Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

CÁC MÔ HÌNH DU LỊCH TÂM LINH TRÊN THẾ GIỚI VÀ SỰ VẬN DỤNG CÁC LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NÀY CHO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH Ở QUẢNG TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 87 trang )

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA
TÂM LINH, CÁC MÔ HÌNH DU LỊCH TÂM LINH TRÊN THẾ GIỚI VÀ
SỰ VẬN DỤNG CÁC LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NÀY CHO VIỆC
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH Ở QUẢNG TRỊ
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA TÂM
LINH
1.1. Về văn hóa tâm linh
Một số nhà nhân học, tâm lí học, khoa học xã hội cho rằng yếu tố tâm linh là
một trong 4 thuộc tính của con người, bên cạnh yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội.
Đỗ Lai Thúy cũng đã thừa nhận, “con người là một thực thể đa chiều… Đó là bản
chất sinh học, bản chất xã hội và bản chất tâm linh. Ba bản chất này tạo thành
chiều sâu, chiều rộng và chiều cao của con người” [6, tr7]1.
Trong các yếu tố của con người, tâm linh là yếu tố có biểu hiện khá mơ hồ,
không rõ nét, vì vậy rất khó xác định và nắm bắt. Khái niệm tâm linh có nội hàm
phức tạp dẫn đến có nhiều cách hiểu về tâm linh, tuy nhiên, về cơ bản, chúng ta có
thể hiểu “tâm linh” dựa trên từ nguyên của nó.
“Tâm linh” được cấu tạo từ hai chữ “tâm” và “linh”. Tâm hiểu theo hướng
tình cảm là tấm lòng nhân ái, nhưng nếu hiểu theo từ tâm niệm là nghĩ đến thường
xuyên là sự nhắc nhở mình để ghi nhớ và làm theo, tức là tin theo điều đó. Như vậy
tâm trong tâm linh là niềm tin. Còn linh là thiêng trong linh thiêng, thiêng liêng.
Như vậy tâm linh được hiểu khái quát là niềm tin của con người vào sự linh thiêng.
Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “tâm linh” có thể hiểu theo hai hướng:
Hướng thứ nhất là “khả năng biết trước mọi biến cố nào đó sẽ xảy ra theo quan
niệm duy tâm; Hướng thứ hai là “tâm hồn, tinh thần” (thường có tính chất thiêng
liêng).
Tâm linh có sự gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo. Theo
Nguyễn Đăng Duy, tâm linh được hiểu là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống
đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tôn giáo; cái thiêng liêng cao
cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm.
1



/>
12


Tuy nhiên, tâm linh không đồng nhất hoàn toàn với tín ngưỡng hay niềm tin tôn
giáo2. Khái niệm tâm linh mang ý nghĩa rộng và tích cực hơn.
Theo Đỗ Lai Thúy trong tác phẩm “Phân tâm học và văn hóa tâm linh”:
“Trước đây, nói đến tâm linh là người ta nghĩ ngay đến tín ngưỡng và tôn
giáo, và đồng nhất nó với tín ngưỡng và tôn giáo. Thực ra, khái niệm tâm linh
vừa hẹp hơn lại vừa rộng hơn khái niệm tín ngưỡng tôn giáo. Hẹp hơn là ở tín
ngưỡng tôn giáo ngoài phần tâm linh ra còn có phần mê tín dị đoan và sự
cuồng tín tôn giáo. Bởi đó vừa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần vừa là
một thiết chế xã hội, mà đã là một thiết chế xã hội thì không tránh khỏi sự thế
tục hóa, sự tha hóa do việc lợi dụng của giai cấp thống trị. Rộng hơn vì tâm
linh gắn liền với những khái niệm thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt…
không chỉ có ở đời sống tôn giáo, mà còn có trong đời sống tinh thần, đời sống
xã hội. Không chỉ có Thượng đế, có chúa trời, Thần, Phật mới thiêng liêng,
mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý cũng thiêng liêng
không kém. Có như vậy, con người mới đạt đến chiều cao của con người. Vì
nếu những cái đó bị giải thiêng thì con người không còn biết lấy gì để khu biệt
mình với động vật”.
Trong cuộc sống thường ngày, tâm linh thể hiện ở những phút giây xuất thần
và ly thoát của con người. Trong khoa học, sự dự báo, tiên cảm giúp nhà nghiên
cứu đưa ra những giả thiết rời rạc, bổ sung cho từng đoạn quan sát bị đứt quãng
thành chuỗi giả thiết khả thi để nhà bác học đúc thành giả thuyết. Trong nghệ thuật,
nghệ sĩ không dừng lại ở nhận thức lô-gích. Phản ánh là sáng tạo; sáng tạo nghệ
thuật đòi hỏi nghệ sĩ cầu viện trực giác, linh tính, chộp lấy phút thăng hoa, thần
minh, linh cảm trong quá trình sáng tạo.
Trong nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng, nhà triết học cổ điển Đức Feuerbach coi

mối quan hệ giữa Con người và Thần Thánh nằm ở bình diện tâm linh đặc biệt.
Ông viết: “Người theo tín ngưỡng hướng tới Thượng đế cùng với lời cầu nguyện
sùng kính, anh ta tin rằng, Thượng đế sẽ tham dự vào những đau khổ, những ước
nguyện của anh ta, tin rằng, Thượng đế sẽ nghe thấy tiếng nói của anh ta trong lúc
cầu nguyện...”3
Chính vì vậy, tâm linh là một dạng thức của văn hóa và là dạng thức văn hóa
2

/>
3

Tạp chí Nghiên cứu con người số 1 (16), H, 2005, tr. 23.

