Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

“Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ thực hành Tin học 11 cho học sinh Trường THPT Nguyễn Du”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.46 KB, 16 trang )

A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ thông tin là
lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng. Nước ta hiện nay cũng rất coi trọng
ngành công nghệ thông tin. Để đạt được mục tiêu trên, bộ môn lập trình tin
học Pascal – Tin học 11 được bộ giáo dục đưa vào thành môn học chính thức
trong chương trình tin học THPT.
Mặc dù, chất lượng giáo dục môn Tin học của trường tôi trong những
năm trở lại đây có nhiều tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, trong sự tiến bộ đó vẫn còn
nhiều mặt hạn chế. Nhận thấy nhiều em học sinh, luôn cảm thấy khó khăn
trong việc thực hành lập trình Pascal – Tin học 11. Do đó yêu cầu đặt ra cho
chúng ta là phải tìm ra những nguyên nhân yếu kém một cách chính
xác. Phải làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa
bài giảng của thầy, phải tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em
đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn
thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn
trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ các
em học sinh. Để giải quyết vấn đề đó tôi xin nêu lên một vài biện
pháp “Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ thực hành Tin
học 11 cho học sinh Trường THPT Nguyễn Du” nhằm tìm ra một số
biện pháp khắc phục tình trạng trên.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi suy nghĩ, nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm này với mục
đích tìm ra một số giải pháp tốt nhất góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
của trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a) Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 11, Trường THPT Nguyễn Du.
Trang 1



b) Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trong trường THPT Nguyễn Du và
một số trường khác.
+ Trong trường:
- Phân loại học lực của tất cả các học sinh.
- Tìm hiểu thái độ học tập của học sinh.
+ Trường khác:
- Tìm hiểu việc giảng dạy Tin học 11 ở Trường THPT.
- Kết quả hoạt động qua một số năm.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a) Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (Nghiên cứu qua các văn
bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học môn
Tin học 11).
b) Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh.
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng
dạy môn Tin học 11.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm.
- Cho học sinh hoạt động nhóm, cùng nhau trao đổi thảo luận.
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương
pháp mà mình đề ra.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài:
- Đóng góp cho bản thân.
- Đóng góp cho đồng nghiệp khác.
Với đề tài tôi chọn nghiên cứu, hy vọng được đóng góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc dạy và học môn Tin học 11 ở Trường THPT. Mặt khác,

Trang 2



sẽ là cơ sở cho các đồng nghiệp của tôi ở trong huyện, tỉnh vận dụng vào từng
bài để nâng cao chất lượng bộ môn Tin học 11.
B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.
1.1. Cơ sở pháp lý:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết số 29-NQ/TW) tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập
đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học để đáp
ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế.
1.2. Cơ sở lý luận:
Những năm qua, Tin học đã trở thành môn học trong chương trình giáo
dục phổ thông, là một môn học có mục tiêu, chương trình sách giáo khoa,
sách hướng dẫn, thiết bị riêng cho dạy và học, giáo viên được đào tạo, kết quả
học tập của học sinh được theo dõi và kiểm tra, đánh giá một cách nghiêm
túc. Việc giảng dạy môn Tin học, đảm bảo cho các em có thể giải quyết được
các bài tập hàng ngày, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho học sinh, học có hiệu
quả cao hơn các môn học khác.
Ở trường phổ thông, môn Tin học 11 không chú trọng học chuyên sâu
về ngôn ngữ lập trình, để tạo ra các phần mềm máy tính mà tập trung rèn
luyện kĩ năng tư duy logic, tư duy hệ thống và sáng tạo, không chỉ để giải

