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều
ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội
giữa các vùng trong nước và giữa nước ta với nước ngoài, tạo điều kiện tăng
cường tình hữu nghị, hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Du lịch
là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển xã hội của đất nước
ta. Việt Nam là một đất nước đang trên đà phát triển với nền văn hoá đa dạng
giàu bản sắc của 54 dân tộc anh em. Trong sự thống nhất của nền văn hoá Việt
Nam lại tồn tại những nét văn hoá riêng rất đặc sắc tạo nên sự đa dạng về văn
hoá là vốn tài nguyên cơ bản để phát triển kinh tế Du lịch.
Hoà Bình là cửa ngõ Tây Bắc của đất nước có vị trí địa lý giao lưu thuận
tiện đường bộ, đường thuỷ với các tỉnh lân cận. Nằm trong vùng du lịch trung
tâm lại được thiên nhiên ưu đãi với tài nguyên du lịch có tiềm năng lớn cả về
cảnh quan và khí hậu, đồng thời có nền văn hoá Hòa Bình nổi tiếng. Những
năm gần đây du lịch Hoà Bình đã đạt được những kết quả khá tốt góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Trong sự phát triển chung đáng kể ấy,
mỗi khu vực, mỗi tộc người sống trên mảnh đất Hoà Bình đều là nhân tố quan
trọng đóng góp sức lực vào xây dựng nền kinh tế.
Người Mường ở Hoà Bình là trung tâm của người Mường trong cả nước,
hiện nay với sự phân bố dân cư tập trung ở một số khu vực nhất định những giá
trị văn hoá vật chất và tinh thần của họ đang được khai thác phục vụ cho việc
phát triển kinh tế, Văn hoá xã hội của tỉnh Hoà Bình đặc biệt là phát triển du
lịch. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay nhiều giá trị văn hoá đang bị lạm dụng
hoặc có nguy cơ bị mai một do ý thức bảo vệ của con người chưa cao. Xuất phát
từ việc nhận thức đúng đắn vai trò vị trí của văn hoá tộc người Mường đối với
việc phát triển của đất nước nói chung và ngành Du lịch nói riêng đồng thời đưa
ra những giải pháp để bảo vệ vốn văn hoá quý báu đó thông qua hoạt động du
lịch. Tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Tiềm năng văn hoá Mường với việc phát triển
du lịch của tỉnh Hoà Bình” làm khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành Văn hoá
Du lịch.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các giá trị văn hoá người
Mường ở Hoà Bình nhằm 2 mục đích chính:
- Phân tích thực trạng hoạt động khai thác giá trị văn hoá Mường trong
phát triển du lịch để tìm hiểu những thế mạnh và hạn chế của ngành Du lịch tỉnh
khi sử dụng vốn văn hoá này.
- Từ những thực tế thấy được ấy tôi sẽ đề ra một số giải pháp góp phần
bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá của người Mường trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Với những giá trị văn hoá to lớn của người Mường khoá luận muốn
phân tích rõ hơn để phần nào giúp các công ty du lịch đầu tư, khai thác có kế
hoạch đồng thời nâng cao đời sống Mường với việc tận dụng tiềm năng vốn có.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với thời gian và khả năng của mình, đối tượng nghiên cứu của khoá luận
là các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của người Mường ở tỉnh Hoà Bình. Do
người Mường phân bố ở hầu hết các địa phương trong tỉnh, vì vậy đề tài chỉ tập
chung nghiên cứu người Mường ở Mường Bi (huyện Tân Lạc) và thị xã Hoà
Bình. Nơi diễn ra các hoạt động du lịch từ đó đưa ra được những thực trạng và
giải pháp cho việc khai thác các giá trị văn hoá Mường cho việc phát triển du
lịch tỉnh Hoà Bình.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thực ra, việc nghiên cứu về người Mường ở Hoà Bình đã có khá nhiều
tác giả nghiên cứu rất kỹ như: Quy-gi-nê với cuốn “Les Mường” rất nổi tiếng,
Từ Chi với cuốn “Người Mường ở Hoà Bình”, hay tác giả Bùi Thiết với một số
bài viết về người Mường rất đặc sắc và còn một số tác giải khác nữa. Cùng một
số lượng lớn sinh viên và những người yêu thích chọn ngưòi Muờng ở Hoà Bình
làm bài viết, bài nghiên cứu của mình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài khoá luận này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp thu nhập và xử lý tài liệu: khi thực hiện bài viết tôi đã tìm
hiểu những tài liệu về tỉnh Hoà Bình, về các dân tộc đặc biệt về người Mường
đồng thời xử lý và phân tích những tài liệu đó là cơ sở cho việc nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát thực tế: để kiểm chứng, xác minh những vấn đề
đã tìm hiểu qua sách báo, tạp chí, tư liệu tôi đã đến tỉnh Hoà Bình đi đến các bản
Mường tìm hiểu thực tiễn để bài viết có sức thuyết phục.
- Ngoài ra còn có các phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích để xử lý
tài liệu phục vụ bài viết.
6. Kết cấu bài viết
Ngoài các phần: Mở bài, kết luận, phụ lục bài viết gồm 3 chương
Chương 1: Về người Mường ở Hoà Bình
Chương 2: Tiềm năng Văn hoá Mường trong phát triển Du lịch ở Hoà Bình
Chương 3: Triển vọng phát triển Du lịch Văn hoá Mường ở Hoà Bình
Chương 1: Về người Mường ở Hoà Bình
1.1 Điều kiện tự nhiên, dân số và phân bố dân cư
1.1.1 Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
Hoà Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc tiếp giáp
Đồng bằng sông Hồng ở cả 3 mặt Bắc- Đông- Nam thông qua nhiều tuyến giao
thông thuỷ bộ nối liền với Phú Thọ và Hà Tây ở phía Bắc, Hà Tây và Hà Nam ở
phía Đông, Ninh Bình và Thanh Hoá ở phía Nam. Vùng núi phía Tây của Hoà
Bình giáp Sơn La đặc biệt Hoà Bình còn là vùng giáp vùng núi Tây của Thanh
Hoá nơi mở đầu của dẫy Trường Sơn. Nằm cách thủ đô Hà Nội 70Km rất thuận
tiện cho khách Du lịch từ thủ đô đến và đi các tỉnh.
Nằm ở cửa ngõ Tây Bắc nên Hoà Bình có địa hình phong phú đa dạng
hấp dẫn khách Du lịch bởi những đặc điểm nổi bật của địa hình như độ cắt xẻ
mạnh và dốc theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Có thể chia thành hai vùng cảnh
quan, một vùng là rừng rậm nối tiếp giữa dãy Hoàng Liên Sơn và Trương Sơn
trải dài từ huyện Đà Bắc qua Tân Lạc, Lạc Sơn đến Mai Châu với độ cao trung
bình từ 400-500m so với mặt nước biển. Hai là vùng đồi núi thấp chủ yếu là
vùng núi đá vôi với nhiều hang động, rất nổi tiếng với nhiều di chỉ khảo cổ học
kết hợp với cảnh quan tươi đẹp. Rừng ở vùng này chủ yếu là rừng ký sinh và đồi
cỏ với độ cao trung bình 100m gồm các huyện Kỳ Sơn, Lương Sơn, Lạc Thuỷ.
Địa hình trong tỉnh Hòa Bình chủ yếu là rừng xen kẽ giữa các sườn núi bị
chia cắt bởi nhiều thung lũng và hàng trăm con sông, suối lớn nhỏ. Có nhiều
thung lũng trải rộng kéo dài thành những cánh đồng tương đối bằng phẳng, phì
nhiêu và các triền bãi ven sông mộng mơ.
