Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Luận văn Đánh giá thực trạng pháp luật và các phương thức bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.07 KB, 72 trang )

MỤC LỤC

3.3.

Phương thức Tòa án dân sự

Phương thức bào vệ nhà đầu tư
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................................
thông qua tòa án dân sự.................................
4
41
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................
3.4.
Bảo vệ nhà đầu tư thông qua cơ chế
5
giải quyết tranh chấp bằng Phương
1.
Tính cấp thiết của đề tài 5
thứcTrọng Tài Thương Mại..............................
2.
Tình hình nghiên cứu
12
3.
Phạm vi nghiên cứu 14
43
4.
Phương pháp nghiên cứu 14
3.5.
Phương thức Hình sự........................................
5.
Kết quả nghiên cứu 14


45
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO VỆ
3.6.
Thi hành án........................................................
NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN TTCK.........................................................................................
47
16

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG

1.

TTCK và Nhà đầu tư trên TTCK

PHÁP LUẬT VÀ CÁC PHƯƠNG

1.1.
1.2.
1.2.1.

16
TTCK và cơ chế vận hành 16
Nhà đầu tư trên TTCK
19
Khái niệm về đầu tư Chứng khoán

THỨC BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ

1.2.2.
1.3.

2.

19
Nhà đầu tư 20
Bảo vệ nhà đầu tư 23
Các qui định pháp luật về bảo vệ

2.1.
2.2.
3.

nhà đầu tư 27
Qui định chung
28
Các qui định chuyên ngành 28
Cách thức bảo vệ Nhà đầu tư

3.1.

36
Tự thực hiện bởi chính Nhà đầu tư

3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.

36
Phương thức Hành chính
Hoạt động giám sát 37

Hoạt động Thanh tra
Hoạt động xử phạt 39

36

TRÊN TTCK.....................................................
49
2.

Tổng quan..........................................................

2.1.

49
Phương thức Hành chính..................................

2.2.

50
Phương thức Hình sự........................................

2.3.

54
Phương thức Tòa án..........................................

2.4.

55
Phương thức Trọng tài......................................


2.5.

60
Thi hành án........................................................
60

38

1


CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ...............................................................................................................................
66
3.1.
3.2.

Tổng quát 66
Các kiến nghị chi tiết Kỹ thuật
67

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................
71
VĂN BẢN LUẬT VÀ TÀI LIỆU THAM
KHẢO.............................................................................................................................
72
CÁC VĂN BẢN LUẬT ĐƯỢC TRÍCH
DẪN................................................................................................................................
72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


74

3


DANH MỤC BẢN BIỂU

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TNHH

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

BLDS


: Bộ luật dân sự

TAND

: Toà án nhân dân

BLHS

: Bộ luật hình sự

TTTT

: Trung tâm trọng tài

CBTT

: Công Báo thông tin

TTDS

: Tố tụng dân sự

CK

: Chứng khoán

TTHS

: Tố tụng hình sự


CP

: Chính phủ

TT

: Thông tư

GDCK

: Giao dịch chứng khoán

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

HĐQT

: Hội đồng quản trị

UBCK

: Ủy ban chứng khoán

HĐTT

: Hội đồng trọng tài

UBND

: Ủy ban nhân dân


HĐTP

: Hội đồng thành phố

VKS

: Viện kiểm sát

KT-XH

: Kinh tế xã hội

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

LS

: Luật sư

VBQPPL : Văn bản qui phạm pháp luật

PGS. TS : Phó giáo sư. Tiến sĩ
TTCK

XHCN

: Thị trường chứng khoán

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


5

: Trách nhiệm hữu hạn

: Xã hội chủ nghĩa


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

1.

Cho đến tháng 7 năm nay, đánh dấu 12 ngày ra đời và vận hành của Thị trường Chứng
khoán của Việt Nam (TTCK), tháng 7/2000 - 7/2012; một mốc son cho tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, với tính cách của nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Là thị trường mà rất được kỳ vọng sẽ là kênh dẫn vốn trung và dài hạn
hữu hiệu cho nền kinh tế; là công cụ mà thông qua đó sẽ huy động mọi nguồn lực trong
xã hội cho đầu tư phát triển, để tiến đến một xã hội “cổ đông”; và là “hàng thứ biểu”
của nền kinh tế đất nước.

2.

Thật vậy, với ưu điểm vượt trội so với các thị trường khác về tính thanh khoản, rằng
nhà đầu tư dễ dàng trong việc bỏ vốn vào cũng như rút ra khỏi thị trường, mà không
phải chờ đến kỳ hạn (gửi tiết kiệm) hay kèm theo kiện nào; với một khả năng sinh lời
cao dựa trên phần tăng thêm của thị giá; về khả năng định lượng và luân chuyển tốt
nhất dòng tiền trong nền kinh tế, dựa vào khả năng sinh lời của định chế sử dụng vốn;
và năng lực tích tụ tư bản, nơi tạo dựng các nhân tố mới có tính sáng tạo ( Micosofrt,

Google, Apple, Facebook,…), đồng thời cũng “đào thải” không thương tiếc những
nhân tố không còn thích hợp.

3.

Với một thị trường tiềm năng và đầy thử thách như vậy, không ngạc nhiên chỉ mới du
nhập vào Việt Nam vào khoảng thập niên 1990 của thế kỷ trước, cùng với các định chế
tài chính khác như: Công ty Cổ Phần, TNHH, Sàn giao dịch…, TTCK đã tạo ra một
“hiện tượng” có thể nói “bất thường” của đời sống KT- XH của Việt Nam thời kỳ sau
thống nhất Đất nước (1975). Hàng trăm khóa học, hàng vạn người tham gia với đủ các
thành phần. Hàng trăm cuốn sách, hàng ngàn tài liệu nghiên cứu dưới nhiều cấp độ

6


khác nhau ra đời. Và rồi sau nhiều lần trì hoãn, TTCK Việt Nam cũng đã mở của trong
sự dè đặt, chỉ với 2 mã cổ phiếu được niêm yết (SACOM và REE) trên sàn GDCK TP
HCM, và khoản 3.000 tài khoản giao dịch. Thế nhưng, sau 12 năm. Theo ông Vũ Bằng
– Chủ tịch UBCK Nhà nước, (Tạp Chí Chứng Khoán số 7 – tháng 7/2012), TTCK Việt
Nam có đến 705 công ty niêm yết trong tổng số 913 công ty đại chúng, trên các Sở
GDCK và gần 1.200.000 triệu tài khoản giao dịch.
4.