13


đặc biệt, thể hiện ở chỗ, nó chứa đựng nhiều điều bí ẩn và cao cả, mà con người
muốn tìm hiểu và khám phá. Có thể nói từ khi có xã hội loài người thì đã có xuất
hiện nền văn hóa tâm linh. Nền văn hóa đó tồn tại song song với nền văn hóa đời
thường. Văn hóa tâm linh là mạch ngầm chảy trong lòng nhân loại, nó là chiếc cầu
nối giữa con người và thế giới tự nhiên và ngày nay cùng với sự tiến bộ của loài
người trong lĩnh vực khoa học, văn hóa tâm linh được nhìn nhận dưới góc độ của
ánh sáng khoa học và nền tảng của nó là đạo đức của con người [ .
Văn hoá tâm linh là một mặt hoạt động văn hoá của xã hội con người, được
biểu hiện ra những khía cạnh vật chất hoặc tinh thần, mang những giá trị thiêng
liêng trong cuộc sống thường ngày và trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo, thể hiện
nhận thức, thái độ của con người. Thể hiện về phương diện giá trị vật chất là những
kiến trúc nghệ thuật, những không gian thiêng liêng như đền đài, đình chùa, miếu
mạo, nhà thờ,...Thể hiện về giá trị văn hoá tinh thần đó là những nghi lễ, những ý
niệm thiêng liêng trong tâm thức con người.

Chính vì vậy, khái niệm văn hóa tâm linh với tư cách là hình thái văn hóa của
một tộc người bao gồm nhiều yếu tố, theo như GS.TS Hồ Sỹ Vịnh là: tôn giáo, tín
ngưỡng, nghệ thuật dân gian (folklore) và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ
thuật như sự thăng hoa, phút xuất thần, “tia chớp” cảm hứng sáng tạo, trí tuệ phát
sáng của khoa học và nghệ sĩ.4
1.2. Về du lịch văn hóa tâm linh
1.2.1. Về du lịch
Ngày nay, hoạt động du lịch ngày càng phát triển và mang lại nhiều lợi nhuận
cho không ít các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vai trò
vượt bậc và phổ rộng của ngành công nghiệp không khói này đã khiến nó trở thành
chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. thuật ngữ du lịch đang hàng ngày, hàng giờ xuất hiện trên các mặt báo,
truyền hình, internet khắp nơi. Xuất phát từ hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ
nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau.
Trên thế giới, cách hiểu cơ bản nhất được thống nhất hiện nay là của Tổ chức
Du lịch thế giới (UNWTO). Theo Tổ chức này “Du lịch bao gồm những hoạt động
của con người đi đến và lưu trú tại một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở
4

/>
14


thường xuyên) của họ trong thời gian không quá một năm (và nhiều hơn 24h) nhằm
mục đích nghỉ ngơi, công vụ và các mục đích khác.”
Trên cơ sở quan điểm chung đó, ở Pháp lệnh du lịch Việt Nam và Luật Du
lịch Việt Nam đã đưa ra khái niệm để phục vụ công tác quản lý của quốc gia.
Pháp lệnh du lịch Việt Nam (1999) định nghĩa “Du lịch là hoạt động của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn như cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.5

Theo Luật Du lịch Việt Nam (ban hành năm 2005 và có hiệu lực từ
01/01/2006),“Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”6
Đây là hai văn bản pháp lý có ý nghĩa chi phối và áp dụng trên tất cả các lĩnh
vực liên quan đến du lịch tại Việt Nam, ngoài ra còn không ít những định nghĩa mà
trong quá trình nghiên cứu, các chuyên gia đã đưa ra tùy theo góc nhìn và tùy cách
diễn đạt của từng người. Nhìn chung, các định nghĩa đều xoay quanh các vấn đề về
không gian (ra khỏi nơi cư trú của mình), về thời gian (phải kéo dài trong một
khoảng thời gian nhất định), về mục đích (đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng),…
Như vậy, có thể hiểu, du lịch là một hoạt động liên quan đến một cá nhân, một
nhóm hay một tổ chức đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ bằng các cuộc
hành trình ngắn ngày hoặc dài ngày ở một nơi khác với mục đích chủ yếu không
phải là kiếm lời. Quá trình đi du lịch của họ được gắn với các hoạt động kinh tế,
các mối quan hệ, hiện tượng ở nơi họ đến.
1.2.2. Nhu cầu du lịch và nhu cầu du lịch tâm linh
1.2.2.1. Nhu cầu du lịch
Từ định nghĩa về du lịch, có thể hiểu nhu cầu du lịch là nhu cầu của con người
đi đến và lưu trú tại một nơi ngoài môi trường thường xuyên của họ nhằm mục đích
nghỉ ngơi, công vụ và các mục đích khác trong một khoảng thời gian nhất định
(không quá một năm). Nhu cầu du lịch gắn liền với nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong môi trường mà người ta đến. Họ sử dụng và tiêu dùng
5

Pháp lệnh số 11/1999/PL-UBTVQH10 ngày 08/02/1999 của Ủy ban thường vụ quốc hội về du lịch.