Với những điều kiện địa hình và vị trí địa lý đó nên khí hậu của vùng này
mang yếu tố nhiệt đới gió mùa. Một năm chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 11 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24 0c lượng mưa trung
bình hàng năm 1900mm, với tháng mưa nhiều nhất là tháng 7 và tháng 8 và ít
nhất là tháng 11 và 12. Chính do địa hình chia cắt mạnh, độ chênh lệch cao và
kéo dài nên tạo ra nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau.
Tài nguyên nước ở Hoà Bình cũng rất phong phú đặc biệt là ở hệ thống
sông suối nổi tiếng với con sông Đà và sông Bôi. Chính từ hệ thống sông nước
này đã tạo cho Hoà Bình có những dạng cảnh quan đặc biệt. Đập thuỷ điện Hoà
Bình với vùng hồ Hoà Bình. Nước khoáng Kim Bôi là nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã ban tặng cho Hoà Bình.
Tất cả các yếu tố trên đã hoà quyện để tạo nên một Hoà Bình với cảnh
quan quyến rũ tuyệt đẹp, có núi, có sông, có đồng bằng, có thung lũng. Có nắng
có mưa, có nóng có lạnh. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để Hòa Bình có
thể thu hút hấp dẫn khách Du lịch, giúp Hoà Bình trở thành một trung tâm Du
lịch lớn của Việt Nam. Và cũng chính từ đặc điểm điều kiện tự nhiên như vậy
nên vùng đất này là nơi thích hợp với cuộc sống của các đồng bào dân tộc ít
người. Với 7 dân tộc anh em sinh sống, con người và núi rừng đã tạo nên những
bản sắc Văn hoá đặc sắc độc đáo riêng, tiêu biểu là nền Văn hoá Hoà Bình mà
chủ nhân không phải ai khác chính là dân tộc Mường, cư dân chủ yếu của tỉnh.
1.1.2 Địa bàn dân cư và phân bố dân cư
Hoà Bình luôn tự hào là cái nôi của một nền Văn hoá, đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển loài người. Đó là nền
Văn hoá Hoà Bình, nền Văn hoá của cư dân nông nghiệp sơ khai cách đây hàng
vạn năm. Hàng loạt các chi tiết của di chỉ khảo cổ học là minh chứng khẳng định
điều đó. Là một tỉnh miền núi có thành phần dân tộc khá phong phú với 7 dân
tộc anh em sinh sống: Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông và một số ít dân tộc
khác. Với dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2002 là 756.713 người.
Trong đó dân số dân tộc Mường là 479.197 người chiếm 63,32% dân số toàn
tỉnh. Người Mường sinh sống phân bố rải rác ở tất cả các thị xã và huyện thị
thuộc tỉnh Hoà Bình.
Thị xã Hoà Bình
19.854
Huyện Đà Bắc
16.597
Huyện Mai Châu
7.032
Huyện Kỳ Sơn
46.428
Huyện Lương Sơn
48.094
Huyện Kim Bôi
110.535
Huyện Tân Lạc
61.522
Huyện Lạc Sơn
113.328
Huyện Lạc Thuỷ
16.248
Huyện Yên Thuỷ
39.559
Tuy nhiên tập trung ở 4 Mường chính đó là:
Mường Bi ở huyện Tân Lạc: 61.522 người chiếm 83.53% dân số toàn
huyện.
Mường Vang ở huyện Lạc Sơn: 113.328 người chiếm 90,37% dân số
Mường Thàng ở huyện Kỳ Sơn: 46.428 người chiếm 66,97% dân số
Mường Động ở huyện Kim Bôi: 110.535 người chiếm 82,86% dân số Với
4 dòng họ chính là: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng. Có thể nói Hoà Bình là cái nôi
của dân tộc Mường, họ cư trú ở hầu hết các địa phương nơi các vùng thung lũng
và núi thấp. Bên cạnh con sông suối...
Với 4 Mường chính này có thể coi đây là vùng đất tổ của người Mường ở
Hoà Bình. Mặc dù sống không ở các đồng bằng rộng lớn không có những cánh
cò bay song người Mường lại không thiếu đất trồng trọt với những thửa ruộng
bậc thang cùng hệ thống tưới tiêu hiệu quả. Làng xóm Mường được chia thành
các Mường nhỏ và được thiết lập trong các thung lũng hay các sườn núi thấp.
1.2 Khái quát về người Mường ở Hoà Bình
1.2.1 Quá trình lịch sử
Tỉnh Hòa Bình được thành lập năm 1886, cách ngày nay trên 100 năm
nhưng Hoà Bình là vùng đất có cư dân sinh sống từ rất lâu đời. Cách ngày nay
trên một vạn năm, khi ấy hầu hết đồng bằng Bắc Bộ còn bị chìm dưới nước biển
không thể ở được thì rừng núi đất đai Hòa Bình thời tiền sử đã sáng tạo và một
nền Văn hoá nổi tiếng mà sau này khi tiến hành khai quật ở 72 điểm trên đất
Hoà Bình Ba Colani đã đặt tên là "Nền Văn hoá Hoà Bình". Khoa học khảo cổ
đã chứng minh rằng người Mường và người Việt có chung một nguồn gốc là
người Việt cổ. Những cuộc khai quật khảo cổ đã tìm thấy dấu vết cư trú sinh
sống của người nguyên thuỷ thuộc thời đại đồ đá giữa và sau thời đại đồ đá mới
để lại trong trong lòng hang. Những công cụ bằng đá ghè đẽo thô sơ, những
mảnh vỏ ốc và mảnh xương là di tích của thức ăn. những vùng than tro và đất
cháy là nơi đốt lửa nấu thức ăn và sưởi ấm, một số ít mảnh gốm thô sơ là di tích
của những đồ đựng và đun nấu. Bốn vùng nổi tiếng nhất của Hòa Bình: "nhất Bi,
nhì Vang, tam Thàng, tứ Động" chính là 4 vùng mà cách đây hàng vạn năm
cũng là nơi tập trung những cư dân nguyên thuỷ.
Truyền thống của Hoà Bình một địa bàn có dân cư từ rất sớm đã bắt
nguồn từ thời gian xa xưa ấy. Hoà Bình là trung tâm của người Mường trong cả
nước, theo các tư liệu thì người Mường và người Việt có chung một nguồn gốc.
Theo nhà ngôn ngữ học Mát-xpe-nô-vô Ô-dơ-ri-cua, thì tiếng Mường và
tiếng Việt xưa kia chỉ là một. Về mặt từ, về mặt ngữ pháp, ngữ âm, tiếng Mường
và tiếng Việt là giống nhau. Về nhân chủng học người Mường và người Việt là
đồng nhất.
Trên cơ sở nghiên cứu, những tài liệu khoa học đã khẳng định người
Mường và người Việt là hai chi của một họ, hay nói cách khác, người Mường là
một bộ phận của người Việt biệt cư lâu đời ở vùng rừng núi. Song người Việt và
người Mường cho đến ngày nay về cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của
tổ tiên đã sinh ra họ trước khi phân hoá thành hai dân tộc. Trong Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử số 125 Nguyễn Đình Khoa- nhà nghiên cứu nhân học đã khẳng định
"về phương diện nhân chủng học người Việt và người Mường là đồng nhất".
Người Mường là một bộ phận của người Việt đã tách ra trong một hoàn cảnh
lịch sử nhất định và đã cấu thành một bộ tộc riêng, song từ đó đến nay cả người
Mường và người Việt về cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của tổ tiên
trực tiếp đã sinh ra mình trước khi phân hoá.
Dân tộc Mường và dân tộc Việt trước đây mấy ngàn năm có chung tổ tiên
là người Lạc Việt. Nguyên nhân làm cho người Lạc Việt (Việt cổ) phân hoá
thành hai dân tộc là do chế độ áp bức của thời Bắc thuộc.