Cụ thể, theo số liệu trên website của UBCK Nhà nước, Sở GDCK Hà Nội và Sở
GDCK Tp.HCM, tính đến thời điểm tháng 8/2012, đã có đến hơn 105 công ty Chứng
Khoán tham gia thị trường, với số vốn đăng ký là 35.000 tỷ đồng: Sở GDCK Hà Nội,
số chứng khoán niêm yết là 1.037 mã, tổng giá trị là 27.253.031.079. 000 đồng, trong
đó, cổ phiếu 395 mã, giá trị là 84.731.910.020.000 đồng; trái phiếu 510 mã, giá trị
169.173.662.000.000; và Sàn Upcom 132 mã, giá trị 18.626.738.770.000đ. Sở GDCK
TP.HCM, có đến 351 mã chứng khoán, giá trị 1.631.600.419 triệu đồng, trong đó 303

Cổ phiếu, giá trị: 1.541.370.239; chứng chỉ quỹ đầu tư: 6, mã giá trị: 300.107.240 triệu
đồng; và trái phiếu: 42 mã, giá trị: 60.292.810 triệu đồng.

5.

Cũng theo ông Vũ Bằng – Chủ tịch UBCK NN ( Tạp chí Chứng khoán tháng 7/2012),
trong cùng thời gian này, TTCK đã huy động được khoảng 700 nghìn tỷ đồng, trong đó
có khoản 8 tỷ USD từ các Nhà đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế Đất nước. TTCK
cũng đã tạo ra hàng ngàn việc làm mới; đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước; và
đặc biệt đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự hội nhập của Doanh nghiệp Việt Nam, nền kinh
tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới về mặt Quản trị doanh nghiệp, Kế toán, Kiểm
toán, Thanh toán…; và từng bước tiệm cận với chuẩn mực chung của thế giới về moi
phương diện. Đỉnh điểm của sự “phấn khích” có thể kể đến vào năm 2007, khi chỉ số
VNINDEX liên tục tăng và cao nhất được ghi nhận vào ngày 12/3/2007, đạt 1.179, 32
điểm.

7


6.

Thế nhưng, sau khi xác lập kỷỹ luậtục này, TTCK bắt đầu đảo chiều và cũng mạnh mẽ
như lúc nó đi lên. Lúc này, theo giới tài chính ví von là “con Gấu đang húc đỗ con Bò”.
Biểu hiện là chỉ số VNINDEX xụt giảm theo phương thẳng đứng và thấp nhất là còn
285,56 điểm vào ngày 9/12/2008 và chỉ số VNINDEX chỉ giao động ở ngưỡng 500
điểm kéo dài cho đến ngày nay. Kèm theo sự tác động cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, những khiếm khuyết được che lấp trong bao lâu nay bắt đầu bị lộ ra. Biểu đồ dưới
đây sẽ mô tả diễn biến của TTCK từ tháng 7/2000 đến nay.

8



7.

Với hàng loạt hành vi thao túng, làm giả, mua bán nội gián trên TTCK của các “hội”,
“đội lái “ “người quản lý lên tổ chức phát hành”. Có lúc, TTCK cũng như một cái
“chợ trời”. Chính người có thẩm quyền như đại biểu Quốc Hội Trần Du Lịch tại diễn
đàn (kỳ hộp thứ 2 Quốc Hội khóa 13) Quốc Hội phải thốt lên rằng , “TTCK Việt Nam
không theo một tiêu chí hay chuẩn mực nào cả”. Hàng loạt các hành vi vi phạm thao
túng, mua bán nội gián, làm giá chứng khoán bị xử lý như trường hợp như Công ty Cổ
phần Dược Viễn Đông (VDV), Công ty Cổ phần Nhựa An Phát (AAA); hoặc giả như
những hành vi vi phạm quyền lợi của Nhà đầu tư của ngành CK của các Công ty
Chứng khoán Trường Sơn, Công ty Chứng khoán SME. Đặc biệt, xuất hiện hiện tượng
lừa đảo, kinh doanh trái phép trên TTCK với số tiền lên đến hàng ngàn tỷ đồng, mà
điển hình là vụ việc bà Huỳnh Thị Huyền Như đã bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản (vào tháng 9/2011), với số tiền lên đến 4.600 tỷ đồng (Báo Pháp luật Tp.HCM
ngày số, ngày….…). Và gần đây nhất là trường hợp của ông Nguyễn Đức Kiên, đã bị
khởi tố vì vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và kinh doanh trái phép (Báo pháp luật

9


Tp.HCM số … ngày …), đã làm cho TTCK mất đi khoảng 100.000 ngàn tỷ đồng
(tương đương 5 tỷ USD) chỉ sau vài phiên giao dịch.
8.

Các hành vi vi phạm này được minh chứng rõ hơn qua số liệu thống kê xử lý của cơ
quan giám sát, Thanh tra UBCK NN như sau: Tính trong 5 năm UBCK NN xử lý hơn
700 trường hợp vi phạm pháp luật về CK và TTCK. Về hoạt động giám sát, trong năm
2010 có đến 387 trường hợp vi phạm CBTT. Năm 2011 có đến 575 trường hợp vi

phạm CBTT, xử phạt 164 trường hợp, 3 công ty bị hủy niêm yết, 3 công ty tạm ngưng
giao dịch, 28 công ty bị đưa vào diện cảnh báo và 14 công ty đưa vào diện kiểm soát.
Về công ty chứng khoán, có đến 7 công bị đưa vào diện kiểm sát đặc biệt. Riêng Sở
GDCK Tp HCM năm 2011 phát hiện 1.982 trường hợp giao dịch bất thường, phát hiện
và phân tích 221 cổ phiếu có dấu hiệu bất thường. Riệng 6 tháng năm 2012, đã có đến
73 trường hợp bị xử lý vi phạm (Ttạp chí chứng khoán1+2/2010 trang 7, 8, 45, 49). <=
xem lại nguồn tin có đúng không? 2012? 2010?

9.