Luật số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về du lịch.
6


15


hàng hóa, dịch vụ khác tại nơi đến, phần lớn là những hàng hóa, dịch vụ mà tại nơi
mình không sống, không có để phục vụ cho chuyến hành trình của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ kinh tế, xã hội và dân trí được nâng
cao, cuộc sống có tích lũy, nảy sinh nhu cầu tìm hiểu thêm về cuộc sống bên ngoài,
khác với cuộc sống hiện hữu mình đang có ngày càng gia tăng. Trong sự phát triển
không ngừng của nền sản xuất xã hội du lịch đã trở thành một đòi hỏi tất yếu của
con người. Nhu cầu du lịch phát sinh là kết quả tác động của lực lượng sản xuất
trong xã hội và trình độ sản xuất xã hội. Trình độ sản xuất xã hội càng cao, các mối
quan hệ xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con người càng trở nên rõ
ràng.
Trong năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử ngành du lịch thế giới, số lượng
khách du lịch trên toàn cầu đã vượt quá con số 1 tỷ lượt người, bất chấp cuộc
khủng hoảng kinh tế kéo dài.Theo báo cáo công bố ngày 29/1 của Tổ chức Du lịch
Thế giới của Liên hợp quốc (UN WTO), tổng lượng khách du lịch quốc tế trong
năm vừa qua đạt 1,03 tỷ lượt người, tăng 4% so với năm 2011.
Châu Á-Thái Bình Dương là điểm đến thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất,
trong đó khu vực Đông Nam Á là lựa chọn số một của du khách.7
Ở Việt Nam, kết thúc năm 2012, ngành Du lịch đã đón và phục vụ 6,847 triệu
lượt khách quốc tế, tăng 11%; 32,5 triệu lượt khách nội địa, tăng 8%; tổng thu từ
khách du lịch đạt khoảng 160 nghìn tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2011.8
Sự gia tăng nhu cầu này là kết quả ảnh hưởng của nhiều yếu tố như mức sống,
giá cả dịch vụ, cở sở vật chất (lưu trú, vận chuyển), trình độ giáo dục,… Thực tế
cho thấy rằng khi thu nhập tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng gia tăng, hoặc những
người có thu nhập cao thì đi du lịch cũng nhiều hơn. Đồng thời, khi trình độ tăng
lên thì nhu cầu về sự hiểu biết cuộc sống bên ngoài càng gia tăng. Bên cạnh đó, về
phía các điểm đến du lịch, chúng được nâng cấp về mặt vật chất, đảm bảo đầy đủ

nơi lưu trú hay phương tiện vận chuyển cho du khách. Điều này khiến cho khách
cảm thấy an toàn và tăng mức độ muốn đi du lịch nhiều hơn.Như vậy, việc con
người muốn đi du lịch nhằm đến những nơi mà bản thân họ chưa biết, nói như
Dann (1980) là “thích phiêu lưu” hoặc đến những nơi đặc biệt và thuận tiện.

7

/>
8

/>
16


Nhu cầu du lịch được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, là sự cần thiết phải thỏa
mãn nhiều nhu cầu trong cùng một chuyến đi. Vì vậy, trong nhu cầu du lịch, các
chuyên gia về lĩnh vực du lịch đã phân chia thành 3 nhóm bao gồm nhóm nhu cầu
cơ bản (gồm đi lại (vận chuyển), lưu trú, ăn uống), nhóm nhu cầu đặc trưng (nghỉ
ngơi, giải trí, tham quan, tìm hiểu, thưởng thức cái đẹp, tự khẳng định, giao tiếp…)
và nhóm nhu cầu hỗ trợ (thẩm mỹ, làm đẹp, thông tin,…). Các nhóm nhu cầu này
thường được kết hợp lại để đạt nhiều mục đích khác nhau trong cùng một chuyến
đi, và tương ứng với mỗi loại nhu cầu, cần thiết phải có những hoạt động dịch vụ
nhằm đáp ứng và thỏa mãn cho khách du lịch.
1.2.2.2. Nhu cầu du lịch văn hóa tâm linh
Động lực dẫn đến du lịch là mong muốn được trải nghiệm nhiều nền văn hóa
khác nhau và gần gũi với thiên nhiên. Tuy nhiên, ngày nay, khi du lịch và văn hóa
tâm linh là hai nhu cầu ngày càng quen thuộc và cần thiết thì kết hợp giữa hai nhu
cầu này trở nên dễ hiểu và hiển nhiên. Dallen và Gallagher lập luận rằng tôn giáo
và tâm linh vẫn là động cơ phổ biến nhất cho du lịch và nhiều điểm đến du lịch
chính đã phát triển chủ yếu dựa theo sự liên kết của họ với những con người, địa

