CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền
giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại dấu hiệu giá trị được phát hành
vào lưu thông để thay thế cho tiền đủ giá nhằm thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Bản
thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện
tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay
mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất
và lưu thông hàng hóa.
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát, nhưng
nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Có quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát
xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành.
Cụ thể, người ta dựa vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không.
Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó
xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này
coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền
kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V = P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền
lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa - dịch vụ được trao đổi (Y) giữ
vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông
tiền tệ (V) tăng thì P tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này, cần dùng biện pháp
thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàn hóa trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về hiện tượng lạm phát,
nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao
là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp
chưa hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cungứng tiền tệ mà không làm cho giá cả tăng,
không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho
lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu
tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung
của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên
1
nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả
đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.
Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên
đồng loạt và liên tục.
Biểu hiện của lạm phát:
-
-
Sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất thiết là giá cả của mọi
hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, thậm chí giá của một số
hàng hóa có thể giảm nhưng giá cả của các hoàng hóa và dịch vụ khác phải tăng đủ mạnh
để mức giá trung bình tăng lên. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là lạm phát không
chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá.
Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở
lại mức ban đầu ngay sau đó thì hiện tượng này không được gọi là lạm phát.
Sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị
tiền tệ chỉ có thể mua được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác
chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch
vụ cố định khi có lạm phát xảy ra.
1.2. Đo lường lạm phát
Các nhà kinh tế thường đo lường lạm phát bằng hai chỉ tiêu thông dụng là chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP).
Để tính tốc độ lạm phát theo CPI, người ta sẽ dựa vào một rổ hàng hóa tiêu dùng
và giá cả của những hàng hóa trong rổ tại hai thời điểm khác nhau. Còn cách tính thứ hai,
DGDP được tính bằng tỷ số tổng sản phẩm quốc dân (GDP) danh nghĩa và GDP thực tế
phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá của năm cơ sở đo lường mức giá trung bình
của tất cả mọi hàng hóa dịch vụ được tính vào GDP.
Tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giái chung theo công
thức sau:
2
Với Pt là mức giá thời kỳ t, Pt-1 là mức giá của thời kỳ trước đó.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
1.3.1. Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do
tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.
Với đường tổng cung AS, khi tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải (AD o ->AD1 ->
AD2), kéo theo giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra.
Hình 1: Lạm phát do cầu kéo
Có nhiều lý do làm cho tổng cầu gia tăng. Ta thấy:
AD = C + I + G + (X – M)
Trong đó, AD: Tổng cầu; C: Chi tiêu của người tiêu dung; I: Đầu tư; G: Chi tiêu của
Chính phủ; X: Xuất khẩu; M: Nhập khẩu
Sự gia tăng tổng cầu có thể là do người tiêu dùng tiêu dùng nhiều hơn (chẳng hạn,
do lãi suất giảm, thuế giảm, thu nhập tăng,...); các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn (do kỳ
vọng tăng trưởng kinh tế ở tương lai); chính phủ tiêu dùng nhiều hơn do thực hiện việc
đẩy mạnh chính sách trợ cấp xã hội, chính sách kích cầu để phát triển kinh tế. Lạm phát
cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng hàng hóa
còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước.
Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự dịch
chuyển sang bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa, sự gia tăng của một thành tố
3
nào đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. D 0 đường tổng
cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp
thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ
không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh
tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển
từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể.
Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã
sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu
dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao
trong khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít.
1.3.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi chi phí gia tăng một cách độc lập với tổng cầu.
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái do chi phí tăng (AS 0 -> AS1), vì thế đẩy giá cả
tăng.