Năm 180 trước công nguyên Triệu Đà chinh phục nước Âu Lạc và sát
nhập nước này vào nước Việt nam. Sau khi Triệu Đà bị nhà Hán tiêu diệt, nước
Việt Nam cổ đại lại nằm trong bản đồ nhà Đông Hán. Từ ấy, nền đô hộ của bọn
phong kiến phương Bắc đè nặng lên đất nước Việt Nam trong thời gian hơn một
ngàn năm. Trong hơn một ngàn năm ấy nền đô hộ nhà Triệu, nhà Đông Hán, nhà
Ngô, nhà Tần, nhà Tuỳ, nhà Đường bao trùm lên toàn bộ nước Việt Nam.
Nhưng trên thực tế chính quyền đô hộ chỉ bóc lột nhân dân Việt Nam ở miền
đồng bằng mà chưa có thể vươn tới miền rừng núi để áp bức bóc lột nhân dân ở
đây. Chính sách áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam ở miền rừng núi chỉ có thể
thực hiện được một số chế độ cống nạp mà thôi.
Dưới chế độ áp bức bóc lột của bọn phong kiến phương Bắc nhân dân
Việt Nam ở vùng đồng bằng phải sống chung với bọn phong kiến ngoại tộc và
phải gánh vác mọi thứ sưu thuế, lao dịch do chúng đặt ra. Trong khi đó người
Việt ở miền núi chỉ có thể thực hiện được một số chế độ cống nạp . Người Việt
ở đồng bằng khi bắt buộc phải sống chung với bọn phong kiến ngoại tộc đã có
điều kiện tiếp xúc Văn hoá nước ngoài như: Văn hoá Trung Quốc, ấn Độ, Chiêm
Thành... hoàn cảnh đó làm cho người Việt ở vùng đồng bằng và người Việt ở
miền núi dần dần phát sinh những yếu tố khác nhau về đời sống tinh thần, đời
sống vật chất. Tình hình này kéo dài hơn một nghìn năm và cuối cùng làm cho
người Việt phân hoá thành 2 dân tộc: dân tộc Việt (kinh) chịu ảnh hưởng một
phần của Văn hoá nước ngoài; dân tộc Mường do cư trú lâu đời ở rừng núi vẫn
bảo lưu được nhiều nét đặc biệt của Văn hoá Lạc Việt.
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc là thời gian phân hoá liên tục của người
Việt cổ. Nhưng mức độ phân hoá không phải lúc nào cũng giống nhau. Buổi đầu
thời Bắc thuộc, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Việt ở đồng
bằng và người Việt ở miền núi chưa có gì khác biệt nhau lắm.
ở thời điểm đó miền núi có tầng lớp quan lang thì ở đồng bằng cũng có
tâng lớp quan lang. Sang thế kỷ 8 sự phân hoá giữa người Việt ở đồng bằng và
người Việt ở miền núi càng trở nên rõ rệt, lúc này đồng bằng không còn quan
lang, nếu còn thì chỉ ở vùng tiếp giáp với miền núi. Đến thế kỷ thứ 10 khi dân
tộc Việt Nam giành độc lập và đến thế kỷ 11 khi thành Thăng Long xuất
hiện thì sự phân chia thành dân tộc Mường và dân tộc Việt (kinh) rất rõ nét.
ở Hoà Bình người Mường sống tập trung ở các thung lũng và các vùng có
nhiều đồng ruộng. Bốn cánh đồng trù phú của Hoà Bình là Mường Bi (Tân Lạc),
Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Kỳ Sơn) và Mường Động (Kim Bôi).
Mặc dù có chung nguồn gốc cùng người Việt song do quá trình phân hoá
lâu đời nên đã hình thành nên ở người Mường nền văn hoá đặc sắc cùng truyền
thống bền vững của mình tạo nên sự khác biệt riêng đáng tự hào.
1.2.2 Đặc tính kinh tế
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa châu á
nên nước ta không bị sa mạc và bán sa mạc bao phủ như các nước cùng vĩ độ ở
Tây á, Đông Phi và Tây Phi. Mà khí hậu Việt Nam lại rất ẩm ướt, giàu ánh sáng
và nhiệt độ.
Với điều kiện khí hậu thuận lợi như vậy cho phép nước ta phát triển một
nền kinh tế nông nghiệp nhiệt đới đa canh với cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa
dạng, có thể phát triển quanh năm, đặc biệt là cây lương thực thực phẩm và cây
công nghiệp.
Có thể nói, người Mường ở Hoà Bình cư trú hầu hết ở vùng thung lũng và
sườn đồi núi thuộc địa bàn của tỉnh. Do vậy việc ruộng đối với họ là công việc
thường ngày và vô cùng quan trọng. Làm ruộng ở đây chủ yếu là trồng canh tác
cây lúa nước, đây là loại cây cung cấp lương thực chính cho cuộc sống của
người Mường. Còn ngoài ra họ còn làm nương rẫy, nương rẫy của người Mường
chủ yếu ở vên các sườn núi thấp và sườn đồi do vậy họ đốt nương phát rẫy trồng
thêm các loại cây như khoai, sắn, ngô... và gần đây họ đã đưa các loại cây ăn
quả ở dưới xuôi của người Việt vào trồng như vải, nhãn... Trong công tác làm
lúa nước trên ruộng bậc thang việc đưa nước tưới tiêu cho ruộng là rất quan
trọng. Người Mường và người Thái là tiêu biểu, họ có những công trình thuỷ lợi
và cách lấy nước đạt đến trình độ cao. Mương- phai- lái- lín là hệ thống thuỷ lợi
của người Thái. Còn người Mường cũng như vậy họ cũng có công trình thuỷ lợi
riêng của mình. Họ sử dụng con nước hay guồng nước được làm từ tre nứa có
sẵn. Với kỹ thuật sự khéo léo và bàn tay của người Mường đã lợi dụng sức nước
của con suối qua con nước đưa nước tưới tiêu cho khắp đồng ruộng và lấy nước
sinh hoạt một cách hết sức khoa học.
Bên cạnh công việc đồng áng và nương rẫy hầu hết cư dân Mường đều
khai thác thêm những nguồn lợi từ rừng mang lại. Ngoài việc khai thác những
cây gỗ quý như: nghiến, lim, trai, sến, táu... Họ còn khai thác nhiều loại gỗ khác
như: gỗ mỡ, gỗ thừng mực làm thoi, tre, mai để làm nhà và củi để bán lấy tiền.
Và còn phải kể đến nguồn lợi có được từ các cây thảo mộc, những cây thuốc
nam và các loại lá, vỏ, củ, cây phục vụ cho nghề thủ công. Từ nhiều đời nay
nghề thủ công luôn là một lĩnh vực đi liền và không tách rời khỏi nông nghiệp
của các dân tộc thiểu số nói chung và người Mường nói riêng. Đặc biệt việc
trồng dâu nuôi tằm kéo sợi, dệt vải là những công việc chủ yếu của người phụ
nữ và khá phát triển. Hầu hết nhà nào cũng có khung dệt vải để phục vụ cho gia
đình còn có thể đem ra trao đổi với các dân tộc khác. Đặc biệt người Mường rất
khéo léo trong công việc dệt cạp váy, với những hoa văn công phu, tinh tế đòi
hỏi sự tỷ mỷ, khéo léo rất cao. Họ còn sử dụng nhiều mô típ hoa văn trang trí
hình rồng, phượng hay các loại hoa văn hình học. Có thể nói hoa văn trên cạp
váy chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật tạo hình của người Mường.
