Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Các trở ngại trong triển khai ứng dụng Chính phủ điện tử ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.58 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI



BÀI THẢO LUẬN NHÓM 4
Đề tài
Các trở ngại trong triển khai ứng dụng Chính phủ
điện tử ở Việt Nam

Lớp HP

: Chính phủ điện tử

Mã lớp HP

: 1556eCOM1311

GV hướng dẫn

: Hoàng Hải Hà

Hà Nội - 2015

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT N


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN NHÓM 4
Thời gian và địa điểm họp: Sân thư viện
STT Nội dung công việc
Người chịu trách nhiệm
Viết mở bài+ kết luận, làm đề cương,
1
Lê Thị Bích Phương (NT)
tổng hợp bài
2
Làm slide
Lê Xuân Qúy (TK)
3
Thuyết trình
Nguyễn Thị Lan Phương
4
Cơ sở lý thuyết
Nguyễn Thị Quỳnh
5
Chương 2: 2.1+2.2
Trần Văn Sơn
6
Chương 2: Phần 2.3+2.4
Nguyễn Thị Thắm
7
Chương 2: Phần 2.5+2.6
Nguyễn Tất Thắng
8
Chương 3: Phần 3.1+3.2

Nguyễn Hoàng Sơn
9
Chương 3: Phần 3.3+3.4
Nguyễn Thị Phượng
10
Chương 3: Phần 3.5+3.6+3.7
Phùng Thị Quyên

Đánh giá
A
A
A
A
A
A
A
A
A
A

Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2015
Nhóm trưởng

2


MỞ ĐẦU
Trong môi trường mà công nghệ thông tin phát triển vượt bậc và xu hướng
toàn cầu hóa là tất yếu đối với mỗi quốc gia thì việc triển khai ứng dụng
Chính phủ điện tử là vô cùng quan trọng. Chính phủ luôn đóng vai trò cực kỳ

quan trọng trong công cuộc kinh tế kinh tế - xã hội của một quốc gia. Nhưng
làm thế nào để bộ máy Chính phủ hoạt động hiệu quả và ít tốn kém nhất? Câu
trả lời được nhiều người tán thành là phát triển Chính phủ điện tử. Trong bối
cảnh chi phí công đang ngày càng trở thành nỗi ám ảnh thời hậu khủng
khoảng, Chính phủ điện tử càng là bước đi cấp thiết của tất cả nền kinh tế.
Trong bài thảo luận của mình, nhóm 4 đã tìm hiểu những trở ngại trong quá
3


trình triển khai chính phủ điện tử ở nước ta, từ đó nắm được những khó khăn
mà chúng ta đang gặp phải và đề xuất một số giải pháp để có thể khắc phục
được những khó khăn đó.

CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1.
1.1.1.

Khoảng cách dân số
Khái niệm, yếu tố cấu thành khoảng cách dân số
Khái niệm khoảng cách dân số: là sự chênh lệch về điều kiện, khả năng

sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin để truy cập các nguồn thông tin,
tri thức.
Yếu tố cấu thành khoảng cách dân số:

4


-


Tiếp cận vật lý: liên quan đến phân bổ các thiết bị CNTT/con người, cá

-

nhân phải có máy tính và máy tính có thể kết nối internet.
Tiếp cận tài chính: chi phí mua sắm, đầu tư, sử dụng CNTT
Tiếp cận địa lí và những vấn đề về nhân khẩu học các khu vực cư trú

-

khách nhau, giới tính, lứa tuổi, học vấn tạo ra khoảng cách dân số.
Tiếp cận nhận thức: để sử dụng CNTT, người dùng cần có những kiến
thức cơ bản về CNTT. Thách thức hơn nữa là tình trạng quá tải thông

-

tin và khả năng tìm kiếm và sử dụng thông tin đáng tin cậy.
Tiếp cận thiết kế: máy tính cần phải được tiếp cận tới những người có

-

khả năng học tập và khả năng thể chất khác nhau.
Tiếp cận thể chế: số lượng người dùng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi việc
truy cập chỉ được cung cấp tại gia đình, hay thông qua các trường học,

1.1.2.

trung tâm cộng đồng, các tổ chức tôn giáo, quán cà phê,…
Tiếp cận chính trị

Tiếp cận văn hóa.
Vấn đề thu hẹp khoảng cách dân số
Thu hẹp khoảng cách dân số là rất cần thiết, xét trên 4 nhóm lý do sau:

-

Bình đẳng về kinh tế: quan điểm cho rằng việc truy cập internet được
coi là một quyền cơ bản của còn người trong xã hội phát triển. điện
thoại di động và các kênh trực tuyến được coi là một yếu tố quan trọng
trong các vấn đề an ninh. Y tế, hình sự là cá trường hợp khẩn cấp sẽ
được xử lý tốt hơn nếu người gặp rắc rối có quyền và có khả nng sử
dụng điện thoại hoăc các kênh thông báo trực tuyến kết nối với cơ quan

-

có thẩm quyền giải quyết.
Di động xã hội: rất nhiều người dân tin rằng mạng máy tính và máy
tính đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc học tập và sự nghiệp

-

của họ.
Dân chủ: việc sử dụng internet sẽ dẫn đến một nền dân chủ lành mạnh
trong đó ở mức độ cao nhất là sự tham gia của dân chúng trong hoạt
động bầu cử và các quá trình ra quyết định của chính phủ. Việc đảm

5


bảo sự công bằng về ICT cho người dân sẽ đem đến một nền dân chủ

-

rộng rãi và hiệu quả.
Tăng trưởng kinh tế: sự phát triển cuar ICT và việc sử dụng tích cực sẽ
là một phím tắt để tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia kém phát triển.
Việc khai thác được công nghệ thông tin mới nhất ứng dụng cho các

