Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Định giá tài sản_Thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.93 KB, 54 trang )

CHƯƠNG I:

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ
DOANH NGHIỆP

I.

Giá trị doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
1. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp.
− Khái niệm doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh.
+ Xét về mô hình tổ chức, doanh nghiệp bao gồm các loại: công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước.
− Khái niệm giá trị doanh nghiệp : là sự biểu hiện bằng tiền về các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá
trình kinh doanh.
+ Phương pháp định giá doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu:
• Đánh giá giá trị các tài sản hữu hình và yếu tố tổ chức –
các mối quan hệ.


• Đánh giá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo
ra cho nhà đầu tư.
2. Khái niệm và mục đích định giá doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị đối với
loại hàng hóa này là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế
vĩ mô cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin
về GTDN. GTDN là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích


liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh ngiệp được đánh giá.
− Khái niệm định giá doanh nghiệp: là sự ước tính với độ tin cậy cao
nhất các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình
kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của
thị trường.
− Mục đích của định giá doanh nghiệp:
+ Phục vụ cho các giao dịch mua, bán, sáp nhập, hợp nhất, chia
nhỏ doanh nghiệp.
+ Các mục đích khác như: xác định vị thế tín dụng, cung cấp
thông tin cho hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô, hoạch định chiến
lược của doanh nghiệp. ..
3. Nhu cầu xác định GTDN
Nhu cầu xác định GTDN được xuất phát chủ yếu từ các yêu cầu quản lý và
các giao dịch:


− Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán,
sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp.
Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến
trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản
xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng
các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi
trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải
có sự đánh giá trên phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh
nghiệp, trong đó GTDN là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn
cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến trình giao
dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
− Yêu cầu của các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi ra các
quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp
được đánh giá.

GTDN là sự phản ánh năng lực, khả năng tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà QTKD có thể thấy
dược khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình và các doanh
nghiệp khác. Do vậy GTDN làm một căn cứ thích hợp, cơ sở để đưa
ra cac quyết định về kinh doanh, tài chính… một cách đúng đắn.
− Yêu cầu của các nhà đầu tư, của nhà cung cấp… cần một sự đánh giá
tổng quát về uy tín kinh doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín
dụng, để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc
tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp.


− Yêu cầu về việc hoạch định chính sách trong quản lý kinh tế vĩ mô,
cải các DNNN,…
GTDN là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá cả
các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh
nghiệp có chứng khoán được trao đổi mua bán trên thị trường. Vì vậy
trên phương diện quản lý vĩ mô, thông tin về GTDN là một căn cứ
quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp
hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường,
nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền
kiểm soát doanh nghiệp… để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều
tiết phù hợp. Ngoài ra, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh
tế, xác định GTDN còn là một bước đi quan trọng để cải cách các
DNNN như: cổ phần hóa, sáp nhập, hợp nhất hay giao, bán và cho
thuê.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường
trong cơ chế thị trường đã đặt ra những yêu cầu cần thiết phải xác định
GTDN. Nó là mối quan tâm của 3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà
quản trị doanh nghiệp. Vì vậy định giá doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu
đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo cơ chế thị

trường.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
a. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh (MTKD) là yếu tố ảnh hưởng có tính khách quan, về
cơ bản vượt khỏi tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển


được, doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi. Môi trường kinh doanh được
chia làm 2 loại:
− Môi trường kinh doanh tổng quát (môi trường vĩ mô): gồm có môi
trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hóa – xã hội và
môi trường kỹ thuật.
+ Môi trường kinh tế
Doanh nghiệp bao giờ cũng tồn tại trong một bối cảnh kinh tế
cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt
chỉ tiêu vĩ mô như: tốc độ tăng trường, chỉ số giá cả, tỷ giá
ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng
khoán…
Mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới
sự đánh giá về doanh nghiệp: nền kinh tế luôn tăng trưởng với
tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư và tiêu dùng ngày càng
lớn. Chỉ số giá chứng khoán phản ảnh đúng quan hệ cung cầu,
đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ
trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô SXKD.
Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán ảo, lạm phát
phi mã… là biểu hiện việc SXKD doanh nghiệp đang có chiều
hướng xấu. Mọi sư đánh giá về doanh nghiệp, trong đó có
GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.
+ Môi trường chính trị