Hình 2: Lạm phát do chi phí đẩy
Cần lưu ý rằng, chi phí gia tăng trong thời kỳ bùng nổ kinh tế, nói chung đó là
hiện tượng lạm phát cầu kéo, chứ không phải lạm phát chi phí đẩy. Chẳng hạn, nếu tiền
lương tăng lên bởi nhu cầu mở rộng nhanh, khi đó tiền lương đơn giản chỉ phản ánh sức
ép của thị trường, đó là lạm phát cầu kéo, dẫn đến chi phí gia tăng. Có thể xem xét các
trường hợp chi phí đẩy như sau:
-
Chi phí tiền lương
4
Tiền lương gia tăng do áp lực từ quyền lực công đoàn, từ chính sách điều chỉnh
tăng lương của chính phủ, đó là chi phí đẩy. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy
tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất
hiện.
- Nhập khẩu lạm phát
Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải nhập một lượng không nhỏ
nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài. Nếu chi phí của những nguyên liệu gia tăng do
nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiểm soát trong nước thì khi đó doanh nghiệp phải
chấp nhận mua nguyên vật liệu với giá cao. Có thể xem xét các lý do như:
• Tỷ giá hối đoái: Nếu như đồng nội tệ bị mất giá, hàng hóa xuất khẩu trong nước sẽ trở
nên rẻ hơn ở nước ngoài, nhưng hàng hóa nhập khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn. Khi đó các
doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn để nhập khẩu nguyên vật liệu.
• Thay đổi giá cả hàng hóa: Nếu như có sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới
thì các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với chi phí cao hơn nếu như họ sử dụng
các loại hàng hóa này làm nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh.
• Những cú sốc từ bên ngoài: Các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản
như dầu mỏ, sắt thép,… cũng làm cho giá cả nhập khẩu của những loại hàng hóa này tăng
lên và đẩy chi phí sản xuất trong nước tăng lên.
• Thiếu hụt nguồn tài nguyên: Một khi các nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt sẽ không
tránh khỏi tình trạng giá cả dần dần gia tăng. Điều này làm gia tăng chi phí của doanh
nghiệp và đẩy giá cả hàng hóa tăng lên cho đến khi doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn
lực khác thay thế (nếu có thể).
1.3.3. Cung tiền tăng quá mức
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệm, cung tiền tệ (MS)
tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát. Ban đầu nền kinh
tế ở điểm 1, với sản lượng đạt ở mức sản lượng tiềm năng Yn và tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên, tương ứng với mức giá cả P1 - điểm giao nhau của đường tổng cung AS1 và đường
tổng cầu AD1.
5
Hình 3: Lạm phát do cung tiền tăng
Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong
một thời gian rất ngắn, nền kinh tế sẽ chuyển động đến điểm 1’ và sản phẩm tăng lên trên
mức tiềm năng, tức là đạt tới Y’ (Y’ > Yn). Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống
dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung - đường
tổng cung dịch chuyển vào đến AS2. Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên
của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn. ở điểm cân bằng mới (điểm 2), mức giá đã
tăng từ P1 đến P2. Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng
cầu và tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng
cao hơn, lạm phát tăng cao.
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.1. Lạm phát giai đoạn 2000 – 2008
2.1.1. Diễn biến
Ngoại trừ mức giảm phát nhẹ trong năm đầu tiên, tỷ lệ lạm phát ở giai đoạn 20002008 nhìn chung tăng qua các năm. Năm 2000 có sự giảm phát nhẹ (0,5%) mặc dù tiền tệ
và tín dụng tăng rất nhanh (30-40%/năm) và đồng Việt Nam phá giá mạnh (khoảng 36%)
trong gia đoạn 1997-2003. Điều này là do dư âm của cuộc khủng hoảng châu Á năm
1997. Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp những năm đầu tiên của giai đoạn, lạm phát bắt
đầu tăng với tỷ lệ 9,5% trong năm 2004, cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 6% mà Chính
phủ đề ra.
Nguồn : Tổng Cục Thống kê Việt Nam
Hình 4 : Diễn biến lạm phát, tăng trưởng cung tiền và tín dụng đối với nền kinh
tế Việt Nam 1996 - 2009
Lạm phát, sau khi giảm nhẹ trong năm 2006 đã lại tăng mạnh tới 12,6% trong năm
2007 và lên tới xấp xỉ 20% năm 2008.