1.1.3.

ngành công nghiệp sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia
Vai trò của chính phủ điện tử trong thu hẹp khoảng cách dân số
Thu hẹp và dẫn tới xóa bỏ khoảng cách dân số không phải chuyện một

sớm một chiều mà cần phải có sự nỗ lực hết sức của chính phủ trong một thời
gian rất dài. Đây là thách thức không chỉ ở hiện tại mà của cả tương lai, vì nếu
không xóa bỏ khoảng cách dân số thì không thể nào xay dựng được một
CPĐT hoàn chỉnh.
CPĐT có thể làm cho việc cung cấp các dịch vụ cơ bản của con người
trở nên khá khả thi, những dịch vụ quan trọng và được ưu tiên ở các nước
đang phát triển là cung cấp truy cập ICT cho các cộng đồng và khu vực không
được quan tâm, cũng tham gia vào tiến trình chính trị.
ICT là một công cụ đầy đủ sức mạnh trong việc nâng cao chất lượng và
tính hiệu quả của cá dịch vụ công như y tế , giáo dục đặc biệt là ở nơi khan
hiếm về nguồn lực và cách xa về mặt địa lý.
1.1.4. Giải pháp thu hẹp khoảng cách dân số

Giải pháp khoảng cách dân số đòi hỏi một số tiếp cận đa chiều, liên
quan đến:
-


Đảm bảo khả năng tiếp cận với giá cả phải chăng tới các công cụ thông
tin cho người cao tuổi, người nghèo, người thiểu năng và những người
sống ở khu vực nông thôn. Cần phát triển các điểm truy cập internet tại
các tổ chức công cộng như thư viện, bưu điện, và các cơ sở chính
quyền địa phương và khu vực, trường học… qua đó các cá nhân có thể

6


làm quen với công nghệ thông tin và phát triển kỹ năng quan trọng có
-

liên quan.
Phát triển kinh tế cộng đồng, phát triển cơ sở hạ tầng cơ sở viễn thông
và nuôi dưỡng một lực lượng phải lao động được đào tạo để cộng đồng

-

có thể cạnh tranh trong việc thu hút và giữ lại các doanh nghiệp.
Đảm bảo nội dung internet giải quyết được sự sẵn có của thông tin liên
quan đến cộng đồng, vượt qua các rảo cản về ngôn ngữ và văn hóa,

1.2.
1.2.1.

thúc đẩy sự đa dạng về văn hóa tiếng nói.
Nuôi dưỡng, hỗ trợ một xã hội học tập suốt đời, phát triển các kỹ năng
học tập cho phép tất cả các thế hệ dễ thích ứng với sự thay đổi liên tục.
Dân chủ điện tử
Khái niệm dân chủ điện tử

Khái niệm dân chủ điện tử: Dân chủ điện tử là thuật ngữ được sử dụng

khi áp dụng ICT để tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình dân
chủ.
Khó để đưa ra một định nghĩa rõ ràng và toàn diện về dân chủ điện tử.
Thuật ngữ này bao gồm 2 thành phần “e” có nghĩa là thành phần trực tuyến và
“dân chủ” đề cập đến một học thuyết và hệ thống quản trị.
1.2.2.
-

Vai trò của chính phủ điện tử trong hỗ trợ dân chủ điện tử
Mở rộng tiếp cận tới các dịch vụ và thông tin công cộng: chính phủ có
trách nhiệm trong việc đảm bảo mọi người dân, cộng đồng, doanh
nghiệp và xã hội đều được cung cấp thông tin đầy đủ để họ có thể đưa

-

ra các quyết định chính xác và kịp thời trong cuộc sống của mình.
Tăng cường tham gia chính trị: ICT làm cho người dân trên toàn thế
giới có thể tham gia vào tiến trình chính trị có quyền phát biểu ý kiến
của mình, tham gia vào quá trính phát biểu chính trị và cuối cùng là gây
ảnh hưởng đến quá trình đưa ra các quyết định. ICT đã mở ra rất nhiều
kênh tham gia vào tiến trình chính trị có quyền phát biểu ý kiến của
mình, tham gia và quá trình phát triển chính trị và cuối cùng là gây ảnh

7


hưởng đến quá trình đưa ra cá quyết định. ICT đã mở ra rất nhiều kênh
-


tham gia mà thường không được công bố với cộng đồng dân cư.
Trao quyền cho phụ nữ: chính phủ phải đặc biệt quan tâm tạo điều kiện
cho phụ nữ không chỉ truy cập ICT mà còn được giáo dục và đào tạo về
ICT. ICT đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao tiếng nói của người
phụ nữ tại các nước đang phát triển, những người theo truyền thống
thường bị cô lập, thường ít xuất hiện và câm lặng. ICT tạo ra nhiều cơ
hội mới cho người phụ nữ cả thiện cuộc sống của mình về mặt kinh tế,
chính trị xã hội. CPĐT có thể cung cấp các dịch vụ marketing và
khuyến mãi cho các công việc kinh doanh của phụ nữ như làm hàng thủ
công, dệt may và mỹ nghệ truyền thống. Những phụ nữ làm nghề nông
có thể tăng năng suất và lợi nhuận của mình thông qua việc truy cập

1.3.
1.3.1.