điểm và sự kiện thiêng liêng. Milan Ambroz, Rok Ovsenik [tr74] cũng thừa nhận
“Tâm linh đang trở thành một động lực quan trọng đối với du lịch” thông qua khảo
sát thăm dò ý kiến của khách du lịch, từ đó giải thích nhân tố dẫn đến viêc quyết
định đi du lịch của du khách.
Qua đó, Milan Ambroz, Rok Ovsenik khẳng định:
“Càng ngày càng có nhiều người nhìn nhận việc đi du lịch như một
phương tiện hiệu quả để tìm chính bản thân mình. Kết quả là, nhu cầu thỏa
mãn dịch vụ du lịch tâm linh và tinh thần tăng lên. Ngày nay, tất cả mọi người
mà đi có một nhu cầu để cải thiện sức khỏe và nhìn nhận bản thân mình. Đơn
giản là trong một môi trường tự nhiên, nơi khách du lịch hiện đại tìm thấy bản
thân mình thông qua sự tương tác với những người khác, tăng cường phát
triển cá nhân họ, đào sâu trải nghiệm của họ và tăng tốc độ làm lành tâm linh
của họ” [5; tr72).
Theo hai tác giả, trong tương lai, du lịch không chỉ còn bao gồm việc ngắm
cảnh, tham quan và tiêu thụ vật chất. Nó còn là sự tìm lại chính mình trong sự hiểu
biết sâu sắc về người khác và thế giới xung quanh.
Theo Thượng tọa Thích Đạo Đạo, du lịch văn hóa tâm linh là tìm hiểu văn
hoá, giá trị truyền thống.
17


Thăm viếng bằng tâm trí, trái tim. Nuôi dưỡng và mở rộng sự hiểu biết
hướng về cái thiện, hoà hợp với thiên nhiên, đồng loại, chúng sinh. Nâng cao
được giá trị tâm hồn, hiểu rõ hơn về tâm linh, cụ thể đối với Phật giáo chúng
ta là hiểu hơn về chân lý giải thoát, giá trị chân thực của cuộc sống hiện tại.
Mục đích của loại hình du lịch này là mang lại sự tăng trưởng về nhận thức
của mỗi cá nhân đối với các giá trị của tôn giáo. Con người cảm thấy sự thanh
thản, nhẹ nhàng, tâm an lạc, không vọng đọng, không chìu theo dục vọng thấp
hèn của vật chất. Du lịch tâm linh mang lại giá trị của tình yêu thương con
người thật sự cho chính bản thân cá nhân đó, đồng thời mỗi cá nhân lại mang

đến sự bình an, an lạc cho những người xung quanh.9
Nhìn chung, du lịch tâm linh hiện nay được thể hiện trên nhiều cung bậc,
nhiều dạng. Dạng thứ nhất, đó là những hoạt động tham quan, vãn cảnh tại các cơ
sở tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là dạng hẹp nhất, chưa thể hiện được ý nghĩa của hoạt
động du lịch này nhưng lại là hoạt động phổ biến nhất hiện nay; Dạng thứ hai được
mở rộng hơn với cách hiểu là tìm đến các địa điểm, cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo bên
cạnh tham quan vãn cảnh thì còn để cúng bái, cầu nguyện. Dạng này có mở rộng
hơn nhưng mới chỉ phù hợp với những đối tượng có theo tôn giáo, tín ngưỡng;
Dạng thứ ba có mục đích chính là tìm hiểu các triết lý, giáo pháp khiến cho con
người trầm tĩnh, để tâm hồn thư thái, cải thiện sức khỏe và cảm nhận chính bản
thân mình.
Những dạng thức trên là những cách hiểu rộng - hẹp khác nhau về du lịch văn
hóa tâm linh, đồng thời cũng là những hình thức biểu hiện của du lịch tâm linh.
Nếu hiểu một cách toàn diện thì du lịch tâm linh bao gồm tất cả các dạng thức nói
trên. Đó là loại hình du lịch tham quan, tham dự, tĩnh dưỡng và hoàn thiện cả thể
chất và tinh thần thông qua các hoạt động hòa mình với thiên nhiên, với đất trời,
với giáo pháp để tìm về bản thân.
Du lịch văn hóa tâm linh liên quan, gắn bó chặt chẽ với tôn giáo và tín
ngưỡng. Với tôn giáo, nổi bật lên là hoạt động hành hương. Theo Smith [ , du lịch
và hành hương giống nhau ở chỗ là cùng chia sẻ yêu cầu chủ yếu để thực hiện cuộc
hành trình, chủ yếu là thời gian, nguồn lực tài chính và xử phạt xã hội. Ngày nay,
người ta kết hợp giữa hành hương và du lịch nhằm thực hiện những hành trình đến
những địa điểm thiêng liêng, có ý nghĩa tôn giáo và tín ngưỡng. Du lịch hành
hương là đến thăm những chùa chiền, thánh đường hoặc những thánh tích mà du
9