Trang 3



quyết những vấn đề trong tin học, mà đây còn là những kĩ năng vô cùng quan
trọng để giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Thực hành Pascal giúp cho ta hiểu được cách làm việc của máy tính,
cách giao tiếp để ra lệnh cho máy tính làm việc, theo sự điều khiển của con
người thông qua ngôn ngữ lập trình. Các em có thể tạo ra các chương trình
thú vị bằng cách sử dụng các câu lệnh Pascal. Cũng giống như những môn
học khác như Toán học, Vật lý, Hóa học … khi các em đã thực sự hiểu và yêu
thích bộ môn Tin học 11, các em sẽ tìm thấy nhiều niềm vui, sự đam mê khi
tìm hiểu và khám phá những điều mới mẻ nhưng đầy hấp dẫn trong bộ môn
tưởng chừng như khô khan này!
1.3. Cơ sở thực tiễn:
Từ thực tế giảng dạy môn Tin học 11 tôi thấy: Các em rất yêu thích Tin
học, vì qua đó các em được tiếp xúc, làm quen với máy tính, làm quen với
việc lập trình, cách làm việc của máy tính, cách giao tiếp để ra lệnh cho máy
tính làm việc, theo sự điều khiển của con người thông qua ngôn ngữ lập
trình... Song, bên cạnh việc giảng dạy cho học sinh tiếp thu tốt những kiến
thức cơ bản đó thì tôi thấy còn gặp nhiều hạn chế như: Nhận thức của phụ
huynh học sinh, chưa coi trọng môn học, còn cho rằng đó là môn phụ, cho
nên đồ dùng học sinh còn thiếu thốn, ít đầu tư. Mặt khác một số giáo viên
chưa có phương pháp dạy thích hợp để giúp học sinh thấy hết cái hay, cái thú
vị của môn học. Cơ sở vật chất của nhà trường vẫn còn thiếu. Phòng thực
hành chưa có đủ máy tính để phục vụ môn học, tư liệu tham khảo còn hạn
chế. Vì thế trong quá trình giảng dạy, tôi luôn phải cố gắng chuẩn bị tốt các
khâu để kích thích, động viên học sinh thường xuyên, kịp thời. Và tôi cũng
gặt hái được một số thành quả đáng kể, phần lớn học sinh say sưa với môn
học và hiểu được cái hay trong môn học, góp phần hình thành kĩ năng tư duy
logic, tư duy hệ thống và sáng tạo. Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn


Trang 4


đề tài: “Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ thực hành
Tin học 11 cho học sinh Trường THPT Nguyễn Du”.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC
MÔN TIN HỌC 11, Ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU
2.1: Đặc điểm, tình hình của nhà trường.
Trường THPT Nguyễn Du, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai được thành
lập theo Quyết định số 72/2004/QĐ-UB ngày 16/06/2004 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Gia Lai. Trường đóng chân trên địa bàn xã IarSươm, một
trong 5 xã phía Bắc huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Nhìn chung, đây là một xã
có nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu trồng mì và thuốc lá.
Trường THPT Nguyễn Du tính đến nay đã được 11 năm. Trong những
năm gần đây, trường được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và
nhân dân hỗ trợ các cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học. Năm
học 2014 - 2015, trường có 16 lớp, với gần 700 học sinh.
2.2: Thuận lợi.
- Giáo viên đều đạt chuẩn.
- Tinh thần tự học cao, luôn trao dồi kiến thức và cập nhật thông tin để
nâng cao chuyên môn nghệp vụ.
- Tập thể có tinh thần đoàn kết cao, hòa nhã trong quan hệ, tương trợ
giúp đỡ nhau trong khó khăn.
- Các giáo viên của trường nhiệt tình trong công tác và có kỉ luật lao
động tốt, có nhiều sáng tạo trong công việc.
- Sự quan tâm của Ban giám hiệu giúp tổ hoàn thành tốt nhiệm vụ năm
học.
- Rất nhiều PHHS quan tâm đến việc học tập của học sinh.
- Đa số học sinh đều ngoan, có ý thức phấn đấu, có tinh thần tương thân
tương ái giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong rèn luyện tu dưỡng đạo