thông tin về các kỹ thuật nông nghiệp cải tiến.
Bảo mật và quyền riêng tư trong chính phủ điện tử
Tầm quan trọng của sự riêng tư và trách nhiệm của nhà nước
trong bảo vệ quyền riêng tư của người dân
Quyền riêng tư được ghi nhận là một quyền cơ bản của con người. Có

rất nhiều quy định luật quốc tế ghi nhận mỗi còn người đều có quyền được
đối xử công bằng trong việc thu thập và sử dụng thông tin của họ. Điều này
bao gồm cả những thông tin cá nhân trong hệ thống dữ liệu của các cơ quan
chính phủ.
Thông qua việc cung cấp dịch vụ công, chính phủ đã thu thập được và
sử dụng các thông tin cá nhân. Việc chính phủ thu thập, duy trì và quản lí dữ
liệu cá nhân của công dân đã đặt ra một loạt các vấn đề về quyền riêng tư.
Về cơ bản, nghĩa vụ bảo mật thông tin của chính phủ tương tự như của

các doanh nghiệp khi thu thập thông tin khách hàng. Tuy nhiên, trách nhiệm
của chính phủ là một nhà cung cấp dịch vụ độc quyền, công dân không thể từ
chối dịch vụ của chính phủ theo cách mà họ có thể từ chối các doanh nghiệp
các doanh nghiệp không thiếu coi trọng quyền riêng tư của họ.
8


1.3.2.

Tác động của công nghệ tới sự riêng tư
Trong thời đại thông tin, thông tin cá nhân đã trở thành một loại hàng

hóa được thu thập, tổng hợp, chia sẻ và mua bán theo những cách thức chưa
từng được hình dung trước đó. Việc tin học hóa các hồ sơ và các liên kết, việc
sử dụng CNTT khôgn nhất thiết đồng nghĩa với việc làm giảm quyền riêng tư.
Trên thực tệ, CNTT có thể được thiết kế và thực hiện theo những cách tăng
cường bảo mật. CNTT&TT hiện đại cho phép các tương tác xảy ra tại một
khoảng cách. Trong khi việc giao dịch mặt đối mặt có thể dẫn đến việc tiết lộ
danh tính, một số tương tác trên mạng có thể xảy ra nặc danh. Hơn nữa, việc
lưu trữ thông tin trên giấy có thể khó khăn trong việc theo dõi, quản lí thì hệ
thống trực tuyến lại dễ dàng trong quản lý và có thể nhanh chóng phát hiện
những truy cập trái phép.
Trong thời đại thông tin, thông tin cá nhân đã trở thành một loại hàng
hóa thu thập, tổng hợp, chia sẻ và mua bán theo những cách thức chưa từng
được hình dung trước đó.
Việc sử dụng CNTT không nhất thiết đồng nghĩa với việc làm giảm
quyền riêng tư. CNTT cơ thể được thiết kế và thực hiện theo những cách tăng
cường bảo mật.
CNTT&TT cho phép các tương tác xảy ra tại mọi khoảng cách.
Việc lưu trữ thông tin trên giấy có thể khó khăn trong việc theo dõi,

nhưng các hệ thống trực tuyến có ưu điểm dễ quản lí thống tin, và có thể
nhanh chóng phát hiện những truy cập trái phép.
1.3.3.

Xây dựng lòng tin của người dân với CPĐT
Niềm tin là một yếu tố quan trọng trong thành công của bất kỳ chương

trình trực tuyến nào, dù trong lĩnh vực TMĐT hoặc lĩnh vực CPĐT. Bảo mật
và an ninh thông tin là yếu tố then chốt quyết định tạo ra sự tin cậy vào hoạt
động trực tuyến.
9


Bảo mật và an ninh thông tin được coi là một mối quan tâm lớn của
người sư dụng internet. Người dân sẽ không cung cấp thông tin nhân thânm
tài chính và sức khỏe…. với các cơ quan chính quyền để sử dụng hệ thống
chính phủ.
1.3.4.
a.

Quy định pháp luật và các biện pháp công nghệ nhằm bảo vệ sự
riêng tư
Nguyên tắc chung về bảo vệ quyền riêng tư
Pháp luật quốc tế bảo vệ bí mật cá nhân thống nhất trên các nguyên tắc

chung:
-

Hạn chế thu thập dữ liệu cá nhân: dữ liệu cần đươc thu thập không
nhiều mức cần thiết để hoàn tất giao dịch. Các dữ liệu đó phải được thu

thập bằng các phương tiện hợp pháp và công bằng khi thích hợp được

-

chủ thể dữ liệu biết hoặc đồng ý.
Chất lượng dữ liệu: Dữ liệu cá nhân phải phù hợp với các mục đích sử

-

dụng, chính xác, đầy đủ và cập nhật.
Mục đích xác định: Khi dữ liệu cá nhân được thu thập, mục đích thu

-

thập để sử dụng sau này được xác định.
Sử dụng hạn chế: Dữ liệu cá nhân không được tiết lộ, không được sử
dụng cho các mục đích khác ngoài quy định. Các trường hợp “ngoại
trừ, phải được sự đồng ý của chủ thể dữ liệu hoặc thẩm quyền của pháp

-

luật.
Bảo mật: Dữ liệu cá nhân cần được bảo vệ bằng biện pháp bảo vệ an
ninh hợp lý, chống mất mát hoặc truy cập trái phép, phá hoại, sử dụng,

-

sửa đổi hoặc tiết lộ.
Tính mở: Nói chung, không được bí mật thu thập dữ liệu. Cần có tính
mở, minh bach trong thực tiễn và chính sách dữ liệu. Phải có sẵn các

phương tiện cho cá nhân xác định sự tồn tại và bản chất của cơ sở dữ
liệu, mục đích chính của việc sử dụng chúng, và danh tính của các thực
thể chịu trách nhiệm về cơ sở dữ liệu.