/>
18



khách từng ngưỡng vọng. Đến nơi ấy, họ không chỉ lĩnh hội được đầy đủ thông tin
về cội nguồn tín ngưỡng, tôn giáo của mình mà trong suốt quá trình hành hương đó,
họ còn được sống cùng nhau trong một môi trường tâm linh: chiêm bái, cầu
nguyện, thực tập phép an tâm để tu dưỡng tinh thần, tạo sức mạnh cho niềm tin và
sự chuyển hóa tâm thức, thực hành các nghi lễ truyền thống… Theo bà Huỳnh
Long Ngọc Diệp (công ty Ngọc Viet travel), du lịch hành hương tâm linh là những
hành trình đến những địa điểm thiêng liêng, nơi ấy người hành hương không chỉ
đạt được sự gia tăng về niềm tin và chất lượng cho cuộc sống tâm linh của mình mà
còn tăng cường sợi dây gắn bó, kết nối mối quan hệ cá nhân với những người đồng
đạo.
Một số khách du lịch hành hương nhiều hơn du lịch và một số khác thì du lịch
nhiều hơn là hành hương. Tuy nhiên, sự phân biệt du lịch tâm linh và hành hương
được xác định bằng định nghĩa hoặc niềm tin cá nhân gắn liền với mỗi hoạt động.
Đó là, hành hương được xem là sự theo đuổi có mục đích, nghiêm túc, hợp pháp
hay hành động sùng đạo đối với việc đáp ứng tâm linh, trong khi đó du lịch, bằng
sự so sánh, có thể được mô tả như việc tìm kiếm chủ nghĩa khoái lạ, phù phiếm và
mong muốn hời hợt.
Đối với một số khách du lịch, sự hài lòng đối với nhu cầu tâm linh có ý nghĩa
là họ đã đi đến hết cuộc hành trình. Đáp ứng tinh thần là một phần của cuộc hành
trình. Khái niệm du lịch cũng như tâm linh đến lúc được mở rộng, xác định. Nếu ý
định trở về nhà mạnh hơn và nhiều hơn thì chứng tỏ cuộc hành hương của họ đã
thành công. Du lịch có thể không có tính năng thiêng liêng, mặc dầu mục đích của
nó có thể có được.
Du lịch văn hóa tâm linh thường gắn với lịch sử dân tộc, gắn với đức tin và
hướng thiện. Loại bỏ yếu tố mê tín dị đoan, loại bỏ những kẻ “Buôn thần, bán
thánh”, đây là loại hình du lịch hướng con người đến nhiều điều tốt lành.
Du lịch và tâm linh là hai nhu cầu có tác động một cách ngang bằng nhau, có
khi nhu cầu tâm linh là động cơ chính, có khi nhu cầu du lịch là động cơ chính. Tuy
nhiên kết quả hưởng thụ của khách du lịch tâm linh luôn luôn là cùng một mức độ
mặc dù đi với động cơ nào.

2. CÁC MÔ HÌNH DU LỊCH TÂM LINH TRÊN THẾ GIỚI
Mặc dầu có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch tâm linh, tuy nhiên, có thể
khái quát rằng du lịch tâm linh là loại hình du lịch mà trong đó, du khách được trải
nghiệm, được tìm về với tâm hồn, về bên trong con người mình. Xuất phát từ cách
19


hiểu chung đó, có thể thấy, trên thế giới hiện nay có một số mô hình du lịch tâm
linh như sau:
2.1. Mô hình du lịch tôn giáo (hay mô hình hành hƣơng)
Tín ngưỡng, tôn giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của con
người, vì thế các vùng thánh địa luôn có sức cuốn hút đối với các tín đồ, nguyện
vọng hành hương về các vùng đất thánh linh thiêng là một sự gợi mở cho việc hình
thành nên mô hình du lịch hành hương. Các vùng đất thánh phổ biến ở Trung Quốc
mà du lịch hành hương thường nhắm đến để xác lập vai trò hạt nhân của chuyến du
lịch thường là Khổng Miếu, Khổng Lâm (khu lăng mộ của Khổng Tử) ở Sơn Đông,
nhà thờ Sophia ở Cáp Nhĩ Tân, hang đá Vân Cương ở Sơn Tây, hang đá Mạc Cao
Đôn Hoàng ở Cam Túc, chùa Thiếu Lâm Tung Sơn ở Hà Nam, chùa Huyền Không
ở Sơn Tây, lăng mộ Thành Cát Tư Hãn ở Nội Mông v.v.
Du lịch tôn giáo bản thân nó không phải là du lịch tâm linh nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ với du lịch tâm linh. Ở đây, cần có xác định rõ nội hàm của du lịch tôn
giáo, đó là loại hình du lịch tham quan các cơ sở tôn giáo, cụ thể là đến các địa
điểm tôn giáo để tham quan, vãn cảnh, để nghe thuyết pháp,... Với nghĩa như thế
này, có chỉ dừng lại là du lịch tôn giáo, chưa phải là du lịch tâm linh.
Du lịch tôn giáo là du lịch tâm linh với điều kiện là khi đến các cơ sở tôn giáo
đó, con người được trải nghiệm, hướng đến tâm linh. Bởi vì đặc điểm của du lịch
tâm linh là phải “mang tính cá nhân sâu sắc” nhằm tìm kiếm các giá trị tâm linh tốt
đẹp và tìm kiếm chính mình thông qua con đường nội tâm riêng của chính mình.
Khách du lịch tâm linh có mục đích chính là vượt qua các khuôn phép tôn giáo một
cách có ý thức để tìm kiếm các giá trị về tâm linh và các cảm nhận tốt đẹp về con

người.
Trên thế giới hiện nay, nhiều nước vẫn phát triển mô hình du lịch này. Ở
Trung Quốc, hình thức du lịch này còn gọi là du lịch xâm nhập hoặc du lịch tâm
linh trải nghiệm, chủ yếu mượn danh nghĩa hai phương diện tâm linh, du lịch và
không phụ thuộc vào các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo bình thường, cũng như
không phụ thuộc vào các quy tắc thường lệ của hoạt động du lịch thuần túy. Kiểu
du lịch này thường mang tính độc lập với sự tự do khám phá của cá nhân du khách.
Nếu đi theo tour, các tour kiểu này thường chọn những địa điểm tâm linh tiêu biểu
(bao chứa những yếu tố văn hóa - lịch sử lẫn yếu tố tâm linh) trong một lịch trình
cố định sẵn, tổ chức tham quan và giới thiệu cho du khách.
Hay như “Vùng đất của một ngàn ngôi đền” trên đảo Bali ở Indonesia với
20