7
2.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm
phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát tiền tệ: Hình 4 cho thấy tiền tệ/tín dụng và lạm phát có mối tương quan
rõ ràng hơn từ năm 2003. Khi tiền tệ/tín dụng tăng thì lạm phát cũng tăng theo. Cuối
2006, Việt Nam gia nhập WTO khiến luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt
Nam, đẩy giá chứng khoán và tài sản lên rất cao. Để giữ ổn địnhtỷ giá, NHNN đã phải
bơm một lượng tiền đồng lớn vào nền kinh tế, làm tăng lượng tiền trong lưu thông với
mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38% đã khiến trầm trọng
hơn tình trạng lạm phát.
Lạm phát cầu kéo: Từ năm 2003, khi các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của
khủng hoảng Châu Á giảm đi, cầu bắt đầu tăng lên. Đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu
tư của các doanh nghiệp tăng, thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và
người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội cũng tăng,
làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất
của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm
giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so
với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó,
nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh (như dịch cúm gà) không thể
tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và
dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Cầu tăng lên cùng với sự tăng lên của tiền lương danh nghĩa
ở cả khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003 đã khiến giá cả tăng lên. Ở giai
đoạn này, giá nguyên liệu, nhiên liệu (đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép
và phôi thép v.v…) trên thế giới tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất
lớn vào nhập khẩu (nhập khẩu chiếm đến 90% GDP) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng
giá thị trường trong nước.
2.2. Lạm phát giai đoạn 2008 – nay
2.2.1. Diễn biến
8
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở
Việt Nam từ cuối năm 2009. Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh vĩ mô cũng
như tình hình lạm phát ở Việt Nam. Chỉ số CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm. Nỗi lo
lạm phát thực sự đã xuất hiện vào thời điểm Tổng cục Thống kê công bố CPI tháng
2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với tháng trước. Trong đó, mặt hàng gạo có ảnh hưởng
khá lớn, giá của loại lương thực này tăng liên tục trên thị trường thế giới.Ở mức tăng cao
nhất, tháng Năm đạt đỉnh tăng của năm 2008 với 3,91%. Trong khi đó, tháng sáu chỉ số
CPI đã tăng chậm lại do các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ (tăng 2,14%) và
tháng bảy còn 1,13%. Lạm phát năm 2008 là gần 20%, sau đó giảm về 9,17% năm 2009.
Hình 5: Diễn biến tình hình lạm phát Việt Nam 2008 – 9 tháng đầu năm 2013
Trong năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong hai
tháng đầu năm tăng cao. Năm tháng tiếp theo của năm 2010 chứng kiến tỷ lệ lạm phát
tương đối ổn định ở mức thấp chứng tỏ các biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính phủ
đã có tác động. Tuy nhiên, lạm phát lại tăng trở lại mạnh mẽ từ tháng 9 năm 2010 khiến
cho chỉ số giá tiêu dùng CPI cho 11 tháng đã tăng lên đến 9,58% so với 20,71% và 5,07%
của cùng kỳ năm 2008 và 2009. Việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010
và biến động của thị rường vàng trong nước và quốc tế được coi là một vài trong số
những nguyên nhânchủ yếu khiến cho lạm phát tăng cao lúc này.
Theo đánh giá của bộ phận thống kê ASEAN, trong 3 năm gần đây, nền kinh tế
Việt Nam đã được cải thiện và tương đối ổn định. Cụ thể, lạm phát đã giảm từ mức 2 con
số năm 2011 (18,13%) xuống mức 1 con số (6,81% năm 2012 và 5,92% trong 10 tháng
đầu năm 2013.