10


-

Tiếp cận (sự tham gia của cá nhân): Một cá nhân có quyền để có được
truy cập tới dữ liệu bất kỳ về người đó được quản lý bởi người điều




khiển dữ liệu. Việc này bao gồm:
Xác nhận có hay không thực thể có dữ liệu liên quan đến người đó;
Người đó có khả năng có được bản sao của dữ liệu liên quan đến bản
thân trong một thời gian hợp lý; nếu phải trả phí thì phí không quá cao;



cách thức tiếp cận dữ liệu cần hợp lý và dễ hiểu;
Đưa ra được lý do nếu một trong 2 yêu cầu trên bị từ chối, và có nhân



có khả năng phản kháng sự từ chối đó;
Nếu phản kháng về dữ liệu liên quan đến cá nhân thành công, thì dữ


-

liệu có thể bị xóa, sửa chữa hoặc bổ sung hoàn thiện.
Trách nhiệm: Các đối tượng thu thập dữ liệu phải bị cưỡng chế bằng
các biện pháp có hiệu lực đối với các nguyên tắc đã nêu trên.

Quy định pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư ở Việt Nam
-

Việt Nam hiện chưa có luật riêng quy định về việc bảo vệ quyền riêng

-

tư.
Thuật ngữ “quyền riêng tư” cũng chưa được định nghĩa về mặt pháp lý

-

một cách trọn vẹn.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành có một vài quy định về “quyền

b.
-

riêng tư”
Các biện pháp công nghệ nhằm bảo vệ sự riêng tư
Tăng cường an toàn thông tin

An toàn thông tin là một quá trình thiết lập định hướng cơ bản các hoạt
động và đánh giá tài sản của các hệ thống thông tin, xây dựng và triển khai

quy trình, công nghệ, mạng lưới, và các phần mềm, xác định các mối đe dọa,
các điểm dễ bị tổn thương và rủi ro, tạo thành một chiến lược để cân nhắc và
quản lý rủi ro, thực hiện chiến lược, kiểm tra việc thực hiện liên tục, và giám
sát môi trường để kiểm soát những rủi ro hoặc cải tiến việc bảo vệ an ninh.
An toàn thong tin chỉ là cài đặt các thiết bị bảo mật mới nhất và triển khai
các công nghệ bảo mật hiện đại nhất. An ninh thông tin là sự kết hợp của kinh
11


doanh, quản lý và các giải pháp kỹ thuật. Nó là một quá trình, không phải là
một kết quả cuối cùng.
Một chương trình toàn thông tin nên bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:



Thiết lập một bản kiểm kê tài sản thông tin của tổ chức.
Xác định những lỗ hổng và các mối đe dọa (trong và ngoài) ảnh hưởng



đến các tài sản đó.
Đánh giá các thiệt hại có thể gây ra cho tổ chức nếu các lỗ hổng bị các




mối đe dọa khai thác thành công.
Xác định những biện pháp thích hợp để bảo vệ tài sản thông tin.
Thực hiện các quy định quản lý rủi ro và các biện pháp an ninh để bảo
vệ tính bí mât, tính toàn vẹn và tính sẵn sang của tài sản dựa trên máy

tính, bao gồm:
 Cài đặt tường lửa, phần mềm chống virus và hệ thống phát hiện


xâm nhập;
Triển khai bảo vệ bằng công nghệ mã hóa mạnh đối với các dữ





liệu nhạy cảm;
Xây dựng và thực hiện đào tạo liên tục nhân viên;
Duy trì mạng lưới giám sát và giáp sát an ninh;
Thiết lập lực lượng ứng phó sự cố và khả năng phục hồi, bao
gồm lưu trữ dữ liệu dự phòng (back-up) và các hoạt động trang

-

web thay thế nếu cần thiết.
Triển khai công nghệ P3P

Nền tảng cho dự án các tùy chọn riêng tư (The Platform for Privacy
Preferences Project –P3P) là một giao thức cho phép các trang web khai báo
mục đích sử dụng của họ đối với các thông tin mà họ thu thập được về người
sử dụng trình duyệt web.
Nội dung chính của chính sách bảo vệ gồm những vấn đề:





Thông tin nào máy chủ lưu trữ:
 Loại thông tin nào được thu thập
 Thông tin cụ thể nào được thu thập (địa chỉ IP, email, tên,…)
Sử dụng các thông tin thu thập được:
 Thông tin này được sử dụng như thế nào
12


Ai sẽ nhận thông tin này.
Tính thường xuyên và tính khả năng hiển thị:
 Thông tin được lưu trữ trong bao lâu.
 Liệu người dùng có thể tiếp cận được hay không và tiếp cận như






thế nào tới thông tin được lưu trữ.
Khi một người dùng quyết định sử dụng P3P, người dùng đặt thiết lập
của riêng mình về chính sach và tuyên bó những thông tin cá nhân nào



được phép nhìn thấy bởi các trang web mà họ truy cập.
Sau đó, khi người dùng truy cạp một trang web, P3P sẽ so sánh những
tthông tin nào máy chủ muốn nhận được – nếu hai bên không phù hơn,
P3P sẽ thông báo cho người sử dụng và hỏi liệu người dùng có mong




muốn thiếp tục lướt trang web không, và rủi ro từ bỏ thông tin cá nhân.
Nhược điểm của P3P: phức tạp với người dùng.

13


CHƯƠNG 2 – CÁC TRỞ NGẠI TRONG TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

2.1.

Người dân chưa biết sử dụng internet
Trong suốt 17 năm trở lại đây, Việt Nam luôn nằm trong top 20 quốc

gia có tốc độ tăng trưởng Internet nhanh nhất thế giới. Năm 2012, Việt Nam
xếp thứ 18 trong số các quốc gia có số người dùng Internet lớn nhất thế giới,
với thời lượng truy cập trung bình vượt xa các nước khác trong khu vực Đông
Nam Á.
Tại các khu vực thành thị, khoảng 50% dân số có truy cập Internet.Tỷ
lệ này thậm chí còn cao hơn tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM.Hai
phần ba trong số này sử dụng Internet mỗi ngày, với gần 50 giờ trên Internet
mỗi tháng.Người sử dụng Internet nằm trong độ tuổi khá trẻ, nam giới chiếm
tỉ lệ cao hơn.40% người dùng là giới nhân viên văn phòng.
Đó là những con số đáng chú ý trong báo cáo về tình hình phổ cập
Internet tại Việt Nam của NetCitizens. Theo đó, độ tuổi trung bình sử dụng
Internet tại Việt Nam là 29, thấp hơn độ tuổi trung bình của dân số là 36.Chỉ
có khoảng 25% người dùng Internet trên 35 tuổi.Số lượng người cao tuổi sử
dụng Internet rất thấp, chỉ đạt khoảng 2 triệu người.