Ngoài mục đích chính nghề dệt phục vụ cho việc sinh hoạt của người dân. Ngày
nay, nghề dệt của người Mường còn được đầu tư phát triển nhằm mục đích phát
triển du lịch như: tham quan, làm lưu niệm rất được du khách quan tâm đặc biệt
du khách quốc tế.
Nhắc đến người Mường không thể không nhắc tới công việc săn bắn của
những người đàn ông. Săn bắn được coi là sự thể hiện sức mạnh tinh thần
thượng võ, sự đoàn kết cũng như tài năng, trí tuệ của từng người và cả cộng
đồng. Săn bắn cũng chính là hình thức làm kinh tế kiếm tìm thức ăn trong những
lúc nhàn rỗi của cư dân trong bản Mường.
Tóm lại, về mặt kinh tế dưới chế độ cũ cuộc sống của người Mường rất
khó khăn thiếu thốn. Nhưng từ khi cách mạng thành công dưới sự lãnh đạo của
Đảng cùng với sự cần cù chịu khó sáng tạo của người dân nền kinh tế của người
Mường đã phát triển. Cuộc sống bớt cơ cực số hộ giàu tăng lên số hộ nghèo
giảm thiểu. Đời sống được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhân dân các
bản Mường đời sống ngày càng được cải thiện nâng cao. Ngoài công việc chính
là sản xuất nông nghiệp người dân bản Mường còn tham gia làm du lịch dưới
các hình thức dịch vụ: lưu trú, phục vụ ăn uống, bán quá lưu niệm, sản xuất quà
lưu niệm hay làm hướng dẫn viên cho khách du lịch. Đây là loại hình kinh tế
mới và mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho các bản Mường.
1.2.3 Đặc điểm văn hoá - xã hội
Nhìn chung mỗi một dân tộc đều có những cơ cấu và tổ chức xã hội riêng
cho dân tộc mình. Tuy nhiên hệ thống tổ chức chính quyền của dân tộc lại có sự
khác biệt.
Tổ chức xã hội cổ truyền của người Mường nằm chính ngay trong tên gọi
của dân tộc Mường. Mường được hình thành bởi nhiều xóm làng mỗi một làng
có một địa vực, một phạm vi đất đai, nương rẫy, núi rừng riêng và quan hệ trong
làng bản chủ yếu là mối quan hệ địa vực, láng giềng lấy đơn vị nhà (gia đình)
làm nền tảng. Trước cách mạng tháng Tám xã hội Mường cổ truyền được cai
quản đặt dưới sự cai quản bởi chế độ lang- đạo. Đây là những chúa đất nắm toàn
bộ quyền cai quản dân trong vùng. Còn các thổ lang giữ địa vị thống trị nắm
quyền quản lý và phân phối ruộng đất trong Mường, trong xóm. Thổ lang có
một số người giúp việc gọi là ậu hay Cai để điều hành các công việc trong làng
xóm. Dưới quyền của Thổ lang có tới hàng chục ậu khác nhau nhưng họ có
nhiệm vụ chung là lo thu thóc, thu hiện vật, lo cúng bái cưới xin của toàn bộ cư
dân trong địa vực Thổ lang cai quản. Dòng họ Mường theo chế độ phụ hệ do vậy
nó mang chất phụ quyền. Tế bào của chế độ phụ hệ là noọc (nóc, nóc nhà) mỗi
gia đình hạt nhân có một ngôi nhà riêng và một nền kinh tế riêng. Một trong
những biểu hiện "phụ quyền" nổi bật của nó là đặc quyền của con trai cả: được
hưởng phần lớn những tài sản do cha để lại. Con trai cả là người đứng đầu dòng
họ, nhân vật nắm quyền cao nhất trong phạm vi Mường. Con trai cả có quyền
nắm giữ việc cai quản các làng ở trung tâm còn những người con thứ được nắm
quyền coi quản các làng khác ngoài khu vực trung tâm của bản.
Ngày nay, người Mường sống quần cư thành làng bản (làng và bản tương
đương nhau theo cách gọi) dưới bản là xóm- xóm có khi chỉ bao gồm chục nóc
nhà. Một số gia đình sống độc lập riêng rẽ khi con cái trưởng thành tuy nhiên
một số gia đình vẫn sống chung dưới một mái nhà tới 3,4 thế hệ mà người đàn
ông luôn giữ vai trò chính trong gia đình. Khác với chế độ mẫu hệ của một số
dân tộc khác, dân tộc Mường coi trọng người đàn ông, họ có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của gia đình đồng thời cũng là những người lao động
chính nuôi sống gia đình.
Tới thăm bản Mường mới thấy con người ở đây hiền lành và chất phát.
Trong sự tiếp xúc ban đầu còn nhiều e dè nhưng khi đã quen nhất là hiểu biết về
nhau họ có thể tâm sự từ việc gia đình đến suy nghĩ của họ về bản làng, quan hệ
xã hội, xu hướng phát triển của người Mường hiện nay. Thời gian gần đây kinh
tế phát triển ồ ạt, Du lịch đã thổi vào các bản Mường một sức sống mới làm cho
con người nơi đây cũng bị chi phối nhiều. Tuy nhiên, hơn hết vẫn là sự hồn hậu,
chân thành, thân thiện những bản tính vốn có mà con người luôn giữ được sẽ
làm hài lòng khách tới thăm.
Chương 2 : Tiềm năng Văn hoá người Mường
trong phát triển Du lịch ở Hoà Bình
2.1 Tiềm năng Văn hoá
2.1.1 Cảnh quan Văn hoá
Địa vực cư trú chủ yếu của người Mường Hoà Bình là các thung lũng hẹp,
trên sườn núi đá vôi và thường bên các dòng suối, được bố trí theo hình rẻ quạt
người Mường vừa làm ruộng nước vừa làm nương rẫy, tập quán cư trú này của
các cư dân trồng lúa nước là định cư. Tuy nhiên khi mùa màng liên tiếp thất bát
và nương rẫy đã bạc màu một số ít di cư đến vùng khác sinh sống một thời
điểm thích hợp họ lại trở về nơi cũ ở.
“Bản Mường truyền thống không nằm trên các đường cái lớn mà nhấp
nhô thấp thoáng ẩn hiện trong màu xanh bao la của núi rừng lối vào bản Mường
thường khúc khuỷ ngoằn nghèo uốn lượn theo thế đất, thế rừng tự nhiên. Ta có
thể nhận thấy các làng bản Mường bởi dấu hiệu là các cây cao từ một góc rừng
nhỏ nhô lên một bụi cau trong một vùng lá, một mái nhà tranh hiện lên như một
khối màu nâu, một chút khói bốc lên không thành từng cộ, như những bức màn
nhìn kỹ ta thấy đó đây độ dầy một mái nhà, góc của hai bức vách, bậc một cầu
thang, ngừng lại một lúc ta nghe rõ nhịp chày giã gạo”, học giả T. Quy-gi-nê
trong (Les Mường) đá mô tả làng bản Mường rất sinh động như vậy.
Bước vào bản Mường ngay đầu bản nơi mó nước, xa xa là nơi đặt cọn
nước - một biểu tượng nên thơ với những em bé đứng tắm, nô đùa, xa một chút
là cối giã gạo bằng nước, công trình tuyệt vời mang dáng vẻ đặc trưng Mường.
Phía xa là những thửa ruộng bậc thang mầu mỡ xen kẽ những mảnh rừng xanh
thắm bóng dáng chàng trai cô gái Mường lao động sản xuất. Tất cả người và
thiên nhiên như hoà quyện tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình tuyệt đẹp
mang dáng vẻ Mường làm nao lòng biết bao du khách.
Như hầu hết các dân tộc khác, người Mường cũng có nghĩa địa chung của
mình. Nghĩa địa nằm dưới những tán cây cối um tùm ở phía Tây của mỗi bản.