đức.
Trang 5


- Cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà trường từng bước được củng
cố, hoàn thiện và kiên cố hoá.
2.3: Khó khăn.
- Giáo viên trẻ cả về tuổi đời và tuổi nghề còn thiếu kinh nghiệm trong
giảng dạy và quản lý học sinh.
- Một số học sinh chưa có ý thức học tập, chưa chuyên tâm, tiếp thu
chậm, không học bài cũ ở nhà. Theo thói quen của nhiều em học sinh, học
môn tin là học những thao tác sử dụng như cách sử dụng internet, sử dụng hệ
điều hành window, chương trình soạn thảo văn bản MS Word, chương trình
soạn thảo trình diễn MS PowerPoint… Đây là những phần học không cần đòi
hỏi tư duy, mà chỉ cần học kĩ và nhớ thao tác, thực hành nhiều lần thì sẽ
thành thạo. Nhưng khi học bộ môn lập trình Passal lớp 11, thì hầu như các em
bị “choáng” vì bộ môn rất “mới”, và cách học cũng “mới”. Học những thao
tác và thực hành nhiều không còn tác dụng, học thuộc bài cũng không còn ổn
nữa. Lúc này các em cần phải học cách tư duy logic, tìm thuật toán, và viết
những dòng lệnh máy tính chính xác đến từng đấu chấm, dấu phẩy.
- Lâu nay chúng ta học những môn tự nhiên đã quen với cách là lấy
giấy nháp ra làm thử trên giấy, đáp số chúng ta có thể biết được đúng hay sai
(tuỳ theo sức học mỗi người) nhưng đối với Pascal muốn biết chắc đúng thì
các em phải kiểm tra trên máy.
- Đa số các em không có máy tính ở nhà thực hành thêm, phải ra ngoài
tiệm Net mà ngoài tiệm Net thì đa số họ không cài phần mềm này.
- Học Pascal chỉ có trong năm 11, các em không học xuyên suốt và liên
tục nên bước đầu làm quen sẽ cảm thấy khó khăn và khó hình dung ra các
bước như thế nào?
- Có 1 số em nghĩ môn này là môn phụ nên học mang tính đối phó đủ

điểm lên lớp, dẫn đến các em chán khi học môn này.
- Sách tham khảo cho học sinh còn hạn chế.
Trang 6


- Phòng thực hành chưa có đủ máy cho học sinh.
- Nhiều học sinh đồng bào chưa hiểu tiếng phổ thông.
- Nhiều học sinh yếu kiến thức môn Toán, Tiếng Anh.
- Học sinh chưa liên hệ thực tế được khi có bài toán đặt ra, lười suy
nghĩ.
- Nhiều bậc phụ huynh do quá tập trung vào phát triển kinh tế nên chưa
thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Một số học sinh do bố mẹ có
điều kiện kinh tế khá giả nên thoải mái trong việc chu cấp tiền cho các em
tiêu xài. Chính vì vậy, nhiều học sinh đã bỏ bê việc học mà sa vào con đường
game chát.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM “PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ THỰC HÀNH TIN
HỌC 11 CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU”.
3.1: Điều tra cơ bản.
Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Tin
học 11 tại trường THPT Nguyễn Du, tôi thấy hầu hết các em đều thích học
môn này, các em học tập với tinh thần hăng say. Bên cạnh đó, còn một số học
sinh nhút nhát, rụt rè, chưa mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình, một
số em còn chán nản không thích học Tin học. Tất cả những vấn đề trên rất
đáng lo ngại, ảnh hưởng lớn đến việc học Tin học của học sinh, cho nên tôi đã
tiến hành điều tra ở một số lớp xem có bao nhiêu em thích học Tin học và
không thích học Tin học để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.
3.2: Biện pháp tiến hành.
Từ những nguyên nhân trên tôi xin đề ra các biện pháp cụ thể
như sau:

• Về phía giáo viên:
Từ thực tế giảng dạy ở giai đoạn đầu, phần đông học sinh yêu thích
môn học. Bên cạnh đó có một số em rất thờ ơ, thậm chí chán nản đến giờ học,
Trang 7