Theo trình độ học vấn và nghề nghiệp, khoảng 54% số người sử dụng
Internet có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Ở các đô thị lớn, số lượng người
sử dụng Internet có trình độ học vấn cao hơn so với các địa phương khác.Một
phần ba số người sử dụng Internet là sinh viên, học sinh. Nhìn chung, 70%
người sử dụng Internet là bộ phận trí thức, nhân viên văn phòng, còn lại là
công nhân, nội trợ, tiểu thương buôn bán nhỏ, chủ cửa hàng…

14


Kết luận: Qua đó ta thấy được Việt Nam có tốc độ tăng trưởng internet
cao nhưng tỉ lệ sử dụng internet không đồng đều ở nhóm độ tuổi số người trên
35 tuổi chỉ có 25 %, tỉ lệ nhóm người dân đặc biệt là nhóm người dân vùng
nông thôn chưa biết sử dụng internet hoặc chưa từng sử dụng máy tính là khá
cao chính vì vậy đây là trở ngại lớn đối với quá trình triển khai Chính phủ
điện tử ở Việt Nam
-

Đối với dịch vụ công trực tuyến

Theo khảo sát của Bộ TT&TT, quá nửa số người dân được hỏi nói rằng
chưa bao giờ sử dụng dịch vụ công trực tuyến, và một nửa trong số đó không
biết là có dịch vụ công trực tuyến.
15


-

Trống vắng công dân điện tử


Số liệu thống kê trong Sách Trắng CNTT-TT Việt Nam năm 2012 cho
thấy cả nước đã có 9.800 dịch vụ công trực tuyến được cung cấp ở mức độ 1
và 2 (công bố thủ tục và form mẫu, người dân có thể tải form mẫu hồ sơ thủ
tục về điền); 860 dịch vụ công trực tuyến mức 3 (người dân có thể tải form
mẫu và nộp hồ sơ qua mạng) và 11 dịch vụ cấp 4 (mọi hồ sơ được gửi và trả
qua mạng, người dân không cần đến tận cơ quan Nhà nước). Có thể thấy số
lượng các dịch vụ công trực tuyến tại Việt Nam đã phát triển rất mạnh.Thế
nhưng, theo một khảo sát do Cục Ứng dụng CNTT - Bộ TT&TT tiến hành
năm 2011 về mức độ người dân tham gia các hoạt động dịch vụ công trực
tuyến thì những con số thống kê thu được không mấy khả quan. Theo ông
Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Ứng dụng CNTT, có tới gần 60%
người dân nói rằng chưa từng sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
2.2.

Vấn đề bảo mật trên các website
Báo động tình trạng bảo mật của website Việt

1039 website của Việt
Nam bị tấn công trong
nửa đầu tháng 9. (Ảnh:
Security Daily)

16


Hơn 1000 website bị tấn công chỉ trong nửa đầu tháng 9 bằng những lỗi
sơ đẳng từ các tin tặc nước ngoài - một con số đáng báo động về tình trạng
bảo mật của các website Việt Nam.
Theo thống kê của trang websiteSecurity Daily, có đến 1039 website
của Việt Nam bị tấn công trong vòng nửa đầu tháng 9 – tăng đột biến gấp 4

lần so với các tháng trước.
Trong số này, có 69 website giáo dục và hơn 30 website của các cơ
quan thuộc Chính phủ Việt Nam. Ông Trần Quang Chiến, trưởng nhóm
Security Daily nói: “Hơn 1000 website các lỗ hổng bị tấn công đều là các lỗ
hổng cơ bản và đã tồn tại cách đây hơn chục năm và các hacker có thể dễ
dàng tấn công các website này”.Ông Chiến dự báo, số lượng các website bị
tin tặc tấn công sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.Ông Trần Quang Chiến
cho biết thêm: “Để khắc phục tình trang này, phụ trách của các website phải
có hình thức đánh giá bảo mật để sớm khắc phục các lỗ hổng. Ngoài ra, nền
tảng xây dựng website phải được cập nhật phiên bản mới nhất và không nên
đặt nhiều website trên cùng một máy chủ”.Số lượng website bị hack tăng đột
biến trong tháng 9 đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc bảo mật của các
website Việt Nam, nhất là các website của Chính phủ.
Kết luận: vấn đề bảo mật website cũng là một trong những trở ngại
ảnh hưởng lớn đến các dịch vụ của Chính Phủ Điện Tử ở Việt Nam.Tình
trạng bị tấn công của các website ở Việt Nam còn ở mức cao trong đó các
website của cơ quan Chính Phủ cũng là đối tượng nằm trong đó. Chính vì vậy
để có thể thành công và phát triển đối với mô hình Chính Phủ điện tử thì
Chính Phủ cần quan tâm, chú trọng tới việc bảo mật các Website cho dịch vụ
công cả nước, từ đó tạo được sự tin tưởng thống nhất trong tâm lý người dânthành công trong dịch vụ công.

17


Sự tin tưởng đối với chính phủ

2.3.