20.000 ngôi đền lớn nhỏ, đâu đâu cũng có đền, mỗi làng mạc có ít nhất 3 ngôi đền,
mỗi hợp tác xã nông nghiệp một ngôi đền, mỗi xí nghiệp một ngôi đền... cho thấy
tầm quan trọng của thế giới tâm linh đối với người dân trên đảo. Đối với người dân
Bali, núi Gunung Agung được xem là linh thiêng nhất, dưới chân núi Gunung
Agung là đền Pura Besakih - ngôi đền cổ nhất, lớn nhất và quan trọng nhất của
người dân Bali và một ngôi đền khác ở Bali là đền Ulu Watu - một trong sáu ngôi
đền thiêng liêng nhất ở Bali. Người dân Bali tin rằng các vị thần cũng như linh hồn
tổ tiên họ ngụ ở núi Gunung Agung, do đó nhiều người quay đầu về phía ngọn núi
này khi ngủ. Du lịch đến Bali thường dưới hình thức hành hương. Trước kia, các vị
vua chúa cũng đi hành hương hàng năm ở đây. Mỗi ngày đều có hàng ngàn người
đi hành hương ở ngôi đền này. Đứng trước vùng đất linh thiêng ấy, nhiều du khác
dù có tôn giáo hay không có tôn giáo, dù theo đạo gì cũng có xu hướng cảm nhận
yếu tố tâm linh trên vùng đất này.
Ở Ấn Độ, người theo đạo Hindu, đạo Sikh, đạo Kỳ Na, đạo Kitô, đạo Hồi và
những người có tín ngưỡng khác đến đây để thăm Ấn Độ và tham gia vào các cuộc
hành trình tâm linh bằng các hình thức khác nhau nhưng mục tiêu cuối cùng đều

giống nhau, đó là sự bình an của thể xác và tâm hồn.
Đặc điểm của mô hình:
- Mô hình này khá phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Bởi vì trước hết, nó
gắn bó chặt chẽ với loại hình du lịch khác, nó khá tương tự như du lịch di sản ở chỗ
là đến các cơ sở tôn giáo (chùa chiền, nhà thờ) để tham quan. Đó là hành trình tham
quan các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa, vườn cảnh, hay cảm thụ âm
nhạc… tại các địa điểm tín ngưỡng tôn giáo. Nó hơi thiêng về nhu cầu tìm hiểu văn
hóa - lịch sử, thưởng thức nghệ thuật và cảm giác lĩnh hội tính thần bí tâm linh chỉ
là một phần rất nhỏ.
- Thời lượng dành cho một điểm tham quan thường không kéo dài để dàn trải
cho những điểm tham quan khác trong lịch trình.
- Với mô hình này, độ thẩm thấu về mặt tâm linh của du khách đối với địa
điểm tham quan chủ yếu phụ thuộc sự hứng thú của họ với điểm đến, phụ thuộc
vào niềm tin, sự quan sát, cũng như cảm nhận của từng du khách trong hành trình.
- Mô hình du lịch này đặt du khách vào trong một không gian thấm đẫm tính
tâm linh để mỗi cá nhân tự chiêm nghiệm, cảm nhận tính tâm linh huyền bí, tự tạo
ra cho mình những cảm giác thú vị sau chuyến hành trình.
21


2.2. Mô hình du lịch tham quan, tham dự sự kiện tôn giáo
Bên cạnh hành hương, đến tham quan các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng thì việc
tham quan, tham dự các sự kiện tôn giáo cũng là một mô hình của du lịch tâm linh.
Bao gồm các hoạt động du lịch liên quan đến phong tục tập quán dân gian, du lịch
lễ hội tôn giáo, du lịch lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Mô hình này đặc biệt chú ý
đến hoạt động mang tính thế tục hóa tôn giáo. Phong tục tín ngưỡng dân gian là
một khía cạnh quan trọng của thế tục hóa tôn giáo nên các hoạt động du lịch liên
quan mảng này được chú ý khai thác.
Chẳng hạn ở Côn Minh (Trung Quốc), tận dụng vào thế mạnh đa dân tộc,
hàng năm Cục Du lịch Trung Quốc đều khuyến khích tổ chức các hoạt động lễ tiết