điều này khiến cho tiết học trở nên nặng nề, không hứng thú. Vì vậy việc khắc
phục tâm lý cho học sinh quả là khó khăn và hết sức cần thiết. Dựa vào tâm lý
của học sinh là thích khen ngợi, động viên và hay tò mò nên trước thời gian
thực hành, tôi giới thiệu cho các em một số đoạn chương trình mẫu, sau đó
chạy chương trình để các em xem và tự học tập. Phân tích cho các em thấy
được ý tưởng sáng tạo của mỗi thuật toán, được thể hiện qua các đoạn chương
trình đó, động viên các em ai cũng có thể viết chương trình được. Vì thế, sự
căng thẳng và chán nản trong mỗi giờ thực hành được giảm bớt đi, các em đã
có hứng thú hơn với các tiết học.
Việc muốn học sinh thực sự tập trung vào môn học thì đòi hỏi phải có
sự quan tâm của giáo viên, giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ bài dạy, đồ
dùng dạy học phải sát với nội dung bài học để lôi cuốn học sinh.
- Muốn học sinh viết được chương trình thì người giáo viên phải gợi ý,
giảng giải, đặc biệt là phải tạo được không khí sôi nổi, thoải mái, học mà
chơi, chơi mà học, khích lệ, động viên học sinh tự tìm tòi, tự sáng tạo tìm ra
thuật toán để viết chương trình.
- Trong mỗi tiết học, giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương
pháp dạy học để lôi cuốn học sinh, tránh giờ học tẻ nhạt, khô cứng.
- Không áp đặt đòi hỏi quá cao đối với học sinh. Nên lấy động viên,
khích lệ là chính, cố gắng tìm những ưu điểm dù nhỏ nhất ở từng học sinh để
kịp thời động viên, khen ngợi.
- Muốn giảng dạy tốt môn học trước hết giáo viên phải hiểu được mục
đích, yêu cầu của môn học, từ đó tìm ra cho mình một định hướng giảng dạy
đúng đắn.

- Luôn tôn trọng gần gũi học sinh.
- Phải có tính kiên trì trong công tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp
thời đối với các em.
- Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp.
Trang 8


- Ứng dụng thông tin vào môn Tin học 11 như sử dụng phương pháp
giảng dạy Pascal hiện đại với robot. Phần mềm SRobot do trường
SaigonTech, phân hiệu tại Việt Nam của Đại học Cộng đồng Houston, Texas,
Mỹ phát triển. Chương trình được áp dụng vào môn lập trình Pascal trong giờ
thực hành tin học, giúp các em học sinh THPT hào hứng tiếp thu bài, thầy cô
có thêm phương pháp giảng dạy sinh động. Theo đó, mỗi bài học Pascal trong
giờ tin học, sau khi lập trình xong một câu lệnh, học sinh sẽ được giáo viên
hướng dẫn sử dụng các câu lệnh để giải bài tập. Thay vì các bài tập về tính
toán diện tích, chu vi hình học…, các em sẽ thực hiện điều khiển robot giả lập
trên phần mềm SRobot. Những câu lệnh tưởng chừng khô khan và lý thuyết
sẽ trở thành “từ khóa” giúp robot di chuyển, tìm đường, vượt chướng ngại
vật… trên phần mềm giả lập. Sau khi giả lập trên phần mềm thành công, giáo
viên cho học sinh kết nối máy tính với robot bằng USB Bluetooth để điều
khiển robot thật. Ngoài ra, giáo viên có thể cho học sinh chia nhóm, thi đấu
robot đối kháng.
+ Cải tiến hình thức tổ chức hoạt động để phát huy tính tích
cực, sáng tạo của học sinh. Cho học sinh làm việc nhiều hơn, tăng
cường bài tập vận dụng kiến thức, bài tập rèn luyện kiến thức, bài
tập rèn luyện kĩ năng thích hợp cho các đối tượng. “Hiểu” để “Hành”
và “Hành” để sáng tỏ kiến thức đã “Hiểu”. Học trước hết để hiểu,
hiểu trên cơ sở đó mà hành. Hiểu là điểm tựa, hành để phát triển.



Về phía học sinh:
+ Bỏ đi những suy nghĩ đó, xem như chúng ta chưa biết, chưa nghe gì

về Pascal.
+ Các em phải ôn lại kiến thức toán học, trên 80% bài tập Pascal liên
quan đến toán. Có một người thầy trước đây đã từng nói: “Giỏi toán sẽ giỏi
tin nhưng ngược lại chưa chắc đúng”.