Niềm tin là một yếu tố quan trọng trong việc triển khai thành công của
bất cứ một chương trình trực tuyến nào, đặc biệt trong việc triển khai ứng

dụng Chính phủ điện tử ở Việt Nam. Trong đó vấn đề bảo mật và an ninh
thông tin là mối quan tâm lớn của người sử dụng internet nói chung và những
người tham gia vào hoạt động chính phủ nói riêng. Đây là lý do rất lớn khiến
cho nhiều người dân Việt Nam còn e ngại khi tham gia vào các hoạt động
chính phủ điện tử, họ thường không chịu cung cấp cho các cơ quan các thông
tin về thân nhân, tình hình tài chính và sức khỏe vì họ chưa thực sự tin tưởng
vào cơ quan chính quyền có thể đảm bảo được sự an toàn cho những thông tin
mà mình đã cung cấp, sợ các thông tin cá nhân sẽ bị tiết lộ, ảnh hưởng tới bản
thân họ. Đây được coi là một trong những trở ngại rất lớn khi triển khai Chính
phủ điện tử ở nước ta.
Khả năng thích ứng với những thay đổi của công nghệ thông tin

2.4.

Nền tảng để việc triển khai thành công Chính phủ ở bất kỳ một quốc
gia nào cũng không thể thiếu được yếu tố công nghệ thông tin.Tuy nhiên, với
những thay đổi nhanh chóng về mặt Công nghệ thông tin trên thế giới và ở
nước ta thì khả năng thích ứng với sự thay đổi đó lại là một trong những trở
ngại khi triển khai ứng dụng Chính phủ điện tử ở Việt Nam. Ở nước ta, trở
ngại này còn ảnh hưởng vô cung to lớn đối với việc triển khai chính phủ điện
tử bởi các cấp lãnh đạo của nước ta vẫn chưa nhận thức được về vai trò của
công nghệ thông tin trong việc nâng cao hiệu quả của năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm. Do vậy mà khả năng thích ứng của các cấp lãnh đạo đối
với những thay đổi của công nghệ thông tin là vô cùng thấp. Đây cũng là trở
ngại lớn nhất ở nước ta khi triển khai Chính phủ điện tử.
-

Công nghệ thông tin với việc cải cách hành chính ở nước ta:

18



Tính từ khi bắt đầu khởi xướng Chính phủ điện tử đến nay, Việt Nam đã
có nhiều thành công và bài học. Đã triển khai Chính phủ điện tử thì không thể
đợi đến khi kinh tế phát triển; ứng dụng Công nghệ thông tin tốt thì quản lý
Nhà nước sẽ nhàn, doanh nghiệp, người dân bớt bị phiền hà, cải cách hành
chính hiệu quả. Giai đoạn 2009 - 2010 là giai đoạn bản lề để tiến tới kế hoạch
xây dựng Chính phủ điện tử ở giai đoạn 2011 - 2015 với các mục tiêu như:
đổi mới phương thức cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến, đổi mới
quản lý tải nguyên thiên nhiên, mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước..
Hiện đang có nhiều cách đơn giản hóa thủ tục hành chính, ví dụ: bỏ thủ tục
hành chính đó hoặc giảm thời gian chờ thực hiện tránh làm mất cơ hội kinh
doanh cho các doanh nghiệp và địa phương... Hoặc để lấy mã số thuế và đăng
ký kinh doanh, chúng ta đã rút được từ 30 - 35 ngày chờ xuống còn 5 ngày.Để
có bước chuyển này, chúng ta đã mất vài năm. Đẩy mạnh ứng dụng Chính
phủ điện tử gắn với cải cách hành chính cũng sẽ là một chỉ số cạnh tranh mà
địa phương cần tính.
Nếu dịch vụ công được cung ứng qua hệ thống công nghệ thông tin, ở đó
sẽ không có ranh giới giữa các cơ quan, các cấp… mà chỉ thấy các loại dịch
vụ được cung ứng. Người dân, doanh nghiệp không cần biết ai là người giải
quyết thủ tục cho họ, chỉ biết thủ tục được giải quyết thế nào và khi gặp
vướng mắc, họ có được quan tâm, giải quyết không. Cách thức này đòi hỏi sự
liên kết, phối hợp giữa các cơ quan, các cấp trong giải quyết thủ tục hành
chính như những hệ thống thông suốt các “dòng chảy thông tin”. Những điều
trên chỉ đạt được xuất phát từ ý chí của cải cách hành chính chứ không phải từ
năng lực của Công nghệ thông tin.
Các ứng dụng Công nghệ thông tin trong hành chính Nhà nước phải thiết
lập trên cơ sở “đơn đặt hàng” của bộ máy. Mức cải cách sẽ quyết định quy
mô, phạm vi củaCông nghệ thông tin. Cải cách hành chính nhắm đến tính
hiệu quả, chất lượng trong cách thức hoạt động, điều hành của bộ máy hành