Tất cả hiện tượng này, làm cho TTCK như là một bức tranh “ bátc nháo”, “tù mù”
không rõ ràng, không minh bạch không trật tự, không theo các qui tắc hay chuẩn mực
nào. Như là một “gáo nước lạnh” tạc vào mặt của những nhà đầu tư, làm chựng lại cảm
hứng và sự kỳ vọng của công chúng đối với TTCK. Đây chính là nguyên do làm xóa
mòn niềm tin của các Nhà đầu tư, vốn dĩ là nền tảng cốt lõi của thị trường.

10.

Không chỉ dừng lại ở mặt tâm lý, thực tế khi xảy ra các tình huống như của trường hợp
công ty Cổ phần Dược Viễn Đông hay Công ty Chứng khoán SME, thì Nhà đầu tư phải
đối mặt vô vàng khó khăn và phải gánh lấy mọi tổn thất, mà không biết có thể hoặc
cách nào hiệu quả trong việc cầu viện công lý cho mình. Kết quả khảo sát điều tra xã
hội học của nhà nghiên cứu thực trạng bảo vệ nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam của
nhóm tác giả Đại học Luật TP.HCM vào năm 2010 cho thấy, có đến 50,9% trả lời “tạm
hài lòng” cho câu hỏi mức độ hài lòng của nhà đầu tư về thực tiễn bảo vệ quyền lợi của
cá nhân nhà đầu tư trên TTCK hiện nay.

10



11.

Hiện tượng này không chỉ có tính chất đơn lẽ, mà nó đã trở thành dư luận xã hội. Liên
tiếp Báo chí chuyên hoặc không chuyên về TTCK, đều liên tục phản ánh “lổ hổng”
trong việc bảo vệ nhà đầu tư trên TTCK. Họ gần như bị bỏ rơi, và không được tích cực
bảo vệ. Trong khi, họ là lực lượng chính yếu, quyết định sự thành bại của thị trường.
Các bài được đề cập đến đó là, PGS.TS. Lê Hoàng Nga- UBCKNN với chủ đề “Bảo
vệ nhà đầu tư nhỏ trên TTCK Việt Nam” , trên tạp chí ngân hàng số 20/2010 ngày
05/12/2010; bài viết “hoàn chỉnh cơ chế pháp lý bảo vệ Nhà đầu tư chứng khoán trong
giai đoạn giao dịch chứng khoán” ngày 02/03/2011 của Th.S Phan Phương Nam trên
Báo pháp luật chứng khoán; bài viết “bảo vệ tiền Nhà đầu tư, cách nào?” của tác giả
Giang Thanh, ngày 16/01/2012 đăng trên Đầu tư chứng khoán điện tử; Báo thanh niên
với bài bài “ nhà đầu tư nhiều rủi ro, ít bảo vệ” ngày 02/09/2012; Báo sài gòn giải
phóng ngày 02/08/2012, đã viết “Nhà đầu tư thiếu công cụ chống lưng”; Báo Đầu tư
chứng khoán viết bài “nhiều Nhà đầu tư ủng hộ tạm dừng giao dịch TTCK” ngày
23/08/2012; Báo Lao động ngày 31/08/2012 có bài viết “khi niềm tin trở lại với Nhà
đầu tư”; TS. Phạm Thị Giang Thu – Đại học luật Hà Nội có bài viết “các loại nhà đầu
tư trên TTCK và yêu cầu bảo vệ nhà đầu tư” đăng trên tạp chí Luật học số 8/2006;và
bài viết “hoàn thiện các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán” của LS. Phan
Nghiêm, ngày 20/11/2012 đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp.

12.

Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khoa học, các báo cáo của cơ quan có thẩm
quyền, giới học thuật trong và ngoài nước trong các báo cáo, nghiên cứu của mình,
cũng đều chỉ ra rằng thực trạng yếu kém trong việc bảo vệ Nhà đầu tư hiện nay. Tiêu
biểu như: TS. Nguyễn Văn Vân- Đại Học Luật Tp.HCM, với đề tài nghiên cứu cấp Bộ
“bảo vệ Nhà đầu tư là cá nhân trên TTCK Việt Nam; hoặc đề tài nghiên cứu cấp nhà
nước của TS. Bùi Xuân Hải- Đại Học Luật Tp.HCM; Báo cáo năng lực bảo vệ Nhà đầu
tư 2009, 2010 của Ngân Hàng Thế Giới đều cho thấy, chỉ số bảo vệ Nhà đầu tư nói

chung và trên TTCK nói riêng là rất thấp điều thứ hạng 173/183 (2009); Kết quả điều

11


tra xã hội học của nhà nghiên cứu Đại Học Luật Tp.HCM. Theo TS. Bùi Xuân Hải
trích dẫn lại nhóm nghiên cứu bộ tứ cho rằng, có mối liên hệ nhân quả rất rõ ràng giữa
mức độ bảo vệ Nhà đầu tư và sự phát triển của thị trường tài chính.
13.

Như vậy, việc bảo vệ Nhà đầu tư trên TTCK của chúng ta đang “ có vấn đề”. Điều
này, không chỉ ở các hiện tượng bất thường như trình bày, hay dư luận xã hội mà còn
thể hiện qua các công trình nghiên cứu, với các góc nhìn khác nhau của những học giả
pháp lý trong và ngoài nước. Vì vậy, đi tìm lời giải cho hiện tượng này là điều hết sức
cấp bách trong thời điểm hiện nay. Các nguyên do dẫn đến thực trạng này có lẽ có
nhiều như về mặt Văn hóa, dân trí, điều kiện KT-XH… Song, trong phạm vi của đề tài
này, chúng tôi chỉ nghiên cứu đánh giá ở mặt pháp luật. Đó là pháp luật bảo vệ nhà
đầu tư trên TTCK.

14.

Chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu, đánh giá, khảo sát về thực trạng của pháp luật hiện
hành, để có cái nhìn tổng quan, bao quát về những khiếm khuyết, khuyết tật, bất cập,
… đang ẩn chứa bên trong của cơ chế vận hành thị trường. Từ đó, tìm kiếm giải pháp
tối ưu, khả thi nhất để giải quyết các vấn đề này. Nhằm cùng chung tay góp phần vào
việc xây dựng lại và duy trì niềm tin công chúng đối với TTCK; giúp nhà hoạch định
chính sách tiến đến xây dựng một TTCK vận hành và phát triển một cách lành mạnh và
bền vững; giúp việc hoàn thiện và hoàn chỉnh những khiếm khuyết về mặt pháp lý hiện
nay; phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đó chính lý do để tác
giả chọn đề tài này.


