Đề 1: Phân tích hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ.
Gợi ý
a/ Mở bài: “Hoàng Lê nhất thống chí” là tiểu thuyết viết về những sự kiện lịch sử
mà nhân vật chính là vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị
anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh. Với sự dũng mãnh, tài trí ,
tầm nhìn xa trông rộng, Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc
Việt Nam. Có thể nói “ Hồi thứ mười bốn” đã phản ánh khá chân thực chân dung
người anh hùng Nguyễn Huệ, Càng đọc, chúng ta càng khâm phục tài năng xuất
chúng của người anh hùng áo vải Sơn Tây ấy.
b. Thân bài:
a. Khái quát: Trong “ Hồi thứ mười bốn”, hình ảnh người anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ chân thực và đẹp như vốn có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc.
b. Phân tích – chứng minh:
* LĐ1: Tính tình ngay thắng, cương trực, yêu nước nồng nàn, căm thù giặc và
biết nghe theo lẽ phải. Hành động mạnh mẽ, quyết đoán
- Khi nghe tin quân Thanh đã chiếm đóng Thăng Long và phần lớn Bắc Hà -> Ông
“ không hề nao núng”
- Định thân chinh cầm quân đi ngay.
- Nghe theo lời khuyên của tướng sĩ nên dừng lại.
- Trong vòng một tháng ( 24/ 11- 25/ 12) làm được rất nhiều việc lớn:
+ Chế ra áo cổn, mũ miện, tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Đế
+ “ Đốc xuất đại binh” ra Bắc
+ Gặp “người cống sĩ ở La Sơn”.
+ Tuyển mộ binh lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An
+ Phủ dụ tướng sĩ, hoạch định kế hoạch hành quân và kế hoạch đối phó víi
nhà Thanh sau chiến thắng.
LĐ2: * Trí tuệ sáng suốt, sâu xa nhạy bén.
* Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta: ( được thể hiện rất rõ qua
lời phủ dụ của quân lính ở Nghệ An) :
+ Khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và lên án hành động xâm lăng phi
nghĩa, làm trái đạo trời của giặc phương Bắc. Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào
sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”.
+ Nêu bật dã tâm của giặc. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân
ta: “Từ đời nhà hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân
ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.
+ Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa. Quang
Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm
chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ
Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành…
+ Kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực”, và ra kỉ luật nghiêm.
- Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho
một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân
lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy
nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai
lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
* Sáng suốt trong việc xét đoán dùng người.
- Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta
thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân
thua chém tướng” nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân
hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để
tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen.
- Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ
“đa mưu túc trí” việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ
mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến
việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.
=> Quang Trung đã phân tích thấu tình đạt lí những cái tội và không tội, những cái
mất và cái được, nêu rõ việc của từng người. Điều này chứng tỏ ông rất hiểu sở
trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc, ... khiến tất
cả quân tướng nể phục.
*LĐ3:* Tầm nhìn xa trông rộng:
- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang
Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”.
- Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại
giao và kế hoạch 10 tới ta hoà bình. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh
đao không thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “chờ 10 năm
nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta
có sợ gì chúng”.
- Ông cho khao quân ăn Tết sớm, và hẹn sẽ chiếm lại Thăng Long vào ngày mồng
7 năm mới. Và trong thực tế sau, chiến thắng đã đến sớm hơn cả ngày hẹn.
*LĐ 4: Tài dụng binh như thần
- Ngày 25 tháng hạp bắt đầu xuất quân ở Phú (Huế) thì ngay 29 đã tới Nghệ An.
- Tại Nghệ An, vừa tuyển quân, vừa tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh lớn nhưng chỉ
thực hiện trong một ngày.
- Hôm sau tiến quân ra Tam Điệp, hợp quân, ra kế hoạc chiến đấu.
- Đêm 30 tháng chạp lên đường, tiến ra Thăng Long, vừa hành quân, vừa đánh giặc
để chiến thắng chỉ trong 5 ngày( vượt kế hoạch 2 ngày)
- Hành quân xa liên tục với quy mô rất lớn mà cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, chiến
đấu nhịp nhàng, hiệu quả, trong khi đó có đến một vạn quân mới tuyển trước đó
vài ngày.
* Sáng suốt trong việc tổ chức các trận đánh. Mỗi trận vua QT cho sử dụng một
chiến thuật khác nhau nhưng đều giành thắng lợi rực rỡ.
- Ở Phú Xuyên: Bắt sống hết quân do thám -> Đảm bảo hoàn toàn bí mật, quân
Thanh không hề biết quân Tây Sơ đã ra Bắc.
- Trận Hà Hồi: Nửa đêm gọi loa kêu hàng, quân lính thay phiên dạ ran -> Quân
giặc hoảng sợ hạ khí giới xin hàng _> Quân TS chiếm được HH không mất một
mũi tên, một viên đạn.
- Trận Ngọc Hồi: Dùng chiến thuật đánh giáp lá cà. Cho quân lính dùng ván ghép
phủ rơm dấp nước làm mộc, cứ hai mươi người khiêng một bức nhất tề xông lến > Đến nơi quẳng ván nhất tề dùng dao chém giặc.
- Dùng chiến thuật nghi binh ( Đê Yên Duyên) chiến thuật voi giày ( Đầm mực)
* Hình ảnh vua Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận
- Thân chinh cầm quân với tư cách tổng chỉ huy chiến dịch thực sự hoạch đính
phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công,
cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế, ...
- Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, trong cảnh “ khói toả mù trời, cách gang tấc
không thấy gì” nổi bật lên hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Hình ảnh ấy
thật đẹp, thật lẫm liệt.
=> Hình ảnh người anh hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ,
trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn
của chiến công vĩ đại.
c. Đánh giá nâng cao: ( Dùng cho kết bài)
- QT xứng đáng kì bậc kì tài, bậc anh hùng xuất chúng.
- Thái độ của tác giả: Tôn trọng l/s. Khâm phục QT.
-> Vượt qua định kiến để miêu tả vua QT đẹp như vốn có.