19


chính Nhà nước, chuyển bộ máy từ chức năng “chèo thuyền” sang “lái
thuyền”, chuyển “xin - cho” sang “phục vụ” và làm cho nền hành chính có
khả năng kiểm soát lãng phí, thất thoát và tham nhũng. Các hoạt động phải
quy trình hóa, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, quan hệ… Cho nên,
thiết lập hệ thống Công nghệ thông tin trong cơ quan Nhà nước phải xuất phát
từ các quy trình, cơ chế và các mối quan hệ giữa các chức năng, các cơ quan
và các cấp.
Hiện nay cản trở chính đối với Chính phủ điện tử ở Việt Nam không
phải kỹ thuật mà là cơ chế. Vai trò đầu tàu, chỉ đạo về CPĐT và Công nghệ
thông tin- truyền thông còn nhiều hạn chế, thiếu truyền bá công nghệ và năng
lựcCông nghệ thông tin- truyền thông cho khu vực tư nhân, doanh nghiệp vừa
và nhỏ, khung pháp lý cho các hoạt động Công nghệ thông tin- truyền thông
còn chưa hoàn chỉnh. Những trở ngại này đang dần dần được giải quyết.
Chương trình ứng dụngCông nghệ thông tin trong hoạt động của Cơ
quan Nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 có quy định người đứng đầu các cơ
quan (trực tiếp chịu trách nhiệm về cải cách hành chính) phải chịu trách
nhiệm trực tiếp chỉ đạo ứng dụngCông nghệ thông tin.Theo đó, việc gắn kết
giữa cải cách hành chính và Công nghệ thông tin sẽ đồng bộ. Nhiều chuyên
gia cho rằng, nếu người đứng đầu thực sự trách nhiệm, chủ động thì những
khó khăn như thiếu vốn, không đồng bộ vớicải cách hành chính... sẽ được giải
quyết và lực lượng Công nghệ thông tincũng sẽ được tăng cường. Tuy nhiên,
trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu như thế nào, nếu ứng dụng Công nghệ
thông tin kém sẽ bị xử lý ra sao... chưa thật rõ ràng.
2.5. Dịch vụ của chính phủ điện tử cung cấp với chất lượng thấp hoặc
website khó sử dụng
- Việc thực hiện chính phủ điện tử ở Việt Nam còn thấp:
Quá trình triển khai Chính phủ điện tử (e-government) ở VN, từ Trung

ương tới các địa phương, người dân trong thời gian vừa qua còn rất trì trệ. Đó
20


là ý kiến chung của các đại biểu tham dự bàn tròn, 3-11 về góp ý xây dựng
“dự thảo phát triển chính phủ điện tử VN đến năm 2010”.
Thứ trưởng Bộ bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực cho rằng mặc dù
thời gian qua, VN đã tiến hành nhiều hoạt động liên quan tới chính phủ điện
tử như: đã hơn 50% bộ, ngành và hơn 80% tỉnh, thành phố trực thuộc đã có
trang web, và có nhiều dịch vụ như: xin cấp giấy phép kinh doanh, làm thủ
tục hải quan...được triển khai. Nhưng thông tin trên các website còn nghèo
nàn, các dịch vụ mới chỉ đạt được ở bước đầu, và thực hiện còn độc lập, sơ
sài.
-

Khả năng sẵn sàng cung cấp dịch vụ chất lượng cao của chính phủ
điện tử còn thấp

Thực tế cho thấy trong bảng xếp hạng về chỉ số sẵn sàng Chính phủ điện
tử (do Liên Hợp Quốc cung cấp), Việt Nam xếp thứ 97/173 nước, với điểm số
E-Gov Index là 0.357 (điểm tối đa là 1, quốc gia có điểm cao nhất là 0.927,
quốc gia có điểm thấp nhất là 0.009). Trong khu vực ASEAN, VN chỉ hơn
được Lào, Campuchia và Myamar.
Trong khi hiện nay Singapore đã đưa được gần 2.000 dịch vụ hành chính
lên mạng, trong đó có việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế, xin cấp hộ chiếu, đăng
ký tham gia các trung tâm thể thao. Khoảng 75% dân Singapore đã sử dụng
các công cụ điện tử trong giao dịch với chính quyền. Thì Việt Nam mới có
6,67 người sử dụng Internet/100 dân.
Theo ông Mai Liêm Trực - Thứ trưởng Bộ Bưu chính viễn thông, việc
thực hiện chính phủ điện tử còn thấp là do nhận thức của các bộ, ngành, địa

phương còn thấp; Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông còn yếu; Môi
trường pháp lý chưa hình thành, bí mật và an toàn thông tin chưa đảm bảo;
Cải cách hành chình chậm phương thức điều hành lạc hậu; và Đầu tư dàn trải,
thực hiện không tập trung và nguồn nhân lực cao cấp thiếu. Việc xây dựng
21


các đề án, dự án thiếu cụ thể cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho
việc áp dụng chính phủ điện tử không hiệu quả.
“Mô hình chính phủ điện tử giúp bộ máy trong minh bạch hơn, tiết kiệm
thời gian, thu hẹp khoảng cách giữa người dân và chính phủ, đẩy mạnh sự tiến
bộ kinh tế, xã hội thông qua tin học hóa hành chính nhà nước. Nhưng rất tiếc
là nhận thức của lãnh đạo, trung ương cũng như địa phương về vấn đề còn
này rất kém”, ông Trực phát biểu.
Theo ông Trực, Việt Nam đang phấn đấu để trở thành nước tiên tiến về
chính phủ điện tử trong những năm tới. Nhưng nếu tình trạng cứ như hiện
nay, từ trung ương tới địa phương còn chưa nắm vững được khái thế nào là
chính phủ điện tử, thì kế hoạch đặt ra còn khó có thể đạt được.
2.6.

Điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp
Điều kiện kinh tế - xã hội cũng là một rào cản mà các nhà hoạch định

triển khai CPĐT của Việt Nam cần cân nhắc tới.
Mặt bằng chung của nền kinh tế xã hội cũng làm cho việc đầu tư phát
triển lĩnh vực này cũng bị giới hạn. Cho dù có ưu tiên nhưng Chính phủ cũng
phải cân đối đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Bên cạnh đó
những thói quen làm việc bên giấy tờ của người dân, công chức và quan chức
cần có thời gian để thay đổi. Một nước có GDP tương đối thấp như nước ta,
lại chưa có kinh nghiệm thực tế triển khai CPĐT nên rất cần sự quyết tâm của

người lãnh đạo vừa làm vừa rút kinh nghiệm trên quy mô nhỏ, sau đó mới
nhân rộng ra cả nước.
Vì vậy, việc triển khai CPĐT không thể diễn ra ngay lập tức mà cần
phải cân bằng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội ở Việt Nam cũng như
trình độ dân trí hiện nay.
Theo kế hoạch 48 của Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010 thì đến hết năm 2010, Việt
22