15.

Đề tài sẽ được đề cập 3 phần. Phần một sẽ nêu lên các cơ sở lý luận cho việc bảo vệ
Nhà đầu tư; phần thứ hai đánh giá thực trạng pháp luật bảo vệ Nhà đầu tư; và phần
thứ ba là kết luận và kiến nghị cho việc hoàn thiện.

2.

Tình hình nghiên cứu:

12


16.

Có thể nói rằng, chỉ trong thời gian ngắn với 20 năm đã có một khối lượng lớn các đề
tài nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này: Tuy nhiên, phần lớn trong số này đó nghiên
cứu về các thị trường chứng khoán ở góc độ kinh tế, xã hội, chính sách. Riêng về lĩnh
vực pháp lý thì còn ít học giả quan tâm nghiên cứu, một số báo cáo công trình nghiên
cứu tiêu biểu như sau:
1. Báo cáo của ngân Ngân hàng thế giới các năm 2009, 2010 và 2011 đánh giá chung
về việc bảo vệ nhà đầu tư trong nền kinh tế- xã hội Việt Nam;
2. Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán của
trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán (Ủy Ban Chứng Khoán
Nhà Nước);
3. Luật Doanh nghiệp bảo vệ Cổ đông và thành viên của TS.Bùi Xuân Hải, xuất bản
năm 2011 (chương 3,4&6);
4. Cơ chế pháp lý bảo vệ nhà đầu tư là cá nhân trong điều kện toàn cầu hóa nên tài
chính- tiền tệ của TS. Nguyễn Văn Vân, Đại Học Luật TP.HCM. (năm??)

5. Đánh giá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam của
TS. Lê Vũ Nam. (năm?)
6. Giáo trình luật kinh tế của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (chương 14&15).
7. Phát triển bền vững TTCK Việt Nam (sách chuyên khảo) của PGS.TS Đinh Văn
Sơn, xuất bản năm 2009, (chương 4&5);
8. Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành: Hoàn thiện các biện pháp bảo vệ nhà
đầu tư trên TTCK, của Th.S Hoàng Thị Quỳnh Chi, Viện Khoa học kiểm sát
VKSNDTC trên tạp chí nghiên cứu lập pháp số 87,11/2006; hoàn chỉnh cơ cấu bảo
vệ nhà đầu tư chứng khoàn trong giai đoạn giao dịch chứng khoán của tác giả Th.S
Phan Phương Nam, 3/2011 trên tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử; bảo vệ nhà đầu
tư trên TTCK Việt Nam của PGS.TS Lê Hoàng Nga, 12/2010-(XBCKN) Tạp chí
ngân hàng.

17. Tựu trung, các sách, giáo trình hoặc các bài nghiên cứu hiện tại, nhìn chung đều có đề
cập đến Pháp luật bảo vệ Nhà đầu tư. Song, chỉ dừng lại ở tầm mức chung nhất về bảo
vệ Nhà đầu tư; hoặc bảo vệ đầu tư trong một định chế tài nhất định; hoặc chỉ bảo vệ

13


Nhà đầu tư nhỏ; hoặc bảo vệ Nhà đầu tư theo Luật Doanh Nghiệp; hoặc các biện pháp
bảo vệ Nhà đầu tư; hoặc các đề tài đã có trước khi có thay đổi của chính sách Pháp
luật… Chưa có đề tài nghiên cứu một cách thông suốt đầy đủ, có hệ thống và cập nhật
việc bảo vệ Nhà đầu tư trên TTCK hiện nay, từ lúc Nhà đầu tư tham gia thị trường
(trực tiếp theo Luật Doanh nghiệp hoặc gián tiếp theo Luật Chứng khoán) cho đến khi
phán quyết của Toà án được thi hành (trong trường hợp xảy ra sự kiện pháp lý). Vì
vậy, đề tài này sẽ đi vào nghiên cứu những góc độ còn để “ ngỏ” đóò. Đó là pháp luật
và việc thực thi pháp luật trong việc bảo vệ Nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam. Cụ thể,
đề tài sẽ làm rõ các vấn đề chính yếu như sau:
- Nêu ra cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý trong việc bảo vệ Nhà đầu tư trên TTCK

- Đánh giá thực trạng pháp luật trong việc bảo vệ nhà đầu tư, bởi các công cụ hay
phương thức Hành chính, Tòa Dân sự, Trọng tài và Điều tra hình sự.
- Từ đó lý giải sự bất hợp lý, chưa khả thi của pháp luật và thực thi pháp luật trong
đời sống của hiện tại cũng như tương lai.
- Cuối cùng đề xuất các giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp luật cũng như việc
thực thi pháp luật để khắc phục những khiếm khuyết, bất cập đã nêu.
3.
18.

Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài không đi vào nghiên cứu các vấn đề có tính chất kinh tế tài chính, mà chỉ
nghiên cứu có các vấn đề pháp lý, trong giới hạn bảo vệ nhà đầu tư trên TTCK Việt
Nam. Nghiên cứu các quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến việc bảo vệ Nhà
đầu tư trên TTCK trong hệ thống pháp luật. Nghiên cứu thực thi pháp luật trong đời
sống thực tế, từ việc thi thực hiện các quy phạm pháp luật cho đến xử phạt hành chính;
từ tự bảo vệ cho đến sự cầu viện công lý bởi Tòa án, Trọng tài và Cơ quan điều tra hình
sự. Từ đó đưa ra các khuyến nghị cho việc khắc phục và hoàn thiện.

4.

Pphương pháp nghiên cứu:

14


19.

Tác giả sẽ sử dụng phương pháp pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê và quan
sát thực tế, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin về duy tâm vật biện chứng, duy vật
và lịch sử. (trời, sao lại là duy tâm biện chứng???)


5.
20.

Kết quả nghiên cứu:
Phục vụ nhu cầu tự thân của tác giả; làm cẩm nang cho các nhà đầu tư tra cứu và lựa
chọn cách hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Làm tài liệu
cho sinh viên trường Luật; là tài liệu cho các Nhà hoạch định chính sách tham khảo
trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật về CK&TTCK cho giai đoạn 2011- 2015,
ban hành Luật chứng khoán mới cho năm 2015, theo Quyết định 252/QĐ-TTg, ngày
1/3/2012 của Thủ Tướng CP, v/v phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai
đoạn 2011-2020.