Mỗi làng bản của người Mường có địa vực cư trú riêng, có phạm vi đất
canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối riêng thuộc quyền quản lý sử dụng của
mỗi bản. Quy mô đất đai của từng làng bản to hay nhỏ phụ thuộc vào hoàn cảnh
địa lý, vào quy mô dân số, số lượng nóc nhà trong bản đó.
Với điều kiện sống như vậy họ sống hoà mình trong núi rừng hiền hoà
tươi đẹp nên cuộc sống của người Mường gắn liền với núi rừng Hoà Bình. Mọi
sinh hoạt từ tôn giáo tín ngưỡng phong tục tập quán đến các nhu cầu thường
nhật nhất cần thiết nhất ăn, mặc, ở đều do núi rừng mang lại. Người Mường yêu
núi, rừng, ruộng nương của họ như người Kinh yêu đồng bằng yêu con sông
mang nặng phù sa của mình vậy. Từ cảnh quan văn hoá nơi cư trú ấy đã tạo nên
một sắc thái văn hoá truyền thống đẹp đẽ của người Mường.
2.1.2 Văn hoá vật thể
Văn hoá vật thể được hiểu là những biểu hiện văn hoá bằng những động
sản và bất động sản có kết cấu vật chất không gian 3 chiều. Trong đời sống văn
hoá tộc người đó là toàn bộ nhũng công trình kiến trúc như: Nhà cửa cầu cống,
thành quách, các công trình dân dụng, kiến trúc tôn giáo nghệ thuật hay động
sản như công cụ sản xuất, đồ dùng dân dụng, trang phục, ăn uống... Đặc điểm cơ
bản của Văn hoá vật chất là cho ta thấy những tri thức cụ thể về bản thân nó,
hình dáng, kích thước, trọng lượng, màu sắc, chất liệu. Tuy nhiên vấn đề của
Văn hoá vật chất không chỉ ở bản thân nó mà còn là mối quan hệ giữa con người
với con người thông qua các biểu hiện vật chất đó hay có trong tư duy, lao động
của con người kết tinh trong các giá trị biểu hiện vật chất đó.
1. Nhà ở
Nếu một lần đến thăm bản Mường chắc hẳn sẽ không ngỡ ngàng trước vẻ
đẹp của phong cảnh nơi đây. Người Mường sống quần cư thành từng bản dưới
bản là xóm, trên bản là Mường. Một xóm có khi chỉ năm sáu chục nóc nhà (1 hộ
gia đình). Mường là bộ phận một vùng đất không phân chia theo đơn vị hành
chính, cũng không theo tập quán cư trú, cũng có thể có Mường rộng bằng vài xã,
vài huyện.
Trong xã hội cổ truyền, nhà sàn là nơi ở phổ biến của người Mường Hoà
Bình. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, một số nơi như thị trấn, thị xã người
Mường không ở nhà sàn mà ở nhà xây như người Kinh. Ngôi nhà ẩn hiện trong
núi rừng, thấp thoáng trong bóng cây. Ngôi nhà là tài sản quan trọng đối với các
dân tộc nói chung hay với người Mường nói riêng. Đây là kiểu nhà của đại đa số
các dân tộc ít người trên nước ta cư trú ở vùng miền núi thích hợp với điều kiện
địa hình tự nhiên. Người Mường đã gắn bó với ngôi nhà sàn của họ từ rất lâu
đời. Nhà sàn được coi là nếp văn hoá đẹp của người Mường.
Ngôi nhà sàn là nơi diễn ra hầu hết mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình.
Từ bề ngoài ngôi nhà sàn của người Mường rất dễ nhận biết: có 4 mái hai mái
trước hình tam giác cân, hai mái đầu hồi có hình tam giác. Kết cấu của nhà sàn
Mường gồm có các vì kèo và các hàng cột, trong các hàng cột chia ra cột cái và
cột con. Nếu chú ý hơn ở nhà sàn truyền thống thường có 2 vì kèo 4 cột cái và 8
cột con, ở giữa hai đầu cột cái nối với nhau bởi xà ngang ngoài ra còn có các
đòn tay nối các vì kèo với nhau, trên đòn tay có các hàng rui, trên rui có các
hàng mè nằm vuông góc. Trên cùng là đòn nóc. Nhà của người Mường lợp bằng
tranh hoặc bằng rạ. Sàn nhà làm bằng cây bương đập dập. Cột nhà làm bằng
những cây gỗ to cũng có thể được chôn xuống đất hay kê trên hòn đá tảng. Nhìn
chung ngôi nhà sàn của người Mường được làm từ hầu hết các vật liệu từ thiên
nhiên núi rừng mang lại như gỗ tre, nứa đất đá...
Việc tìm hiểu phong cách kiến trúc về ngôi nhà sàn của người Mường là
một điều vô cùng thích thú đối với khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc
tế. Ngôi nhà sàn của người Mường Hoà Bình theo truyền thuyết được xây dựng
theo truyền thuyết của thần rùa. Do vậy hình dáng ngôi nhà giống với hình dáng
của con rùa. Đối với người Mường con rùa trở thành vật linh thiêng.
Du khách chắc sẽ rất ngỡ ngàng trước lối kiến trúc, bố trí không gian
trong căn nhà của người Mường đơn giản song lại vô cùng khoa học và hợp lý,
phù hợp với lối sống, tập tục và cách sinh hoạt của người dân miền núi.
Toàn bộ khuôn viên nhà sàn được phân ra thành 3 phần rõ rệt. Mặt trên
cùng là gác đựng lương thực, đồ dùng gia đình, sàn nhà là nơi sinh hoạt nghỉ
ngơi, gầm sàn để các dụng cụ sản xuất, nhốt gia xúc. Phần không gian được chia
theo cả chiều dọc và chiều ngang. Từ cầu thang chính bước vào sàn phía dưới là
bếp phía trên là bàn thờ, phía ngoài để tiếp khách, phía trong là nơi sinh hoạt của
phụ nữ. Du khách muốn bước lên ngôi nhà sàn qua cầu thang chính phải rửa
chân trên phiến đá, có bồn gỗ đựng hoặc ống tre để đựng nước rửa chân trước
khi lên nhà sàn. Cầu thang phụ dùng để người nhà sử dụng khi làm ruộng nương
về hay gia đình có khách.
Rất nhiều khách du lịch rất ấn tượng rất thích thú khi được lưu lại qua
đêm tại ngôi nhà sàn của người Mường. Ngồi bên bếp lửa uống rượu cần nghe
tiếng hát của các cô gái Mường xinh đẹp, thưởng thức trích đoạn những áng Mo
trong tiếng trầm bổng vang vọng của tiếng cồng chiêng. Đây là hình thức đang
được các Công ty du lịch tổ chức thiết kế tour thực hiện tạo được ấn tượng và sự
thích thú của du khách.
2. Ăn uống:
Trên dòng chảy vô cùng vô tận của thời gian, ở khía cạnh sinh học con
người vốn được coi là sản phẩm hoàn hảo nhất, hoàn chỉnh nhất. Tuy nhiên,
cũng đứng ở khía cạnh sinh học, với tư cách là một động vật cấp cao cái hoạt
động tiến hoá, về ăn uống, phục vụ cho mục đích sinh tồn của chúng ta lại chẳng
cách biệt đáng kể nào so với tất cả mọi loài sinh vật trên trái đất. Một trong
những nhu cầu bản năng cao nhất của mọi động vật nhằm tồn tại.