Nam sẽ phải xây dựng được các cơ quan điện tử. Cụ thể, trung bình 60%
thông tin chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp phải được đưa lên cổng
thông tin điện tử, 80% cán bộ , công chức phải sử dụng thư điện tử trong công
việc. Tuy nhiên, trên thực tế số thông tin chỉ đạo online chỉ mới đạt 30%.
Điều đó cho thấy lãnh đạo nhều bộ ngành chưa thực sự vào cuộc và coi
CNTT là giải pháp hàng đầu để thúc đẩy tổ chức phát triển.
Cho tới thời điểm này, số dịch vụ công được ứng dụng rộng rãi, thiết
thực vẫn còn quá ít. Có một thực trạng là Bộ ban ngành này công khai một
phần thủ tục hành chính lên mạng, tuyên bố số hóa một khâu “ sát vườn” với
người dân nhưng khi người dân đến làm thủ tục lại bị vướng mắc ở các khâu
khác, vốn chưa được “số hóa”. Kết quả là những dịch vụ đã được số hóa cũng
chẳng dẫn tới đâu.

23


CHƯƠNG 3 – GIẢI PHÁP

3.1. Phát triển công nghệ thông tin, mạng lưới internet, đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của chính phủ

Mở rộng phạm vi phát triển của internet tại Việt Nam. Hiện nay, vẫn
còn một số vùng chưa được tiếp cận với internet: Đồng bào Mông tại Bắc
Cạn, Bản Khe Nhồi tỉnh Phú Thọ,… Vậy nên việc biết tới các chính sách của
nhà nước, các dịch vụ của chính phủ còn khó khăn.
Gắn tin học hóa quản lý hành chính nhà nước với vấn đề cải cách hành
chính. Công nghệ thông tin phát triển thì mới đẩy nhanh quá trình cải cách
hành chính.
Hiệu quả đầu tư phải đặt lên hàng đầu. Các dự án công nghệ thông tin
phải có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, đồng thời đào tạo huấn luyện những người
sử dụng. Tránh vội vàng rập khuôn, làm ồ ạt mà không đạt được hiệu quả.
Tin học hóa phải hướng vào các dịch vụ công. Ngoài việc trợ giúp các
quy trình hoạt động của các cơ quan nhà nước còn phải tạo ra các dịch vụ tốt
hơn phục vụ cho nhân dân.
3.2. Nâng cao nhận thức và thay đổi cách nghĩ về chính phủ điện tử
Trước tiên là nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo từ trung ương
đến địa phương: Đây là công việc có tầm quan trọng vì đây là cấp có vai trò
quyết định.Một khi các cấp lãnh đạo trung ương nhận thức đầy đủ về vai trò
và tác dụng của chính phủ điện tử và có ý kiến chỉ đạo cụ thể về vấn đề này
thì việc xây dựng chương trình kế hoạch phát triển chính phủ điện tử sẽ thuận
lợi hơn.
Nâng cao nhận thức của cán bộ công chức: Đây là bộ phận trực tiếp
thực hiện các chương trình ứng dụng phục vụ cho hoạt động quản lý hành
chính do vậy nhận thức của các bộ, công chức tốt sẽ tạo điều kiện để cán bộ,
công chức nâng cao trình độ chuyên môn nói chung cũng như trình độ tin học
24


nói riêng, tránh lãng phí tài sản quốc gia khi thực hiện các dự án ứng dụng
công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý hành chính.
Nâng cao nhận thức của các doanh nhiệp và các tổ chức: bằng việc

tuyên truyền, phổ biến giúp họ hiểu về thế nào là chính phủ điện tử và những
tiện ích mà chính phủ điện tử mang lại, khi đó mức độ nhận thực của các
doanh nghiệp, tổ chức sẽ được nâng cao họ sẽ tự giác hơn trong việc học tập
cũng như nâng cao trình độ tin học của bản thân khi đó việc xây dựng chính
phủ điện tử sẽ thuận lợi hơn.
Nâng cao nhận thức của người dân: nhận thức của người dân về chính
phủ điện tử là rất thấp. Chỉ một bộ phận nhỏ người dân nhận thức đúng đắn về
chính phủ điện tử và lợi ích đem lại. Có sự chênh lệch lớn về nhận thức giữa
người dân thành thị và nông thông. Do vậy muốn tăng khả năng nhận thức
dịch vụ công của chính phủ cần nâng cao nhận thức của người dân về vai trò
của công nghệ thông tin trong cuộc sống. Lòng tin của người dân với chính
phủ ở các vùng biên giới như: Hà Giang, Cao Bằng, Kon Tum,.. còn thấp.
Những vùng giáp biên giới, người dân sống rải rác, không tập trung dẫn tới
việc tuyên truyền gặp nhiều trở ngại. Vậy nên việc nâng cao lòng tin của
người dân là vô cùng cần thiết.
3.3. Hình thành khung pháp lý chung về việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong quảng lý hành chính nhà nước
Đây là việc cần thiết vì xây dựng chính phủ điện tử là một chương trình
quốc gia, sử dụng nguồn lực quốc gia và để thành công thì bắt buộc phải có
sự tham gia của các cơ quan của chính phủ do vậy phải có môt khung pháp lý
chung nhằm định hướng cho các cơ quan của chính phủ xây dựng và thực
hiện đồng bộ. Cơ sở pháp lý để xây dựng và triển khai các ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông không đầy đủ dẫn đến tình trạng lúng túng,
không rõ phương hướng phát triển, nhiều hệ thống thông tin sau khi được tin

25


×