15


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN TTCK
1.

TTCK và nhà đầu tư trên TTCK:

1.1.

TTCK và cơ chế vận hành:

21.

Trước hết, để thông tỏ và đánh giá về pháp luật bảo vệ Nhà đầu tư, cần thiết phải tìm
hiểu TTCK hiện hành được xây dựng và vận hành như thế nào. Theo Giáo Trình

Những Vấn Đề Cơ Bản về CK&TTCK của Trung Tâm Nghiên Cứu KH và ĐT Chứng
khoán – UBCK Nhà nước (xuất bản năm 2002), TTCK được định nghĩa như sau: Xét
về hình thức “ TTCK là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các
loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ CK”. Còn xét về mặt bản chất , “
TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm; tập trung các nguồn tiết
kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng nguồn tiết kiệm đó theo giá mà
người sử dụng sẳn sàn trả; và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các
dự án của người sử dụng, chuyển từ tư bản sở hữu sang kinh doanh”. Xét về phương
diện luân chuyển vốn TTCK này được chia làm hai loại, đó là thị trường sơ cấp (phát
hành lần đầu- IPO) và thị trường thứ cấp ( mua đi bán lại Chứng Khoán). Còn theo qui
định tại Luật Chứng khoán, thì TTCK được định nghĩa là: “ TTCK là địa điểm hoặc
hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch Chứng Khoán”
(khoản 18 điều 6). Như vậy, TTCK được hiểu trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này
là thị truờng chứng khoán tập trung, được tổ chức dưới dạng Sở GDCK, đó là Sở
GDCK Hà Nội và Sở GDCK Tp.HCM.

22.

Hàng hóa giao dịch trên TTCK là CK. Đây chỉ là loại chứng từ có giá mà người ta qui
ước, tin dùng nó trong các giao dịch. Chứng khoán có rất nhiều loại. Song, CK được
hiểu theo nghĩa chính thống luật định hiện hành “là bằng chứng xác nhận quyền và lợi
16


ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành”.
(điểm 3 khoản 2 điều 1 Luật CK sửa đổi bổ sung), Như vậy, CK trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài này là những CK được chấp thuận giao dịch trên TTCK. Do đó, nó chỉ
có thể là Cổ phiếu, Trái phiếu hoặc Chứng chỉ quỹ đầu tư ; Quyền mua cổ phần; chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm CK hoặc chỉ số;
hợp đồng góp vốn đầu tư (điều 1 Luật sữa đổi bổ sung Luật CK).

23.

Tuy nhiên, không phải cố phiếu, trái phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư nào cũng được
giao dịch trên TTCK, mà chúng phải được tổ chức phát hành có thẩm quyền phát hành,
phải lưu ký qua trung tâm lưu ký CK. Một khi thỏa mãn 2 điều kiện này, thì CK mới
được giao dịch. Hiện tại, chúng ta có các loại chứng khoán được giao dịch trên TTCK
như sau: Cổ phiếu của công ty Đại chúng; Trái phiếu của công ty Đại chúng; Chứng
chỉ quỹ đầu tư của Quỹ đầu tư chứng khoán; trái phiếu Chính phủ; và trái phiếu của
chính quyền địa phương.

24.

Với lịch sử lâu đời của mình TTCK đã chứng tỏ là một trong những “chợ” tiêu biểu
nhất hiện nay trong việc luân chuyển, phân bố nguồn lực của xã hội. Điều này được lý
giải qua nhận định của TS. Alan Greespan, (cựu Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liêng Ban Mỹ,
trong tác phẩm “ kỷ nguyên hỗn loạn” ) của mình như sau: “rằng thị trường và
giá cả, chứ không phải là sự hoạch định chính sách của các cơ
quan trung ương, quyết định sự phân bố nguồn lực xã hội”.
Chính TTCK, cùng với Công ty Cổ phần là những công cụ hiệu quả nhất để các nước
phát triển ngày nay làm cuộc cách mạng công nghiệp của mình ở 150 năm trước. Hiện
tại, theo Thomas Frieman (Chiếc Lexus và cây ô liu, 2005), thông qua các TTCK như
NewYork, LonDon, Hong Kong hay Singapore… ước chừng có đến 1.200 tỷ USD
được giao dịch trong một ngày. Riêng TTCK Việt Nam được xem là thị trường nhỏ và
chỉ mới vận hành được 12 năm, nhưng đã huy động hơn 700 tỷ đồng cho nền kinh tế
Việt nam.

17


25.


Sở dĩ TTCK có được những ưu điểm này là vì nó được xây dựng và vận hành trên các
nguyên tắc hết sức ưu việt đó là “công khai, đấu giá, trung gian và có sự quản lý của
Nhà Nước”. Tức là nó dành cơ hội ngang bằng nhau cho mọi thực thể tham gia thị
trường trong việc tiếp cận thông tin; giá cả được xác lập trên quan hệ “cung cầu”; giao
dịch phải qua trung gian để đảm bảo sự chuyên nghiệp và thông suốt; và luôn có sự
điều phối, giám sát và quản lý của Nhà nước để đảm bảo trật tự và bảo vệ quyền lợi
Nhà đầu tư. Với các nguyên tắc này, hầu như đã loại bỏ, hạn chế đến mức thấp nhất
các hành vi, hiện tượng tiêu cực, và phát huy cao nhất, tích cực nhất trong việc bảo
đảm nguồn lực xã hội đến nơi cần thiết nhất và mang lại hiệu quả cao trong việc sử
dụng. Cũng như TTCK trên thế giới, TTCK Việt Nam được vận hành dựa trên 5
nguyên tắc căn bản sau: tôn trọng mọi quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ
chứng khoán;công khai, công bằng và minh bạch; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư; tự chịu trách nhiệm; và tuân thủ pháp luật ( điều 4 Luật CK).

26.