Nhờ có ngôn ngữ và tư duy, con người từ một động vật sinh học đã trở
thành một động vật - xã hội, một biến đổi về chất có ý nghĩa quyết định đưa
chúng ta đến việc chở thành kẻ thống trị muôn loài, chủ nhân của nhân loài. Ăn
uống không chỉ đơn thuần là thứ nhu cầu thuần tuý một hoạt động mang tính
sinh học đơn thuần mà còn mang trong nó các yếu tố văn hoá xã hội khác.
Cũng như mọi dân tộc khác trên thế giới, trước hết các món ăn của người
dân tộc Mường được chế biến từ các nguyên liệu dựa vào trồng trọt chăn nuôi,
săn bắt và hái lượm làm nguồn cung cấp thức ăn chính: Trên nương dưới ruộng
người Mường ít trồng cây ăn quả mà chủ yếu là lúa ngô, khoai sắn, vừng đậu...
Họ tận dụng mọi yếu tố của tự nhiên để làm ruộng. Bất kể ở đâu có đất mà có
thể đưa được nước vào là họ ở đó canh tác. Những con suối tự nhiên được lợi
dụng trở thành mương dẫn nước những mảnh đất màu mở tốt được biến thành
ruộng nương tra hạt trồng cây. Tuy nhiên, trong bữa ăn hàng ngày của người
Mường cơm nếp được sử dụng thường xuyên bởi giá trị dinh dưỡng của nó. Còn
cơm tẻ trở thành thứ sa sỉ, trong khi nhà có khách hay người già ốm...
Bên cạnh công việc trồng cây lương thực chính người Mường còn chăn
nuôi gia súc để làm nguồn thực phẩm cung cấp cho các bữa ăn. Nhưng khác với
đồng bằng các con vật nuôi đa số được thả rông.
Rau hàng ngày được hái từ trong rừng và vườn nhà. Bằng kinh nghiệm
tích luỹ từ bao đời nay họ biết được hàng chục loại rau ngon nhất là rau sắng
cùng với các loại măng... Rừng cho người Mường rau quả quanh năm. Sông suối
không chỉ cung cấp nguồn nước tưới tiêu, sinh hoạt mà còn là nguồn cung cấp
thuỷ sản cho bản Mường.
Ngoài ra săn bắt, hái lượm cũng cung cấp thêm nguồn thức ăn cho người
Mường. Như hầu hết các cư dân vùng Đông Nam á, với kỹ thuật canh tác trồng
lúa người Mường từ xa xưa đã hình thành tập quán ăn cơm gạo. Khác với người
Kinh người Mường thường ăn cơm nếp hàng ngày và thường ăn nguội. Bữa
sáng thường ăn khi đi làm nương rẫy. Bữa trưa ăn sau khi đi làm về, bữa tối
thường ăn muộn hơn. Bữa trưa và tối bao giờ cũng có thêm rau và thức ăn. Do
sống trong điều kiện như vậy nếu để ý ta không khỏi ngạc nhiên bởi hầu hết các
dụng cụ để phục vụ bữa ăn thường được làm từ tre, gỗ... của núi rừng.
Nhìn chung các món ăn của người Mường khá là phong phú mang đậm
bản sắc dân tộc. Các món ăn chủ yếu được chế biến từ các nguyên liệu từ thiên
nhiên. Người Mường với các món ăn tiêu biểu đặc trưng là: món cá chua, đĩa
quéch, ngách lưỡi, loạng, pưng năng, pẹng giọng... Ngoài ra còn một số món ăn
khác được người Mường chế biến để dùng vào các dịp lễ tết hay thờ cúng riêng.
Nhưng thông thường thì trước khi ăn bao giờ người Mường cũng có tục đặt lên
bàn thờ cúng tổ tiên trước rồi mới ăn sau.
Về các món ăn là như vậy còn về đồ uống của người Mường. Nhắc đến
văn hoá Mường trong nếp sinh hoạt cộng đồng Mường trong các buổi lễ, tiếp
khách bao giờ cũng không thể thiếu rượu cần. Từ Hà Nội qua Hà Tây tới Lương
Sơn du khách sẽ bắt gặp ngay những quán bên đường bày bán rượu cần. Rượu
cần là một nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc của người Mường.
Tục uống rượu cần của người Mường đã có từ rất xa xưa. Cần được làm
từ cây trúc hoặc bằng mảng tre thông nòng. Hình dáng của chiếc cần tuỳ theo độ
cong lượn của vò rượu. Một điều đặc biệt, một điều rất thú vị là hình dáng của
những chiếc cần phụ thuộc vào tính cách của chủ do vậy không bộ cần nào
giống bộ cần nào.
Bình đựng rượu cần coi là vật gia bảo càng lâu càng trở nên quý hiếm và
là của hồi môn. Để có được một ché rượu cần ngon thì từ cách làm đến cách
uống phải thật công phu và mang tính nghệ thuật cao.
Để chế biến loại rượu cần này: Lấy một nắm lá quế đem giã nhỏ trộn với
bột gạo, sau đó thứ bột này được nhào kỹ và nắm lại thành từng viên bằng quả
trứng gà. Các nắm này được đựng vào mủng, mặt bên dưới lót lá chuối khô và
đem ra hong chỗ thoáng không có ánh nắng mặt trời để làm nên những bánh
men. Sau đó chùi sạch cám ở men, ngâm gạo nếp rồi trộn một gạo hai cám đem
đồ không đậy vung, dỡ ra để nguội rồi rắc bột men vào cơm nguội, đắp lá chuối
lên, phơi khô, cho vào vò phủ một lần lá chuối, lấy tro nhào nước bịt kín lại. Sau
từ 3 đến 5 ngày mở hé miệng vò, đổ nước suối sạch gần đến miệng mà ở đó có
nan nứa cài rồi lấy lá rừng cho vào vò rượu và cắm cần tre vào miệng vò cùng
uống.
Tục uống rượu cần thường có các cặp chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, dùng
2 hoặc 3 cần cùng một lúc. Rượu uống đến đâu nước lại được cho thêm vào
miệng vò sao cho mặt nước lúc nào cũng mấp mé trực tràn miêng vò. Cũng có
lúc theo tục lệ uống rượu cần chia làm 2 phe, phe nào uống kém sẽ bị phe kia đổ
nước lên đầu.
Từ rất lâu rượu cần đã trở thành thân quen với khách du lịch. Song thật ấn
tượng và cũng thật may mắn nếu du khách được dự một buổi tiệc của người
Mường. Chủ nhà sẽ trải chiếu vuông vắn giữa sàn rồi bưng vò rượu đặt chính
giữa chiếu, mọi người ngồi vòng quanh. Sau những lời hỏi thăm sức khoẻ gia
đình, quê quán, chủ nhà mời tất cả chụm môi uống “của vườn của suối cho bớt
mệt nhọc đường xa” người Mường gọi là uống thông cần. Tiếp theo là uống đôi
giữa chủ và khách, uống nam nữ, uống 4 người, 6 người và nhiều nữa. Họ vừa
uống vừa hát, hỏi thăm, hát mời, hát tiễn đưa, hát hẹn ước... lời hát bay bổng hoà
trong nhịp điệu trầm ấm mà vang vọng của tiếng cồng chiêng.
Chỉ một lần thưởng thức rượu cần mới thấy hết được nét đẹp trong tục
uống rượu cần của người Mường. Tục uống rượu cần không chỉ thể hiện nét đẹp
trong văn hoá ẩm thực mà nó còn là nét đẹp trong văn hoá ứng xử, thể hiện sự
tinh tế và tính cộng đồng cao độ. Rượu cần là cái không thể thiếu trong mỗi bữa
tiếp khách, trong mỗi dịp lễ tết nó trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên của
người dân vùng miền núi Hoà Bình tươi đẹp này. Đến bản Mường ngồi xung
quanh vò rượu cần thưởng thức hương vị của núi rừng Tây Bắc nghe điệu hát,
điệu múa, nghe sử thi “Đẻ đất đẻ nước” hoà quyện trong tiếng cồng chiêng âm
thanh của rừng là một bước không thể thiếu trong chương trình du lịch của du
khách. Nếu chưa uống rượu cần thì chắc hẳn chưa được coi là đến Hoà Bình
thăm bản làng Mường. Một bình rượu cần đặc biệt là vào dịp Tết thật là một
món quà tuyệt vời có ý nghĩa dành cho người thân.