SXKD chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự
ổn định về chính trị.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ, tác
động trực tiếp đến SXKD bao gồm:
• Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống
luật pháp.
• Quan điểm tư tưởng của Nhà nước đối với SXKD thông
qua hệ thống các văn bản pháp quy như: Quan điểm về
sản xuất, đầu tư, tiêu dùng… thể hiện trong luật thuế, luật
cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ…
• Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành
pháp luật của công dân và các tổ chức. Pháp luật đã ban
hành nhưng không hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế,
hàng giả… là biểu hiện một môi trường chính trị gây bất
lợi cho sản xuất.
Có thể thấy môi trường kinh tế, môi trường chính trị có
vai trò như những điều kiện thiết yếu, tối thiểu để doanh
nghiệp có thể hoạt động và do vậy, đánh giá về doanh
nghiệp bao giờ cũng phải nhìn nhận trước hết từ các yếu
tố này.
+ Môi trường văn hóa – xã hội.
Môi trường văn hóa được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư
tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức; được thể hiện trong
tập quán sinh hoạt và tiêu dùng. Ngoài ra, môi tường xã hội thể


hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, sự
gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các
vấn đề nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…

Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh
thần của cộng đồng. Vì thế đánh giá về doanh nghiệp không thể
bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi của môi trường văn hóa –
xã hội trong hiện tại mà còn phải dự báo được sự ảnh hưởng
của yếu tố này đến SXKD của doanh nghiệp trong tương lai.
+ Môi trường khoa học – công nghệ
Sự tác động của khoa học công nghệ đang làm thay đổi căn bản
các điều kiện về quy trình và phương thức tổ chức SXKD trong
các doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng,
phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật
chất và tinh thần.
Với doanh nghiệp, đây không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức
với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong
việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là
nguyên nhân được doanh nghiệp mau chóng đến chỗ phá sản.
Chính vì vậy khi đánh giá về doanh nghiệp, cần phải chỉ ra mức
độ tác động của môi trường này đến SXKD và khả năng thích
ứng của doanh nghiệp trước sự phát triển của KHCN.
− Môi trường đặc thù (môi trường ngành): So với môi trường tổng quát,
môi trường đặc thù bao gồm các yếu tố tác động đến doanh nghiệp


mang tính trực tiếp và rõ ràng hơn. Hơn nữa với các yếu tố này, doanh
nghiệp còn có thể kiểm soát chúng ở một mức độ nhất định. Thuộc
môi trường đặc thù có yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, hãng cạnh
tranh và các cơ quan nhà nước.
+ Khách hàng:
Khách hàng của doanh nghiệp có thể là các cá nhân, doanh
nghiệp khác hoặc Nhà nước. Họ có thể là khách hàng hiện tại

hoặc khách hàng trong tương lai.
Thông thường khác hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh
nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển, mở
rộng SXKD của doanh nghiệp, cần xác định tính chất, mức độ
bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách
hàng.Căn cứ thuyết phục nhất cho sự đánh giá là thị phần hiện
tại và tương lai, doanh số bán ra…
+ Nhà cung cấp:
Tính ổn định của nguồn cung cấp như hàng hóa, nguyên vật
liệu, dịch vụ điện, nước… có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho
sản xuất được thực hiện theo yêu cầu mà doanh nghiệp định ra.
Đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho
SXKD có thể ổn định phải xem xét đến: sự phong phú của
nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại nguyên liệu có thể thay
thế cho nhau, khả năng đáp ứng lâu dài của doanh nghiệp, tính
kịp thời, chất lượng và giá cả sản phẩm.


+ Các đối thủ cạnh tranh
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên trong và ngoài nước
ngày càng trở nên quyết liệt. Đây là mối nguy cơ ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng
lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn: Giá cả,
chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu mãi còn phải xác định
được số lượng doanh nghiệp cạnh tranh, năng lực thực tế và thế
mạnh của họ. Đồng thời phải chỉ ra những yếu tố và mầm mống
có thể làm xuất hiện các đối thủ mới, như vậy mới có thể kết
luận đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường.
+ Các cơ quan Nhà nước

Doanh nghiệp có quan hệ tốt với các tổ chức Nhà nước thường
là những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với xã
hội: nộp thuế đầy đủ, chấp hành đúng luật lao động, quan tâm
đến vấn đề môi trường… Đó cũng thường là biểu hiện của
những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh.
b. Các yếu tố nội tại doanh nghiệp:

− Hiện trạng tài sản trong doanh nghiệp
Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm ngày đến hiện
trạng tài sản của doanh nghiệp vì 2 lý do chủ yếu:
+ Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện yếu tố vật chất cần thiết,
tối thiểu đối với quá trính SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ


thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến
số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tức
là khả năng cạnh tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ
thuộc một cách trực tiếp và có tính chất quyết định vào các yếu tố
này.
+ Giá trị các tài sản của doanh nghiệp là một căn cứ đảm bảo rõ ràng
nhất về GTDN.