Ngày nay,với sự hổ trợ của công nghệ thông tin và sự toàn cầu hóa, đã làm cho các
hoạt động giao dịch chỉ tính bằng “ giây”; và được vận hành bất kể ngày đêm. Dòng
vốn được phân bố từ nơi này sang nơi khác, từ Đông sang Tây chỉ trong tích tắc.
Thomas Frieman, đã mô tả rất rõ điều này trong hiện tượng này như sau: “1.200 tỷ
USD được giao dịch qua 6 châu lục, trong suốt 24 múi giờ”; và ông ví dòng tư bản này
như là “ bầy thú điện tử”. Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ nguyên kinh tế tri
thức và hội nhập. Trong chính sách phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2020 Chính
phủ, tại Quyết định Số 252/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã xác
định: “Xây dựng kế hoạch phát triển hạ tầng công nghệ thông tin cho toàn ngành
chứng khoán theo hướng đồng bộ, chuẩn hóa các định dạng về thông tin, báo cáo, quy
chuẩn kết với cũng như định hướng phát triển ứng dụng Công nghệ thông tin tại các Sở
GDCK và thành viên thị trường, đáp ứng cho việc liên kết các Sở GDCK khu vực”.


18


27.

Việc quản lý và vận hành TTCK bằng nhiều phương tiện, công cụ khác nhau, như : tài
chính, chính sách tiền tệ, qui phạm đạo đức…Song hiệu quả và khả thi nhất vẫn là
Pháp Luật. Bởi chí có pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của mình mới có thể bảo
đảm thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn và
hiệu quả (khoản 2 điều 5 Luật Chứng khoán ). Vì sẽ không ai bỏ tiền ra đầu tư, phải
qua trung gian, không có bất kì sự bảo chứng nào của Nhà Nước, trừ phi họ có niềm tin
rằng nó được bảo đảm bằng tính nghiêm minh của Pháp luật. Và Pháp luật cũng phải
đảm bảo tính pháp lý ở đây phải đảm bảo tính thống nhất, công bằng, hợp lý, khả thi có
tính cưỡng chế thực thi và thúc đẩy sự phát triển.

28.

Pháp luật Việt Nam qui định về CK và TTCK được thể hiện qua các văn bản qui phạm
pháp luật qua các thời kỳ như sau: Bắt đầu là Nghị định số 75/CP, ngày 28/11/1996 của
Chính Phủ; tiếp đến là Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, ngày 11/08/1998; Nghị định
144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003, thay thế Nghị định số 48/CP. Pháp luật hiện hành
và đang có hiệu lực là Luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, thay thế cho
các Nghị Định trước đây; Luật chứng khoán được sửa đổi bổ sung vào ngày
24/10/2010; và Nghị Định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012, có hiệu lực từ ngày
15/09/2012 và các văn bản qui phạm có liên quan khác.

1.2.

Nhà đầu tư trên TTCK:


1.2.1.

Khái niệm về đầu tư CK:

29.

Đầu tư. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì “đầu tư là bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để
được hưởng phần lời, lãi”. Còn theo TS. Nguyễn Văn Vân- Trường Đại Học Luật Tp.
HCM, (trong đề tài nghiên cứu “Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là cá nhân
trên thị thị trường chứng khoán trong điều kiện toàn cầu hoá tài chính- tiền tệ”) định
nghĩa đầu tư như sau: “Hoạt động đầu tư theo nghĩa chung nhất là sử dụng quyền lực
thuộc quyền sở hữu hay định đoạt mình trong thời gian nhất định để tìm kiếm lợi
nhuận”. Còn theo định nghĩa chính thống theo qui định của pháp luật hiện hành, thì
19


“Đầu tư là việc Nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của pháp luật này và các qui
định khác của pháp luật có liên quan” (khoản 1 điều 3 Luật đầu tư). Đầu tư đươc chia
thành 2 loại là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là cùng tham gia
quản trị DN; còn đầu tư gián tiếp là chỉ góp vốn, không tham gia điều hành (khoản 2,3
điều 3 Luật đầu tư). Như vậy, với việc đầu tư của nhà đầu tư trên TTCK chịu sự điều
chỉnh của Luật CK là đầu tư gián tiếp, không tham gia vào hoạt động quản trị công ty.
1.2.2. Nhà đầu tư :
30.

Còn nhà đầu tư, được hiểu là người bỏ vốn ra đầu tư. Vậy người bỏ vồn ra đầu tư này
là ai? Theo các qui định hiện hành tại khoản 9 điều 6 của Luật chứng khoán thì “ nhà
đầu tư là tổ chức cá nhân Việt Nam và tổ chức cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên
TTCK Việt Nam”. Còn theo khoản 4,5, điều 3 Luật đầu tư hiện hành, nhà đầu tư được

hiểu như sau: “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân trong hoặc ngoài nước thực hiện hoạt
động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Nhà đầu tư cũng có 2 lọai, là
chuyên nghiệp hoặc không chuyên nghiệp. Như vậy, qui định này được hiểu là tất cả
các cá nhân và tổ chức đều là nhà đầu tư trên TTCK hay chỉ Cá nhân, tổ chức hội đủ
các qui định của pháp luật mới là Nhà đầu tư trên TTCK?

31.

Để làm sáng tỏ vấn đề này, không thể không tham chiếu qui định về chủ thể trong giao
dịch dân sự nói chung. Trước tiên cần thấy rằng, dù là nhà đầu tư trên TTCK, thì phải
hội đủ điều kiện của một chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Bởi pháp luật dân sự
là pháp luật chung, chỉnh chỉnh các quan hệ về mặt chủ thể. Theo qui định tại các
chương III đến XIII BLDS, thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự phải là người có
đủ năng lực chủ thể, gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Chủ thể được chia
làm 4 loại, đó là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Như vậy, quay lại định
nghĩa của Luật CK về nhà đầu tư thì chủ thể là cá nhân và pháp nhân; và được chia
thành nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Còn hộ gia đình và tổ hợp
20


tác không phải là chủ thể, không là nhà đầu tư. Vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập cụ thể
ở chương 2.
32.

Nếu là nhà đâu tư là cá nhân, năng lực chủ thể thể thể hiện ở năng lực pháp luật luật
(điều 14 BLDS), khả năng được nhà nước bảo hộ các quyền năng và năng lực hành vi
đầy đủ (điều 17,19 của BLDS), khả năng tự thân tham gia vào các giao dịch một cách
độc lập. Trường hợp năng lực hành vi bị hạn chế mà chưa đầy đủ, thì việc giao dịch
thông qua người đại theo pháp luật hoặc người giám hộ.


33.