Ngoài rượu cần đồ uống của người Mường là nước suối. Người Mường
còn tìm được các lá cây rừng để làm nước uống cho mình có tác dụng chữa bệnh
có lợi cho sức khoẻ như lá vối, lá chè...
3. Trang phục:
Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hoá độc đáo của mình qua
trang phục. Và cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu, thông tin quan trọng
thứ hai để khi có dịp tiếp xúc chúng ta dễ dàng nhận biết được tộc người này với
tộc người khác.
Trang phục của 54 thành phần dân tộc ở Việt Nam được coi là một vườn
hoá văn hoá rực rỡ sắc màu và đậm đà sắc thái tộc người, mà trong đó trang
phục của người Mường là bông hoá đẹp trong vườn hoa văn hoá đa sắc ấy.
Nghiên cứu và tìm hiểu về trang phục tức là chúng ta đi vào giải mã
những dung lượng thông tin văn hoá ẩn chứa bên trong đồng thời thông qua
trang phục của các dân tộc, chúng ta có thể thấy được, hiểu được những biểu
hiện của nếp sống tộc người cũng như đặc trưng văn hoá của họ được thể hiện
một cách rõ nét.
Trang phục của các dân tộc quả là rất đa dạng và phong phú bởi từng lứa
tuổi, từng giới tính lại có lối cắt may xử lý khác nhau. Rồi dần dần những trang
phục này không đơn thuần chỉ có vai trò quan trọng trong việc sử dụng để bảo
vệ cơ thể mà nó còn đạt đến trình độ thẩm mỹ dân gian khá cao, phản ánh nếp
sống văn hoá dân gian của cộng đồng dân tộc đó.
Cùng với sự phát triển của tộc người Mường trang phục cũng có một quá
trình hình thành và phát triển lâu dài. Nó gắn bó một cách mật thiết và tồn tại
trong sự vận hành của đời sống tộc người: “Bởi lẽ trang phục là một trong
những nhu cầu “đời sống trực tiếp” của xã hội loài người” (Anghen).
Từ khoảng nửa thế kỷ nay, bộ nữ phục người Mường đã trở nên dần quen
thuộc, gây ấn tượng với chiếc váy bó sát thân, cạp váy hoa phô trước ngực,
chiếc áo cánh lửng, chiếc áo trùng buộc vạt, thắt lưng xanh tấm khắn trắng đội
đầu, vòng kiềng sáng lấp lánh. Bộ nữ phục ấy không có vẻ diêm dúa quá như nữ
phục Thái hay kín đáo quá như nữ phục Tày. Nữ phục Mường tiềm ẩn những
sắc thái riêng qua đường nét may và qua màu sắc trang trí.
Về áo phụ nữ Mường có hai loại áo: áo ngắn (áo pắn) và áo dài (áo
chùng).
áo ngắn (áo pắn) là áo mặc thường ngày của phụ nữ Mường, áo may ngắn
thân, xẻ ngực, thường thì không có khuy, nhưng nếu có là một chiếc khuy bấm ở
ngang ngực. Cổ áo tròn, ống tay dài tới mu bàn tay và bó sát cánh tay. ở giữa
sống lưng có một đường may ghép từ cổ áo xuống tận gấu áo. áo ngắn được may
bằng vải thường hoặc lụa với các màu sặc sỡ trong đó phần nhiều là màu trắng.
áo mặc bó sát lấy thân người, áo không có khuy nên để lộ phần cạp váy trước
ngực và chiếc yếm bó sát lấy ngực vừa nền nã, vừa kín đáo nhưng lại có sức gợi
cảm cao. Trước đây áo ngắn không may túi, nhưng gần đây phụ nữ Mường đã
cải tiến dần chiếc áo ngắn của mình bằng cách may hai túi nhỏ ở hai vạt áo trước
và cắt lượn tròn hai bên vạt áo tạo dáng mềm mại. Nẹp áo may to từ 3 đến 4 cm
với màu sắc sặc sỡ. Đường viền cổ áo, cổ tay áo có thuê thùa và đính chỉ màu.
áo dài (áo chùng) thường được mặc để tiếp khách hay đi lễ hội, áo may
dài tới qúa đầu gối, phần nửa thân trên giống áo ngắn. Phần nửa thân dưới từ eo
xuống buông xuôi may rộng dần. áo xẻ ngực nhưng không xẻ tà, khi mặc áo
phải ôm kín lấy phần lớn thân sau. Trước đây áo may bằng vải sợi tự dệt. Ngày
nay, phụ nữ Mường còn dùng chất liệu vải mỏng, mềm như: Lụa, gấm với các
màu sắc sang trọng. áo chùng truyền thống thường là màu xanh đen, riêng áo
chùng của các bà mỡi (Mế Mỡi) thường dùng màu trắng. Trong lễ cưới, làng dâu
và hai phù dâu (Piềng) mặc áo chùng và ngồi xếp mái (ngồi khép hai chân về
một bên người hơi nghiêng về bên kia) trình trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng.
Các bà ngồi ăn trầu uống rượu trên nhà sàn thường để áo chùm mông, hạt vạt
trước kéo gọn kín vào lòng. Trong những dịp lễ hội, các cuộc vui phụ nữ Mường
đặc biệt là các Mế thường mặc áo chùng buông vạt cùng chiếc váy cạp đầu
Rồng, nẹp gấu in hoa cùng nhiều đồ trang sức đắt tiền càng làm tôn thêm vẻ đẹp
của người phụ nữ Mường.
Đặc biệt trang phục của phụ nữ Mường dễ nhận biết nhất là cạp váy
Mường. Đây là phần trung tâm của váy. Xét về mặt bằng cảm quan của người
quan sát hay tư duy phân tích của người nghiên cứu thì chiếc váy của phụ nữ
Mường thực sự đóng vai trò trung tâm của bộ nữ phục. Cạp váy Mường là nét
đặc sắc riêng có ở phụ nữ Mường, cạp váy Mường mang tính nghệ thuật cao nó
thể hiện lối tư duy, trình độ nhận thức, hình hoạ, thêu dệt của người phụ nữ
Mường. Nói một cách khác cạp váy Mường là niềm tự hào, sự kiêu hãnh của
người phụ nữ miền sơn cước này.
Váy được chia làm 2 phần chính: Phần trên từ ngang hông trở lên gọi là
cạp váy, phần thân dưới từ tiếp giáp với cạp váy đến gấu váy gọi là thân váy.
Phần cạp váy rất rực rỡ, bởi nó được thêu bằng chỉ màu sắc sỡ có hình đầu Rồng
và rất cầu kỳ, đây là đặc trưng nổi bật của cạp váy Mường. Cạp váy chia làm ba
phần: Cao; Trốch (giữa); Đang (trên cùng).
- Phần Cao: rộng khoảng 10cm, trang trí vòng quanh eo bằng những sọc
đứng màu đỏ, vàng, nâu xen kẽ giữa các hình cỏ cây hoa lá cách điệu giống như
kiểu mặt Phà (Phà là loại hoa văn trang trí ở hai mặt của chiếc chăn bông).