Năm 2011, tỉ lệ lạm phát thực tế 18,13% trong khi tỉ lệ lạm phát dự kiến đầu năm
< 7%. Mục tiêu của Chính phủ là ưu tiên lạm phát, tuy nhiên quý I năm 2011 lạm phát
tăng cao. Ba tháng đầu năm, riêng tháng một mức lạm phát thấp dưới 2% còn lạm phát
tháng hai và tháng ba đều đạt trên 2% với mức tăng cụ thể là 2,09% và 2,17%. Lạm
phát tăng cao trong bốn tháng đầu năm do sức ép từ tỷ giá, giá cả hàng hóa năng lượng và
cung tiền, sau đó giảm tốc từ tháng năm và tháng sáu nhờ những nỗ lực ổn định hóa
quyết liệt của Chính phủ.
9
Sang đến năm 2012, tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,03%, thấp hơn nhiều so với
mức dự báo. Trong khi lạm phát ở mức 6,81%, thấp hơn so với ngưỡng kế hoạch là 10%.
CPI tháng hai năm 2012 tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011.
CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011, CPI tăng không quá
cao vào hai tháng đầu năm (tăng 1,0% vào tháng một và tăng 1,37% vào tháng hai)
nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,20%. Đây là tháng chịu tác động chủ
yếu của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Sau đó, mức tăng CPI đã chậm
dần trong những tháng cuối năm.
Năm 2013, theo Báo cáo số liệu thống kê kinh tế - xã hội của năm, trong tháng 12,
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 0,51% so với tháng 11và tăng 6,04% so với cùng kỳ
tháng 12/2012. Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại
đây. Năm có CPI cao nhất là 2008, tăng 19,89%. Các năm 2007 tăng 12,63% và năm
2011 tăng 18,13%. Trong 2 năm 2012 và 2013 với các biện pháp kiềm chế, tốc độ lạm
phát đã được “hãm phanh”.Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với
bình quân năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,21% của năm 2012.
Trong năm 2013, CPI tăng cao vào quý I và quý III với mức tăng bình quân tháng
là 0,8%; quý II và quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức thấp với mức tăng bình
quân tháng là 0,4%.Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây
dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%,
nguyên nhân do việc điều chỉnh giá gas hồi đầu tháng. Một số nhóm hàng hóa và dịch vụ
có chỉ số giá giảm bao gồm nhóm giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn thông giảm
0,01%.
Theo đó, trong năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI
của nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào
chỉ số chung cả nước gần 1,1%.Ngoài ra, việc các địa phương tiếp tục thực hiện lộ trình
tăng học phí cũng đã làm CPI nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả
nước tăng khoảng gần 0,7%.Giá xăng dầu sau nhiều đợt điều chỉnh tăng/giảm nhưng cả
năm vẫn tăng mạnh 2,18%, góp vào CPI chung cả nước mức tăng 0,08%; giá điện điều
chỉnh tăng 10%, đóng góp vào CPI chung khoảng 0,25%.Bên cạnh đó, giá gas cả năm
tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%. Một số nguyên nhân khác
còn có do nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp
cuối năm; ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão và do mức cầu trong dân yếu.Nằm ngoài rổ
10
tính CPI, chỉ số giá vàng tháng 12/2013 giảm 3,33% so với tháng trước; giảm 24,36% so
với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá USD tháng 12/2013 tăng 0,05% so với tháng trước;
tăng 1,09% so với cùng kỳ năm 2012.
Năm 2014, kinh tế Việt Nam chứng kiến sự chuyển biến bất ngờ trong hai tháng
đầu năm. Cụ thể, lạm phát toàn phần đã chậm lại ở mức 4,6% trong tháng 2/2014 so với
năm ngoái. Bên cạnh đó, giá cả thực phẩm cũng đã chậm lại từ mức 4,5% trong tháng
1/2014 xuống còn 3,3% trong tháng 2/2014 so với cùng kỳ năm 2013.