Còn nếu là “tổ chức”, thì tổ chức ở đây phải là pháp nhân và có tư cách pháp nhân. Vì
không có chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự “ tổ chức”, mà tổ chức chỉ là một loại
hình của Pháp nhân màa thôi. Và theo sự phân loại về pháp nhân, thì pháp nhân này
là tổ chức kinh tế (điều 103 BLDS). Như vậy, pháp nhân là nhà đầu tư tổ chức phải
thỏa mãn các điều kiện như: được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức, có tài sản và
tự mình tham gia giao dịch (điều 84 BLDS); đồng thời, phải có Điều lệ và phải tự chịu
trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình. Ngoài ra, hoạt động đầu tư trên TTCK là
hoạt động kinh doanh. Do đó, nhà đầu tư là tổ chức và là DN thì phải có chức năng
kinh doanh trong lĩnh vực “đầu tư tài chính “ (điều 9 Luật DN), theo mã ngành trong
hệ thống ngành nghề Quốc gia, được qui định tại quyết định số 10/TTg ngày ngày
23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 337/TT/2007, ngày 10/4/2007 của Bộ
KH&ĐT. Trướng hợp, nếu không có chức năng này, pháp nhân có đương nhiên được
quyền mua bán CK trên TTCK hay không? Và hoạt động này có xem là kinh doanh
trái phép hay không? Hoặc các giao dịch có có thể bị vô hiệu hay không? Vấn đề này
chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở chương 3 của đề tài.

34.

Riêng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài, thì ngoài các tiêu chí nhà đầu tư trong nước
về mặt chủ thể, còn phải thỏa mãn điều kiện là không được sở hữu quá 49% cổ phần
của một Công ty niêm yết trên Sở GDCK tại Việt Nam, theo như qui định tại điều 2
Quyết định số 55/TTg/2009 ngày 15/4/2009 của Thủ Tướng chính Phủ và Nghị định

21


88/2009/CP của Chính Phủ, ngày 18/06/2009, về qui chế góp vốn mua cổ phần của
Nhà đầu tư nước ngoài trong các Doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề này có vi phạm thỏa

thuận WTO hay không, chúng tôi bàn ở chương 3.
35.

Đây là thị trường bậct cao. Vì vậy, cũng đdòi hỏi cao về kỷ năng, năng lực tài chính
của chủ thể tham gia thị trường, nhất là với nhà đầu tư chuyên nghiệp. Do đó, theo
pháp luật hiện hành, để trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp, phải là Pháp nhân, có
nghiệp vụ đầu tư tài chính, có vốn pháp định và người quản lý của pháp nhân phải có
chứng chỉ hành nghề (điều 7,9 Luật DN). Pháp nhân ở đây có thể là một trong các loại
hình sau: Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức
kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán, (khoản 11 điều 6 Luật chứng
khoán). Ngành nghề đầu tư tài chính, theo qui định tại mã ngành quốc gia, Quyết định
số 10/TTg ngày ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 337/TT/2007,
ngày 10/4/2007 của Bộ KH&ĐT. Người quản lý hoặc tham gia hoạt động của pháp
nhân phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCK NN cấp. Và
phải có đáp ứng các yêu cầu về vốồn pháp định. Tức là phải có và duy trì mức vốn này
liên tục trong quá trình hoạt động. Cụ thể, với nghiệp vụ tự danh CK phải có 100 tỷ ;
quản lý quỹ đầu tư là 25 tỷ (điểm c khoản 1, 3 điều 71 NĐ58/CP).

36.

Còn Nhà đầu tư không chuyên nghiệp, hiểu ngược lại chỉ là người những người chỉ bỏ
vốn vào hoạt động chứng khoán, nhưng không phải là nghề chính, không đăng ký và
cũng không có quyền năng kinh doanh trong lĩnh vực này. Như vậy, theo qui định của
pháp luật hiện hành Nhà đầu tư không chuyên nghiệp chỉ có thể là cá nhân. Xem lại ý
này, nếu một công ty có vốn nhàn rỗi, đầu tư mua chứng khoán thì họ cũng có thể là
nhà đầu tư nghiệp dư được chứ? Nếu không, thì vì sao?

37.

Nhà đầu tư dù chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, một khi tham gia thị trường

thì cùng đều được đối xử công bằng như nhau. Điều này được thể hiện ở nguyên tắc cơ

22


bản của pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt nam, cụ thể là ở các điều 5 BLDS,
Điều 13 Luật Doanh Nghiệp và Điều 4 Luật Chứng Khoán.
38.

Thỏa mãn các yêu cầu trên, nhà đầu tư làm cần phải có tài khoản chứng khoán hoặc
tiền để được giao dịch, theo như qui định tại TT 74/2011/TT/BTC ngày 1/6/2011 của
Bộ Tài Chính. Nghĩa là, nhà đầu tư muốn mua chứng khoán phải có tiền, và muốn bán
CK phải có chứng khoán trong tài khoản. Luật hiện hành chưa cho phép bán khống
chứng khoán. Tức là bán CK mà mình không sở hữu, sau đó mua trả lại. (chúng tôi sẽ
bàn vấn đề này ở chương 3). Theo thống kê trên webdsite của Sở GDCK Hà Nội & Sở
GDCK Tp.HCM, thì tài khoản giao dịch của các Nhà đầu tư tính đến tháng 8/2011 là
1.142.933 tài khoản, trong đó 1.128.580 tài khoản của Nhà đầu tư trong nước và
14.353 tài khoản của Nhà đầu tư nước ngoài.

1.3.

Bảo vệ nhà đầu tư:

39.

Trước tiên về “bảo vệ”. Theo Đại Từ Điển Tiếng Việt, thì “ bảo vệ là giữ gìn, chống
sự xâm phạm để khỏi bị hư hỏng, mất mát”. Còn theo TS. Nguyễn Văn Vân- Đại học
Luật Tp. HCM Còn bảo vệ nhà đầu tư, ( trong đề tài “Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi
nhà đầu tư là cá nhân trên thị thị trường chứng khoán trong điều kiện toàn cầu hoá tài
chính- tiền tệ ”) đã định nghĩa như sau: “bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán là

tổng hợp các phương thức và biện pháp do nhà nước và/hoặc tự bản thân nhà đầu tư
và/ hoặc các chủ thể khác thực hiện, nhằm đề phòng, ngăn chặn, loại bỏ các hành vi
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Kể cả các biện pháp nhằm cải
tạo, phục hồi quyền và lợi ích đó trong trường hợp bị xâm hại”.