− Vị trí kinh doanh:
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh
doanh được đặc trưng bởi các yếu tố như địa điểm, diện tích của
doanh nghiệp và các chi nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết…
Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý
do có sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực
với nhau. Trong thực tế, do sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có
sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, vị

trí kinh doanh cần được coi là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN.
− Uy tín kinh doanh:
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của
doanh nghiệp, nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau bên
trong doanh nghiệp như: chất lượng sản phẩm, các dịch vụ tiện ích,
thái độ phục vụ của nhân viên, quan hệ khách hàng…


Có thể thấy rằng, khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá
cao trong con mắt của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản
thực sự, có giá trị và được gọi là giá trị thương hiệu. Trong nền kinh tế
thị trường, người ta có thể mua bán thương hiệu và nhiều khi thương
hiệu được đánh giá rất cao. Chính vì thế, uy tín của doanh nghiệp
được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp
phần làm nên GTDN.
− Trình độ kỹ thuật và tay nghề lao động:
Chất lượng sản phẩm doanh nghiệp một mặt phụ thuộc vào trình độ
công nghệ của máy móc thiết bị, mặt khác phụ thuộc vào trình độ kỹ
thuật và tay nghề người lao động.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn
có thể làm giảm chi phí do việc sử dụng hợp lý nguyên nhiên vật
liệu… trong quá trình sản xuất, giảm chi phí đào tạo – bồi dưỡng, từ
đó góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
− Năng lực quản trị kinh doanh:
Trong điều kiện ngày nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý SXKD đủ mạnh để có khả
năng sử dụng tốt nhất các nguồn lực, tận dụng mọi tiềm năng và cơ
hội nảy sinh, ứng phó linh hoạt với những biến động của môi trường.

Vì lý do đó, năng lực quản trị kinh doanh cũng là một yếu tố đặc biệt
quan trọng tác động tới GTDN.


QTKD là một khái niệm rộng, được đánh giá theo các nội dung cơ
bản của hoạt động quản trị như: khả năng hoạch định chiến lược –
chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị yếu tố
đầu vào và đầu ra, quản trị nguồn nhân lực…
TÓM LẠI: GTDN chịu sự tác động của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố
bên trong và bên ngoài. Các yếu tố đã nêu là cơ sở để xây dựng và lựa chọn
những tiêu chí cho việc đánh giá, căn cứ để các bên thảo luận, xác định
phạm vi và đánh giá có hệ thống từng điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp.
Với các yếu tố định tính, để ước lượng mức độ tác động và chuyển đổi thành
số liệu, thẩm định viên sử dụng phương pháp chuyên gia, xếp hạng cho
điểm. Đó là một trong những lý do chính giải thích sự chênh lệch rất lớn về
kết quả đánh giá giữa các chuyên gia với nhau, giải thích sự phức tạp trong
việc xác định GTDN.
II.

Các phương pháp chủ yếu xác định giá trị doanh nghiệp.
1. Phương pháp giá trị tài sản thuần.
a. Cơ sở lý thuyết của phương pháp

Phương pháp giá trị tài sản thuần được xây dựng dựa trên quan điểm:
− Xem việc mua bán doanh nghiệp cơ bản giống như mua bán hàng hóa
thông thường.
− Sự hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở 1 lượng tài
sản có thực.
− Tài sản của doanh nghiệp khi mới thành lập được các nhà đầu tư tài
trợ vốn, trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh có thể được bổ

sung. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và


thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu
tư đối với số tài sản đó.
Chính vì vậy theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp được tính bằng
tổng giá trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào
SXKD.
b. Phương pháp xác định.
− Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp không chỉ thuộc về chủ sở hữu
doanh nghiệp mà còn được hình thành trên: trái phiếu, tiền lương chưa
đến hạn trả, thuế chưa đến hạn nộp, các khoản trả trước của khách
hàng, các tài sản đi thuê… Do vậy, mặc dù giá trị doanh nghiệp được
coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành doanh nghiệp, nhưng để thực
hiện mua bán doanh nghiệp, phải xác định giá trị tài sản thuần (thuộc
chủ sở hữu doanh nghiệp). Công thức tổng quát được xây dựng:
(1)
V0 = VT – VN