dân gian của các dân tộc thiểu số, tạo điều kiện để khách có thể tham quan, tham dự
lễ tiết một cách tự nhiên nhất cùng với dân bản địa tại các địa điểm du lịch tâm
linh. Hoạt động du lịch lễ hội tôn giáo dựa vào các ngày lễ của các tôn giáo trong
năm, hoặc các sự kiện mang màu sắc thần thánh của một địa điểm tín ngưỡng tôn
giáo nào đó để kết hợp tổ chức cho du khách các tour tham quan và lễ bái.
Hay trường hợp chương trình du lịch dessano indian cosmology ở Brazil,
chương trình lễ hội Souk Olaz ở Ả-Rập Xê-út
Mô hình này cũng khá phát triển ở Việt Nam. Có thể kể đến một số sự kiện lễ
hội mang tính tôn giáo, tín ngưỡng đặc sắc như lễ hội chùa Hương, lễ hội chùa Yên
Tử, lễ hội chùa Bái Đính,… ở phía Bắc đất nước; hay lễ hội điện Hòn Chén, lễ hội
Quán Thế Âm,… ở Huế, lễ hội Bà Thu Bồn ở Quảng Nam… Những lễ hội này thu
hút lượng du khách tham gia lớn, tuy nhiên, trong số đó, không phải tất cả đều đang
thực hiện du lịch tâm linh.
Một số đặc điểm của mô hình:
- Mô hình này cũng khá phổ biến ở các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Mô hình du lịch có mối gắn kết chặt chẽ với mô hình du lịch tôn giáo, bởi vì
không ít các sự kiện này có gắn với một cơ sở tôn giáo tín ngưỡng nhất định. Tuy
nhiên, nó không đồng nhất với mô hình đầu tiên bởi không khí và thời điểm linh
thiêng của của một lễ hội. Đó là lúc con người dễ nhanh chóng đạt xúc cảm tâm
linh.
- Không gian động, có chút xáo trộn do đông đúc người tham gia. Thời gian
tùy vào chuyến đi của từng du khách.

22


- Như vậy, du khách sẽ có cơ hội đạt độ thẩm thấu về tâm linh nếu hòa mình
vào lễ hội. Tuy nhiên, số lượng này không lớn.
2.3. Mô hình thiền
Bao gồm các loại hình du lịch nghỉ dưỡng tâm linh, du lịch sinh thái tâm linh

và du lịch thể nghiệm tâm linh. Mô hình này là sản phẩm của sự kết hợp cao độ
giữa hai phương diện tín ngưỡng tôn giáo và du lịch.
Không giống như khách du lịch tôn giáo hay khách du lịch tham gia, tham dự
sự kiện, khách du lịch tâm linh không nhất thiết phải đến cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng
mà có thể đến các điểm du lịch thông thường như nghĩa trang hay đài tưởng niệm
chiến tranh, nơi sinh sống của những người nổi tiếng có ý nghĩa tâm linh và là trải
nghiệm tâm linh đối với nhiều người. Họ có thể đến các danh lam thắng cảnh tự
nhiên, nơi cũng có thể đem lại các trải nghiệm tâm linh. Khách du lịch tâm linh
cũng có thể thử theo những niềm tin, triết lý tôn giáo khác ngoài phạm vi văn hóa
của họ nhằm khám phá chính mình, ví dụ như tín ngưỡng thổ dân Canada hay
Ashrams ở Ấn Độ khi họ muốn tăng cường sức khỏe thể chất, cảm xúc và tinh
thần.
Đặc điểm của mô hình:
- Du lịch tâm linh theo mô hình này thường kết hợp với du lịch sinh thái, du
lịch nghỉ dưỡng.
- Địa điểm để thực hiện du lịch tâm linh theo mô hình này là không gian yên ả,
thanh tịnh, giúp cho con người có được cảm giác thư giãn, thoải mái, có điều kiện
để tìm về con người của mình. Chính vì vậy, du lịch tâm lịnh còn được xem là du
lịch sinh thái tâm linh, là sản phẩm của quá trình kết hợp đầy đủ yếu tố du lịch tâm
linh và yếu tố du lịch nghỉ dưỡng. Thông qua việc tổ chức tham quan các điểm du
lịch sinh thái liên quan đến các yếu tố tôn giáo, tâm linh nhằm hướng đến mục đích
“trong cái không gian thuần khiết của thiên nhiên ấy gợi mở cho du khách hiểu
hơn về tín ngưỡng, tâm linh, hiểu hơn về vẻ đẹp các không gian sinh thái linh
thiêng ấy”.
- So với hai mô hình trên, mô hình thiền là mô hình du lịch tâm linh có khả
năng giúp du khách đạt được mức độ thẩm thấu về tâm linh, đạt được sự cảm nhận
về bản thân, sự an vui… nhiều nhất.
Ở Trung Quốc, các địa điểm hạt nhân thường được ưu tiên đưa vào các tour
tham quan như theo mô hình này khu vườn hoàng gia Hạ Cung, Tứ đại Phật giáo
23