Trang 9


+ Học sinh phải biết cách xây dựng câu hỏi để tự trả lời và nhờ
người khác trả lời, luôn đặt ra câu hỏi “tại sao ?” để tự trả lời, trước
một vấn đề mới, vấn đề nghiên cứu, trước một lời giải hay cách giải
quyết của bản thân và người khác.
+ Nâng cao năng lực khái quát hóa, tổng hợp trong học và tự
học, biết sử dụng phương pháp xây dựng “ Cây kiến thức ” để củng
cố, hoàn thiện kiến thức kĩ năng.
+ Khi làm một bài tập Pascal đừng lên máy mà gõ lệnh vào sau đó nhấn
Ctrl+F9 để chạy và xem kết quả, như thế các em sẽ không hiểu ý nghĩa từng
câu lệnh ra sao trong khi các em đang tập làm quen với Pascal.
+ Đừng sợ cú pháp các câu lệnh. Một số cú pháp và cấu trúc cần học và
nhớ, nếu cần thêm có thể tham khảo ở các tài liệu, nhưng chỉ cần chừng này
từ khóa thôi là đủ để viết hầu hết các bài tập pascal rồi.


Một số hàm thường dùng:
ClrScr: lệnh xóa màn hình;
Write, Writeln: ghi ra màn hình
Read, readln: đọc giá trị vào biến




Các phép toán thường dùng:
Phép cộng (+); Phép trừ (-); Phép nhân (*); phép chia (/);
Phép chia lấy phần nguyên (div); phép chia lấy phần dư(mod); Phép

gán (:=),
Các phép toán: phép so sánh (=, <, >) và các phép toán logic: AND,
OR, XOR, NOT.


Một số kiểu dữ liệu thường dùng: Interger, real, string, char,
array, Boolean.



Các câu lệnh sử dụng thường xuyên
+ Lệnh ghép:

BEGIN .. END

+ Lệnh chọn: IF .. THEN .. ELSE
Trang 10


CASE .. OF .
+ Lệnh lặp: FOR .. TO .. DO
REPEAT .. UNTIL
WHILE .. DO

+ Gặp những lỗi về cú pháp thì rất dễ sửa, chương trình biên dịch
Pascal sẽ báo cho ta chính xác lỗi gì? ở đâu? khi chúng ta chạy chương trình.
Cho nên các em không nên tập trung nhiều vào cú pháp ngôn ngữ lập trình mà
tập trung nhiều vào tìm thuật toán, tức là tìm tuần tự các bước để giải bài
toán. Vì khi chúng ta đã tìm ra được thuật toán rồi thì việc chuyển nó thành
chương trình máy tính sẽ không còn gì khó khăn nữa.
+ Write, Read: Đừng hiểu theo nghĩa tiếng Anh là viết và đọc mà hãy
dịch sao cho dễ nhớ nhất theo nghĩa bài tập Pascal: write là hiển thị, đưa ra
màn hình thông báo, câu hay giá trị nào đó. Read là đưa vào, nhập vào giá trị
từ bàn phím hay 1 file nào đó.
+ Áp dụng các bước sau đây khi làm 1 bài tập Pascal:
- Bước 1: Xác định Input, Output. Input là giá trị nhập vào, Output là
yêu cầu của bài toán.
- Bước 2: Sau khi đã xác định Input và Output rồi, tiếp theo chúng ta
viết thuật giải cho bài đó bằng cách áp dụng kiến thức lớp 10, liệt kê các bước
hay vẽ sơ đồ khối. Bước này rất quan trọng nên phải cẩn thận.
- Bước 3: Biến những dòng, những bước liệt kê hay sơ đồ khối ở bước
2 thành câu lệnh Pascal, luôn tuân theo 1 nguyên tắc: viết xong 1 dòng chuẩn
bị viết dòng thứ 2 thì kiểm tra lại dòng 1 có sai sót gì ko? Cứ như thế cho đến
hết bài.
- Bước 4: Đừng vội nhấn Ctrl-F9 mà nhấn F7 để chạy từng bước, từng
dòng để xem từng câu lệnh đó có ý nghĩa gì.
Ví dụ nhỏ minh hoạ cho các bước ở trên:

Trang 11


Đề bài: Viết chương trình tính tổng 2 số nguyên được nhập từ bàn
phím.
Bước 1: Xác định Input, Output