Trong đó:
V0: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp
VT: Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản
xuất kinh doanh
VN: Giá trị các khoản nợ
− Theo công thức (1), có 2 cách để xác định giá trị tài sản thuần V 0 như
sau:
C1: dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng
cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá xác định.
=
Giá trị tài sản

thuần

Tổng giá trị tài sản
(phản ánh ở phần tài sản)

-

Các khoản nợ phải trả
(phản ánh ở phần nguồn vốn)


Ưu điểm:
+ Tính toán đơn giản, dễ dàng.
+ Nếu việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đầy đủ,
doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của chế độ kế toán thì
giá trị tài sản thuần tính theo cách này sẽ là số liệu đáng tin cậy.
Nó chỉ ra mức độ độc lập về tài chính, khả năng tự chủ trong
điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ để nhà tài trợ
đánh giá khả năng an toàn của đồng vốn đầu tư, đánh giá vị thế
của doanh nghiệp.
+ Các bên liên quan có thể thấy được: đầu tư vào doanh nghiệp
luôn được đảm bảo bằng giá trị tài sản hiện có của doanh
nghiệp.
Nhược điểm: Những thông tin, số liệu có thể sai sót do chủ quan hoặc
khách quan dẫn đến xác định sai giá trị doanh nghiệp như:
+ Số liệu trên bảng cân đối kế toán được tập hợp từ các sổ kế
toán, bảng kê … Các số liệu này phản ánh các chi phí phát sinh
của các nghiệp vụ xảy ra trong quá khứ. Vì thế không phù hợp
ở thời điểm định giá doanh nghiệp.
+ Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp

phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu
hao nào, sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ… Vì vậy, giá
trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với
giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Trị giá hàng tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, phụ thuộc
vào giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân và còn
phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ khác nhau. Do


vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó không có
đủ độ tin cậy tại thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Chính vì những nhược điểm trên nên trị giá tài sản phản ánh trên bảng
cân đối kế toán chỉ được coi là số liệu tham khảo trong quá trình đánh
giá lại toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp.
C2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường. Loại ra khỏi
danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả
năng đáp ứng nhu cầu SXKD. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản
còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản
hoặc từng loại tài sản cụ thể, như sau:
+ Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị
trường nếu trên thị trường hiện có bán những tài sản như vậy.
Khi không có, sẽ dựa theo công dụng và khả năng phục vụ sản
xuất của tài sản để áp dụng 1 tỉ lệ khấu trừ trên giá trị của 1
TSCĐ mới hoặc áp dụng 1 hệ số quy đổi so với những TSCĐ
khác loại nhưng có tính năng tương đương.
+ Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối
chiếu số dư. Ngoại tệ sẽ được quy đổi về nội tệ theo tỉ giá thị
trường tại thời điểm đánh giá. Tương tự cho vàng, bạc, đá
quý…

+ Các khoản phải thu: đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý,
đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại những
khoản doanh nghiệp không có khả năng đòi.
+ Các khoản đầu tư bên ngoài doanh nghiệp: thực hiện đánh giá
toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp hiện đang sử dụng
các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu khoản đầu tư này không


lớn, có thể trực tiếp dựa vào giá trị thị trường của chúng dưới
hình thức chứng khoán.
+ Các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo
phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
+ Các tài sản vô hình: Chỉ thừa nhận giá trị các tài sản vô hình

Giá trị tài
sản thuần

=

được xác định trên sổ kế toán.