Phần Trốch: có nhiều kiểu khác nhau: Vẹn; Poong; Buôn lái mê (Vẹn en)
thường phối với các màu xanh, đỏ, vàng. Trốch Vẹn bố trí hoa văn nhỏ, màu tối
sẫm, ấm giản dị. Trốch Poong, Trốch lái mê hoa văn rực rỡ màu đỏ, vàng là loại
Trốch đẹp nhất. Sang trọng và cầu kỳ là loại Trốch buôn, được dệt bằng lụa tơ
tằm bền và bóng mịn, trên mặt nổi nhiều hoa văn hình động vật như: Hươu,
chim, gà, rắn, rùa và đặc biệt là đầu Rồng. Kiểu trang trí hoa văn này giống như
trang trí trên mặt trống đồng. Các hình con vật chạy theo một hướng nối đuôi
nhau theo từng dải. Nếu dải trên chạy theo hướng phải thì dải dưới chạy theo
hướng ngược lại, mỗi dải được ngăn cách bằng những hình núi đồi.
- Phần Đang: Phần này được phối hợp hai màu chính đen và trắng. Trang
trí kiểu hình học, một màu trắng nổi trên màu đen, nhìn như những chùm sao
nhỏ trên bầu trời đêm thu.
- Phàn thân váy: Thường được may bằng vải mộc (mặc thường ngày)
bằng lụa, vóc (mặc vào dịp lễ tết) thân váy thường là màu đen hoặc tối màu.
Thân váy nối từ cạp váy xuống tới gót chân, bên trong gấu váy có lót vải đỏ
rộng 3cm, đối với váy mặc thường ngày thì ít khi lót gấu váy bằng vải đỏ.
- Dải thắt lưng: (cái Tênh) Tênh làm bằng vải lụa dài hơn một sải tay,
khâu nối hai đầu thành một vòng tròn khép kín. Tênh được thắt đúng giữa eo,
trên phần cao váy. Khi thắt Tênh đầu nút của Tênh thường buông về phía bên
hông phải và được giấu vào trong, tạo thành kiểu chiếc nơ buông một đầu xuống
khoảng một gang tay. Tênh thường màu trắng, tím, vàng, xanh. Đẹp nhất vẫn là
màu xanh thiên lý, màu này các thiếu nữ thích dùng vì nó tôn được vẻ đẹp hài
hoà của chiếc váy.
- Khăn đội đầu: (Bít Trốch) khăn đội đầu bằng vải trắng rộng khoảng
15cm, dài đủ cuốn quanh đầu và dắt mối khoảng 50 - 60cm. Khi đội khăn tóc
phải búi cao về phía sau gáy. Các thiếu nữ thường tạo hình quả núi trên đỉnh đầu
nhưng người già lại tạo dáng khăn tròn quanh đầu để tôn vẻ đôn hậu. Hiện nay
đối với phụ nữ Mường ở một số vùng có xu hướng thích buông tóc dài hơn là
đội khăn. Còn những người trung niên và cao tuổi thì chiếc bít Trốch truyền
thống vẫn là vẻ đẹp riêng của người phụ nữ Mường.
- Đồ trang sức:
Vòng bạc (Lằm): vòng bạc đeo ở cổ tay có loại dẹt và loại tròn, loại dẹt
bản mỏng như lá lúa; loại tròn hình tròn như chiếc đũa, trên mặt Lằm có trạm
nổi và khắc hình hoạ rất tinh xảo và đẹp.
Chuỗi hạt cườm (Pươn khạn) chỗi hạt gọi là Pươn khạn được đeo ở cổ
làm vật trang sức, người Mường rất quý trọng Pươn khạn vì nó ít hơn Lằm và
khó mua. Pươn khạn loại đẹp có thể đổi được trâu. Người ta tạo hạt Pươn khạn
từ đá màu và có hình quả trám hoặc lục lăng.
Bộ xà tích: Đây là một trong những đồ trang sức của người Mường. Bộ xà
tích không chỉ làm đẹp mà còn tôn vẻ quý phái và biểu hiện sự giàu sang của
người phụ nữ có địa vị trong xã hội. Bộ xà tích làm bằng bạc, được tết thành dây
nhỏ hình 4 cạnh. Mỗi sợi dài khoảng hai gang tay, bốn sợi gập lại thành tám dây.
Cùng với các sợi xà tích có các hộp hình trái đào và các móng vuốt của hổ có bịt
bạc. Xà tích thường được móc vào tênh bên hông phải, buông võng xuống phía
bụng dưới, đầu cuối của sợi xà tích móc vào hộp hình trái đào và chùm móng
vuốt hổ.
- Trang phục tang lễ: Tất cả các con, cháu, trai, gái, dâu, rể và những thân
nhân thuộc về bề dưới của người quá cố đều phải mặc trang phục lễ tang gọi là
đồ tem. Bộ tem phải đầy đủ mũ hình phễu, áo pắn, áo chùng, váy không có cạp
thêu trang trí, tênh, khăn. Tất cả bộ tem phải may bằng vải thô tự làm màu trắng.
Riêng các làng dâu trong nội ngoại tộc của người quá cố phải mặc áo chùng khi
thầy mo làm lễ mời cơm, mời bánh, mời rượu người quá cố. Trang phục lễ tang
của các làng dâu phải lộng lẫy: áo pắn, áo chùm may bằng vóc có hoa văn đỏ.
Tay phải cầm chiếc quạt cọ để múa, tay trái cầm một chiếc gậy nhỏ đầu nhọn đặt
trên vai, trên đầy chiếc gậy buộc một chiếc kéo và một chiếc lá rừng có hình bàn
tay người gọi là lá tay ma. Đầu đội chiếc mũ hình lưỡi búa tầm sét lộn ngược, có
những dải tua thuê thùa rực rỡ buông xuôi xuống lưng dài tới quá khuỷu chân,
đằng trước mặt thì buông xuôi 2 bên má. Đuôi mũ chia làm nhiều hình chữ nhật
bằng vải đỏ hoặc thêu màu đỏ, tím, vàng, bằng những sọc dọc to bằng ngón tay.
Mỗi sọc đều đính hạt cườm. Chiếc quạt cọ hình tròn hoặc hình quả tim. Lá cọ
tước nhỏ tết thành quạt có đường kính độ 40cm, có cán để cầm. áo chùng của
các nàng dâu trong lễ tang may rộng thân và dài sát gót, loại áo chùng này cài
khuy bên vai sườn phải, không xẻ tà, tay áo hơi ngắn và rộng. áo may bằng góc
đỏ hoặc trắng.
Ngoài ra, trang phục nữ Mường còn được mặc và may theo địa vị hay
trong nhà có việc đại sự đám tang... mà qua cách ăn mặc ta có thể phân biệt
được.
Không giống như nữ giới trang phục của các chàng trai Mường đơn giản
hơn. áo cũng có hai loại áo cánh và áo dài.
áo cánh (áo Kéng): áo cánh may xẻ ngực cài khuy, áo may dài chùm
mông, cổ đứng cao 3cm, chùm quanh vai là một miếng vải lót phía bên trong
hình bán nguyệt tạo dáng đứng của áo. ở giữa sống lưng may ghép hai thân áo
thẳng từ cổ áo xuống đến gấu áo. ở hai vạt áo trước sát với gấu áo may hai chiếc
túi khá to. Trên ngực bên trái may một túi nhỏ có gân chéo ở gần miệng túi và
làm bằng vải màu trang trí, áo không xẻ nách, tay áo dài buông tới mu bàn tay,
ống tay áo may vừa phải có thể sắn tay lên tới khuỷu tay. áo may tạo dáng khoẻ
khoắn và giản dị.
áo dài: Nam giới Mường thường mặc lồng một đôi áo chùng (mặc kép),
áo chùng có hai loại: loại sang may bằng lụa màu xanh, màu tím hoặc màu vàng.