Input: Hai số nguyên a và b;
Output: Tổng s=a+b;
Bước 2: Viết thuật toán
- Nhập 2 số nguyên a và b;
- Tính tổng S=a+b;
- Hiển thị giá trị tổng s ra màn hình.
Bước 3: Viết chương trình Pascal hoàn chỉnh.
Program vd; {Tên chương trình là vd}
Var a,b,S: integer; {Khai báo 3 biến kiểu số nguyên}
Begin
Write(‘Nhap a=’); { Hiển thị trên màn hình: Nhap a=}
Readln(a); { Giá trị được nhập từ bàn phím sẽ gán cho a: ví dụ nhập 8
và nhấn enter thì hiểu là: a=8}
Write(‘Nhap b=’); readln(b); { Tương tự ở trên }
S:=a+b; { Sau khi đã có 2 giá trị của a và b rồi, sẽ tính giá trị tổng S }
Write(‘Tong la: ’,S); { Đưa giá trị tổng S ra màn hình }
Readln; { Dừng màn hình để xem kết quả chờ nhấn phím để quay lại }
End. { Kết thúc chương trình }
• Về phía gia đình và nhà trường.
- Giúp các bậc phụ huynh xác định rõ mục đích cho con đi học:
Tạo cho con một nền móng vững chắc để bước vào đời, để lập
nghiệp, để con em mình hoà nhập được với xu thế phát triển của xã
hội và hơn thế là để con em mình có đủ khả năng để tự tách ra khỏi
vòng tay của bố mẹ để tạo dựng một sự nghiệp vững chắc và có một
gia đình độc lập.
Trang 12


- Không nên tận dụng sức lao động của con em mình quá sớm.
Ngoài ra các bậc phụ huynh còn phải quan tâm, quản lý nghiêm giờ

giấc học tập của con em mình, thường xuyên liên hệ với giáo viên
chủ nhiệm, giáo viên bộ môn để tìm hiểu việc học tập của con em
mình.
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN.
4.1: Kết quả
Đề tài này tôi thực hiện trong hai năm liền tại trường THPT Nguyễn
Du. Qua theo dõi tiết thực hành làm kiểm tra một tiết của học sinh lớp 11 qua
các năm học, tôi nhận thấy kỹ năng lập trình của học sinh được củng cố vững
chắc, kết quả học tập của học sinh được nâng lên, cụ thể:
Bảng thống kê kết quả học tập của học sinh
trong các bài kiểm tra một tiết (ở học kì II)

Năm học

T.số HS

HS lập chương

HS lập chương trình

(khối 11)

trình đúng

sai

SL

Tỉ lệ (%)


SL

Tỉ lệ (%)

180

100

55,5

80

44,5

2013-2014

190

120

63,1

70

36,9

2014-2015

205


170

82,9

35

17,1

2012-2013
(chưa áp dụng đề tài)

Nhìn qua bảng thống kê số liệu theo từng năm học, ta thấy số lượng
học sinh sau khi vận dụng các phương pháp học lập trình Pascal nêu trên vào
các bài làm kiểm tra một tiết trong từng năm học tăng lên rõ rệt.

Trang 13


4.2: Kết luận
Để đạt được kết quả tốt trong giảng dạy người thầy phải có
niềm say mê, tình yêu thương đối với mọi học trò, tính kiên nhẫn, có
niềm tin và không ngại khó. Là giáo viên đứng lớp, được tiếp xúc
với các em hàng ngày, hiểu được tâm lí của lứa tuổi học trò, luôn tạo
cho các em niềm tin: “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Khi
các em đã yêu thích môn học rồi thì việc hạn chế được tỉ lệ học sinh
yếu kém là không khó.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã trau rồi, học hỏi, tích
lũy được trong thời gian qua với mong muốn góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng thực hành môn Tin học 11 và giảm tỉ lệ
học sinh yếu kém trong các trường THPT.


Trang 14


MỤC LỤC

Trang 15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phương pháp giảng dạy Tin học (Nhà xuất bản Giáo dục )
- Thiết kế bài giảng Tin học lớp 11 (Nhà xuất bản Văn Hoá )
- Sách giáo khoa Tin học lớp 11 (Bộ giáo dục và đào tạo)
- Sách giáo viên Tin học lớp 11 ( Bộ giáo dục và đào tạo )
- Giáo trình Tin học lớp 11 ( Nhà xuất bản Đại học sư phạm.)

Trang 16



×