Giá trị của các
tài sản đã được
xác định

-

Các khoản nợ phản ánh
ở bên nguồn vốn của
bảng cân đối kế toán


Khoản tiền thuế tính trên
giá trị tăng thêm của số
tài sản được đánh giá lại
tại thời điểm xác định giá
− Giới hạn và khả năng ứng dụng của phương pháp giá trị tài sản thuần
trị doanh nghiệp
+ Giới hạn:
• Giá trị doanh nghiệp được cố định ở giá trị các tài sản.
Điều đó có nghĩa là phương pháp này đánh giá doanh
nghiệp ở 1 trạng thái tĩnh. Vì vậy mà nó không phù hợp
với 1 tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp.
• Phương pháp này đã không cung cấp và xây dựng được
những cơ sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan
đánh giá về triển vọng sinh lời của doanh nghiệp.
• Phương pháp này đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật
chất nhưng có giá trị thực sự như: trình độ quản lý, trình
độ công nhân, uy tín, thị phần… của doanh nghiệp.
• Trong nhiều trường hợp, phương pháp xác định giá trị tài
sản thuần lại trở nên quá phức tạp.
+ Khả năng ứng dụng của phương pháp giá trị tài sản thuần:
• Phương pháp này được sử dụng để xác định giá trị của
những tài sản cụ thể cấu thành giá trị doanh nghiệp.
• Xác định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán rời tại
thời điểm đánh giá, là căn cứ rõ ràng về khoản thu nhập
mà người mua chắc chắn nhận được, là cơ sở đầu tiên để


các bên có liên quan đưa ra trong quá trình giao dịch và
đàm phán về giá bán doanh nghiệp.

• Đối với doanh nghiệp nhỏ, số lượng tài sản không nhiều,
việc định giá tài sản không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, giá
trị các yếu tố vô hình là không đáng kể, thiếu căn cứ xác
định các khoản thu nhập trong tương lai thì giá trị doanh
nghiệp được xác định theo phương pháp này trở nên
thích hợp để các bên xích lại gần nhau trong quá trình
đàm phán.
Mặc dù có những hạn chế nhưng với những cơ sở kinh tế rõ ràng, phương
pháp xác định giá trị tài sản thuần là 1 trong những phương pháp cơ bản
trong hệ thống các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo cơ chế
thị trường.
2. Phương pháp hiện tại hóa các nguồn tài chính trong tương lai
a. Cơ sở lí thuyết của các phương pháp
− Giá trị của 1 doanh ngiệp được đo bằng độ lớn của khỏa thu nhập mà
DN có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai, giá trị các khoản
thu nhập đó được quy về thời điểm hiện tại theo tỷ suất chiết khấu
nhất định.
− Giá trị của DN được xác định dựa trên công thức tổng quát như sau:

V0 = V0 =
Trong đó:
+ V0: giá trị doanh nghiệp
+ Ft : thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t


+ I : tỉ suất hiện tại hóa( còn gọi là tỉ suất chiết khấu)
+ N : thời gian nhận được thu nhập ( tính theo năm)
Ý nghĩa công thức: người mua sẵn sàng trả V 0 để có doanh nghiệp, nếu như
doanh nghiệp tạo ra được các khoản thu Ft trong n năm, hoặc tạo ra được 1 tỉ
suất lợi nhuận tối thiểu là i.

b. Các phương pháp hiện tại hóa các nguồn tài chính trong tương lai
− Phương pháp định giá chứng khoán.
+ Cơ sở phương pháp: giá trị thực của 1 chứng khoán phải được
đánh giá bằng độ lớn của khoản thu nhập mà nhà đầu tư chắc
chắn sẽ nhận được từ chính doanh nghiệp đó, chứ không phải
thu nhập có được do yếu tố đầu cơ chứng khoán. Theo đó, giá
trị doanh nghiệp sẽ bằng tổng giá trị các loại chứng khoán ,à
doanh nghiệp phát hành.
+ Phương pháp xác định:
Công thức tổng quát

PV0 =

+

+...+

=

Trong đó:
• PV0 : Giá trị thực của 1 chứng khoán
• Rt : thu nhập của 1 chứng khoán ở năm thứ t
• I: tỉ suất hiện tại hóa


• n : số năm nhận được thu nhập
+ Xác định giá trị thực của trái phiếu.
Trái phiếu là 1 loại chứng chỉ vay nợ, thể hiện nghĩa vụ của
người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một
số tiền lãi nhất định và khoản tiền gốc khi khoản vay đến hạn.

Trái phiếu có nhiều loại khác nhau như: có lợi tức cố định, có
giá trị đáo hạn, thời hạn và thời điểm hoàn trả tiền lãi và vốn
gốc thường được xác định từ trước.
• Định giá trái phiếu không có thời hạn:
 Nguồn gốc của trái phiếu này do Chính phủ Anh
phát hành đầu tiên để huy động nguồn vốn dài hạn
để xây dựng đất nước. Trái phiếu không thời hạn là
cam kết của Chính phủ Anh sẽ trả một số tiền lãi
cố định mãi mãi cho người sở hữu trái phiếu.
 Công thức xác định: Giá trị của trái phiếu được xác
định bằng dòng tiền trái tức mà trái phiếu mang lại.