40.

Với định nghĩa này, thì việc bảo vệ nhà đầu tư là cần thiết cho bất kỳ TTCK nào,
không riêng gì Việt Nam; Và việc bảo vệ là hiện hữu ở tất cả các thị trường, tuy ở mức
độ có khác nhau. Các báo cáo, các công trình nghiên cứu khoa học của nhóm nhóm bộ
tứ như đề cập ở mục 11, báo cáo chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của WB; hay báo cáo tổng
kết của TS. Bùi Xuân Hải; TS. Nguyễn Văn Vân Đại học Luật Tp HCM, đều chỉ ra
23


rằng, bảo vệ Nhả đầu tư nói chung và trên TTCK nói riêng có mối quan hệ biện chứng
về mức độ bảo vệ với mức độ đầu tư. Nói một cách dễ hiểu là ở đây mức độ bảo vệ nhà
đầu tư càng cao thì ở đó nhận được sự đầu tư càng lớn của giới đầu tư. Do đó, việc bảo
vệ nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam không nằm ngoài mối tương quan này.
41.

Vậy, bảo vệ là bảo vệ cái gì cho nhà đầu tư. Như đề cập ở mục 38, để được xem là nhà
đầu tư trên TTCK phải thoải mãn yêu cầu hoặc là có tiền, hoặc là có CK hoặc cả 2
trong tài khoản. Như vậy, ở đây có 2 loại đối tượng được bảo vệ là tiền hoặc CK hoặc
cả hai. Chiếu theo pháp luật hiện hành thì đây chính là tài sản của nhà đầu tư (điều 163
BLDS). Điều này sẽ loại bỏ yếu tố tinh thần trong việc bảo vệ nhà đầu tư.

42.

Quay trở về lịch sử, cùng với sự phân chia giai cấp xã hội loài người, Nhà nước và

Pháp luật xuất hiện nhằm bảo vệ tài sản hợp pháp của các thành viên trong xã hội tạo
lập nên. Để bảo vệ cho tài sản này người ta khái quát lên thành quyền sở hữu. Nghĩa là
trao cho chủ sở hữu các quyền năng, là các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối
với tài sản đó; và loại trừ quyền năng này của người khác. Alan Greespan đã diễn giải
lại tư tưởng của John Locke (thế kỷ 17) như sau: “Từ bản chất có một sức mạnh để
đảm bảo quyền sống, quyền tự do và tài sản, chống lại bất cứ một hành vi xâm phạm
hay âm mưu xâm phạm nào của người khác” . Và đúc kết lại, TS. Alan Greespan có
nhận xét: “kết cuộc mục đích chính của quyền sở hữu là bảo vệ tài sản để sử dụng
chúng nhằm mục đích sinh lợi”.

43.

Xã hội càng văn minh, thì tài sản không còn thể hiện dưới dạng vật chất truyền thống
nữa,gà, heo, đồ vật …nữa mà nó còn thể hiện dưới dạng vô hình, như hối phiếu, lệnh
phiếu, cổ phiếu, trái phiếu. Một lần nữa người ta lại khái quát loại tài sản này là
“quyền tài sản”. Theo PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, “Quyền tài sản về bản chất là sự
phân chia, giới hạn và định đoạt tài nguyên khan hiếm. Trong quyền tài sản bao giờ
cũng hàm ý tập trung kiểm soát cho người này mà giới hạn hoặc loại trừ quyền đó đối
với người khác”. Theo pháp luật dân sự hiện hành, Quyền tài sản là một loại tài sản;

24


và là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tệ (điều 181 BLDS).
44.

Tóm lại, bảo vệ Nhà đầu tư trên TTCK là bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư với tài
sản của họ gồm tiền hoặc/và quyền tài sản. Quyền sở hữu này được Nhà nước bảo hộ
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước (điều 164 BLDS). Các quyền này có thể là

quyền được xác định là đồng sở hữu/hoặc trái chủ (chủ nợ) đối với tổ chức phát hành ;
quyền được thực thi các quyền của đồng chủ sở hữu như : được tự do bán cổ phiếu và
thừa hưởng phần chênh lệch, bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ, được chia cổ tức, được nhận phần
còn lại tương ứng với tỷ lệ vốn khi tổ chức phát hành giải thể hoặc phá sản, được tiếp
cận thông tin, yêu cầu khởi kiện người quản lý của công ty, yêu cầu bồi thường thiệt
hại, và ưu tiên mua cổ phiếu mới cháo bán, tương ứng với tỷ lệ sở hữu của Cổ đông đối
với công ty Đại chúng (Điều 79 Luật DN, điều 3 TT212/BTC). Hay như quyền được
bán, nhận lãi, được ưu tiên chuyển đổi qua cổ phiếu, chứng quyền của trái chủ (Khoản
3 điều 6 Luật CK).

45.

Vậy, bảo vệ nhà đầu tư trước nguy cơ nào? Không thể phủ nhận những ưu điểm và lợi
ích mà TTCK mang lại. Song, TTCK không phải không có mặt trái và khuyết điểm nó.
Bởi tham gia vào thị trường là các chủ thể khác nhau, trong điều kiện hoàn cảnh khác
nhau, vai trò, vị trí khác nhau. Vì thế, không thể hoàn toàn bình đẳng với nhau về mọi
mặt được. Do đó, những cá nhân, pháp nhân có nguồn lực, quyền lực, vai trò vị trí nổi
trội hơn, sẽ có nguy cơ lợi dụng vị trí của mình để lạm quyền trục lợi, và như thế quyền
lợi của phần còn lại sẽ bị tổn hại. Từ các mối quan hệ trong giao dịch chúng tôi có thể
nhận diện ra đây một số nguy cho các nhà đầu tư như: Mối nguy cơ giữa Nhà đầu tư
lớn và Nhà đầu tư nhỏ với nhau; giữa Nhà đầu tư với tổ chức phát hành; giữa Nhà đầu
tư với người quản lý của tổ chức phát hành; giữa Nhà đầu tư với định chế trung gian,
(Sở GDCK, Công Ty Chứng Khoán, quỹ đầu tư, đơn vị kiểm toán); và Nhà đầu tư với
Cơ quan, chức danh quản lý Nhà nước.

25


×