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát do chi phí đẩy:
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam
đầu năm 2009 do giá quốc tế giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại
của lạm phát. Trong đó có thể kể đến việc giá dầu mỏ trên thế giới liên tục giảm từ cuối
năm 2008 tới đầu 2009, giúp giá dầu trong nước được điều chỉnh giảm vào tháng 3 năm
2009. Chi phí sản xuất, cùng giá cả hàng hóa tăng trong những năm tiếp theo cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tăng giá thành và giá bán sản phẩm, từ đó gây ra lạm
phát cao ở nước ta. Năm 2011, chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất tăng
bình quân 21,3% so với cùng kỳ năm 2010, cao hơn so với tốc độ tăng CPI. Chi phí sản
xuất tăng một phần là do việc tăng giá điện, than, xăng dầu theo lộ trình, mặt khác do giá
hàng hóa nhập khẩu vào nước ta tăng trong các năm gần đây.
Lãi suất vốn vay ở mức cao, nhất là trong năm 2011, cũng làm tăng giá thành sản
phẩm và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, nhất
là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Lạm phát do cầu kéo: Việc thực hiện chính sách kích cầu để ngăn chặn suy giảm
kinh tế vào năm 2009 đã gây áp lực đến mặt bằng giá. Đồng thời bội chi ngân sách các
năm từ năm 2006-2010 đều ở mức trên 5% GDP (trừ năm 2008 đạt 4,6%), cá biệt năm
2009 lên đến 6,9% và năm 2010 là 5,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả trái phiếu chính phủ, thì
tỷ lệ bội chi còn cao hơn.
Năm 2011 và năm 2012, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp
tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi NSNN (xuống 4,9% vào
năm 2011; 4,8% vào năm 2012) và giảm nợ công để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
11
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội (Nghị quyết số 11/NQ-CP và các Nghị quyết khác của
Chính phủ). Việc thực hiện các giải pháp này đang thu được những kết quả bước đầu
trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Lạm phát tiền tệ: Cung tiền nới lỏng quá mức là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn này. Nếu như năm 2000 tổng phương tiện
thanh toán (M2) của Việt Nam chỉ ở mức dưới 60% GDP, thì đến cuối năm 2010 đã lên
đến trên 130% GDP (tổng dư nợ tín dụng trên 110% GDP).
Tốc độ tăng cung tiền cao hơn tốc độ tăng GDP theo giá thực tế đã tồn tại trong thời
gian dài. Vào năm 2007, tốc độ tăng trưởng M2 là 43,7%, tín dụng là 53,9%; mức tăng kỷ
lục này là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát cao vào năm 2008.
Đến năm 2009 và 2010, tăng trưởng M2 và tín dụng lại tăng lên mức khoảng 30%/năm, đã
dẫn đến lạm phát năm 2010 và 2011 lại bị đẩy lên cao.
Trong năm 2011, lạm phát mục tiêu đề ra nhỏ hơn 7%/năm, thấp hơn nhiều so với
mức lạm phát thực tế bình quân của 3 năm trước đó (2008-2010) là 12,73%. Để đạt được
mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước bắt buộc phải cắt giảm cung tiền (M2 còn 12,4%) và
giảm tăng trưởng tín dụng đột ngột (còn 14,4%), gây ra những hệ quả không mong muốn,
như: lãi suất cho vay và nợ xấu tăng cao, thanh khoản căng thẳng…, nhưng lạm phát vẫn ở
mức quá cao 18,13%. Nguyên nhân của mức lạm phát năm 2011 quá cao so với mục tiêu
đề ra là do những hệ quả của việc mở rộng cung tiền quá mức và tăng trưởng tín dụng quá
“nóng” trong giai đoạn trước đó (trung bình cung tiền M2 và tín dụng tăng 31,17%/năm và
35,17%/năm trong giai đoạn 2004-2010).
Năm 2012, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, nhờ thực hiện quyết liệt và đồng
bộ hàng loạt giải pháp, tốc độ tăng trưởng M2 cả năm chỉ khoảng 20% và tín dụng chỉ
tăng khoảng 7%, nên lạm phát đã giảm mạnh đáng kể so với năm 2011.
12