V=

Trong đó:
I: tiền lãi cố định được hưởng trong mỗi kì hạn
V: Giá trị hiện tại của trái phiếu


Rd: tỉ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư
• Định giá trái phiếu có kì hạn và được hưởng lãi định kì
 Định nghĩa: là loại trái phiếu có xác định thời hạn
đáo hạn và lãi suất được hưởng qua từng thời hạn
nhất định
 Công thức xác định:

V=

+


Trong đó:
I: tiền lãi cố định được hưởng trong mỗi kì
V: giá trị hiện tại của trái phiếu
Rd : tỉ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư
MV: mệnh giá của trái phiếu
n: số kì tính lãi
• Định giá trái phiếu có kì hạn và không hưởng lãi định kì
 Khái niệm: là loại trái phiếu không có trả lãi định
kì, được bán với giá thấp hơn nhiều so với mệnh
giá.
 Công thức xác định

V=


• Định giá trái phiếu có thời hạn và trả lãi theo định kì nửa
năm
 Khái niệm: là trái phiếu trả lãi định kì nửa năm 1
lần.
 Công thức xác định

V=

+

+ Xác định giá trị cổ phiếu
• Khái niệm: cổ phiếu chính là 1 chứng thư chứng minh
quyền sở hữu của 1 cổ đông đối với 1 công ty cổ phần và
cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu,
đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. Cổ phiếu

của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không
phải là khoản nợ đối với công ty.
Cổ phiếu gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
 Cổ phiếu ưu đãi: là chứng chỉ xác nhận quyền sở
hữu trong một công ty, đồng thời cho phép người


nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số
quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông.
Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ
đông ưu đãi của công ty.
Cổ phiếu ưu đãi gồm: cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ
phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại,
cổ phiếu ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định.
Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển sang cổ phiếu
thường.
Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định theo một
tỷ lệ cố định trên mệnh giá.
 Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu có thu nhập
phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia
họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của công ty,
được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản
trị của công ty.
• Cổ tức của cổ phiếu: là một phần lợi nhuận sau thuế được
chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có
thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.
• Định giá cổ phiếu: Định giá cổ phiếu là việc xác định giá
trị lí thuyết của cổ phiếu theo các phương pháp phù hợp.



Giá trị của cổ phiếu được xác định là giá trị hiện tại của
toàn bộ thu nhập nhận được từ việc đầu tư cổ phiếu trong
thời hạn nhất định.
 Định giá cổ phiếu ưu đãi:

V=

Trong đó :
Dp : cổ tức hằng năm của cổ phiếu ưu đãi
Rp : tỉ suất chiết khấu thích hợp
 Định giá cổ phiếu thường:


Định giá cổ phiếu thường khi nhà đầu tư
nắm giữ cổ phiếu vĩnh viễn để hưởng cổ tức:

Trong đó:
Dt : cổ tức được chia ở thời kì t
Re : tỉ suất lợi nhuận đòi hỏi của nhà đầu tư




Định giá cổ phiếu thường khi nhà đầu tư
nắm giữ cổ phiếu trong n năm, sau đó bán
lại với giá trị Pn

 Định giá cổ phiếu thường theo mô hình chiết khấu

cổ tức ( DDM)



Tác dụng của của mô hình: tính được giá trị
lý thuyết của cổ phiếu thường



Giả định của mô hình : biết được động thái
tăng trưởng cổ tức, biết trước tỷ suất chiết
khấu



Các trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ tức
*Trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ
tức không đổi:

→ tỉ suất lợi nhuận đòi hỏi của nhà đầu tư


Trong đó :
Do : cổ tức hiện tại của cổ phiếu
re : tỉ suất lợi nhuận đòi hỏi của nhà
đầu tư
g : tỷ lệ tăng trưởng cổ tức hằng năm
*Trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ
tức = 0
Khi g = 0,


*Trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ
tức thay đổi qua từng giai đoạn:
Giả sử 1 cổ phiếu có tốc độ tăng
trưởng 3 năm đầu là g1, 4 năm tiếp
theo là g2, các năm sau là g3. Định giá
cổ phiếu là:


×