danh sơn, khu phong cảnh Lạc Sơn Đại Phật ở Tứ Xuyên v.v. Hiện nay, Trung
Quốc nổi tiếng với chương trình du lịch tham quan, tập võ thuật và tìm hiểu về
cuộc sống của các thiền sư ở chùa Thiếu Lâm.
Ở Nhật Bản, một số hãng lữ hành đã tổ chức các chương trình du lịch khai
thác các giá trị tốt đẹp của thiền (zen). Họ gọi các chương trình như thế này bằng
rất nhiều tên gọi khác nhau như: Zen tour (tour thiền), Spiritual tour (tour tâm
linh)... Nội dung của các tour này là tổ chức cho khách tham quan các thiền viện,
tham gia vào cuộc sống, sinh hoạt như các thiền sư, thưởng thức, chiêm ngưỡng,
cảm nhận những nét đặc sắc của các loại hình nghệ thuật thiền như cắm hoa, trà
đạo, hương đạo, bonsai, ngắm hoa, ẩm thực, họa thiền… Khách du lịch trong suốt
thời gian tham gia chương trình sẽ hoàn toàn được tách ra khỏi cuộc sống căng
thẳng thường ngày. Họ được học, được hiểu về thế giới thiền. Các chương trình du
lịch đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý của khách du lịch. Số liệu thống kê của
Tổ chức Du lịch quốc gia Nhật Bản cho thấy, hàng năm, nhờ vào việc tổ chức cho
khách du lịch tham gia vào các Zen tour hay Spiritual tour, ngành du lịch Nhật Bản
đã thu tới 30 tỷ USD. Các chương trình kiểu này đặc biệt thu hút khách du lịch của
các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á, mặc dù giá của các tour này đều đắt
hơn so với các chương trình du lịch thông thường khác.
Các nhà làm du lịch Hàn Quốc hay Thái Lan cũng đã bắt tay vào tổ chức loại
hình du lịch thiền và đều thành công. Thái Lan thì thu hút khách du lịch tâm linh
thông qua chương trình Thailand zen tour (đã được Công ty Dịch vụ Du lịch Chợ
Lớn giới thiệu tại Việt Nam)…
Ở Việt Nam, Huế cũng là nơi thực hiện mô hình du lịch thiền này đầu tiên.
Tịnh Cư Cát Tường Quân là một trong những mô hình như thế. Mặc dầu đây không
phải là một cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, tuy nhiên với không gian tĩnh, hữu tình,…
trên ngọn núi phía Tây thành phố Huế, với những bài tập thiền, yogar, với ẩm thực
chay,… lại hòa trong không khí chung của vùng đất, con người cố đô khiến đây trở
thành điểm du lịch tâm linh đúng nghĩa.

2.4. Mô hình du lịch mua sắm các sản phẩm tâm linh
Bên cạnh những mô hình du lịch trên, trên thế giới còn có một hình thức du
lịch liên quan đến tâm linh nhưng hướng đến việc mua sắm các sản phẩm lưu niệm
mang tính tâm linh, tôn giáo, và các hoạt động vui chơi giải trí liên quan đến tâm
linh, tôn giáo. Tiểu biểu cho hình thức này là ở Trung Quốc. Tại đây, giới làm du
lịch quan niệm mua sắm là một trong sáu yếu tố quan trọng của du lịch, trong một
24


chuyến du lịch hành hương thì việc mua một sản phẩm lưu niệm có ý nghĩa là điều
mà du khách khó có thể tránh khỏi. Có những trường hợp việc mua sắm một sản
phẩm có ý nghĩa tâm linh thậm chí trở thành mục đích chính của chuyến du lịch.
Có những tín đồ không ngại vượt qua một hành trình dài để đến các điểm du lịch
tâm linh, sau đó cung thỉnh các bức tượng đã khai quang, mua pháp khí về thờ tự,
hoặc tìm mua các linh vật, các vật trang sức mang ý nghĩa may mắn, an lành; hoặc
chỉ đơn giản là đến để thưởng thức các món chay của nhà chùa, hay tham dự các
bữa cơm thánh ở các giáo đường…
3. VẬN DỤNG LÍ LUẬN VÀ MÔ HÌNH DU DỊCH TÂM LINH VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH TỈNH QUẢNG TRỊ
3.1. Một số đặc điểm về văn hóa lịch sử tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị là vùng đất mang đậm bản sắc dân tộc và có dấu ấn riêng của mảnh
đất miền Trung “gió Lào - cát trắng” gian truân.
Nơi đây có nhiều lễ hội dân gian truyền thống như lễ hội Cầu Ngư, lễ hội
Rước kiệu Đức Mẹ La Vang, Lễ Vu Lan, Lễ hội Tổ đình Sắc Tứ, lễ hội Chợ đình
Bích La… và các lễ hội cách mạng lịch sử cũng đang được hình thành, phát triển
thể hiện truyền thống như: Thả hoa trên sông Thạch Hãn, Đêm Thành Cổ; Huyền
thoại cõi Trường sơn; lễ hội Thống nhất non sông… Ngoài các lễ hội trên, ở
Quảng Trị còn có các trò chơi dân gian thường diễn ra trong Tết Nguyên Đán như:
Chạy cù, đánh đu, đánh bài chòi, đua ghe, hát bội…; có các di sản văn hóa phi vật
thể độc đáo khác như: Tuồng Chợ Cạn, hò Như Lệ, hát trống quân Triệu Cao,

chuyện trạng Vĩnh Hoàng…
Các cảnh quan, di tích, danh thắng tự nhiên và nhân văn được phân bố rộng
khắp trong các địa bàn trong tỉnh. Đó là Cửa Tùng, nơi được mệnh danh “Nữ hoàng
của các bãi tắm”, Khu danh thắng Đakrông với những nét kỳ vĩ của thiên nhiên và
ẩn chứa bao huyền thoại; là suối nước nóng Tân Lâm, rừng nguyên sinh Rú Lịnh,
trằm Trà Lộc, thác Ồ Ồ… , đặc biệt là những địa danh tâm linh nổi tiếng của cả
nước như: Nhà thờ La Vang (Hải Lăng), chùa Sắc Tứ (Triệu Phong)…
Bên cạnh đó, trải qua hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc, lịch
sử đã để lại trên mãnh đất Quảng Trị một hệ thống di tích lịch sử cách mạng có giá
trị tiêu biểu, mang tầm vóc quốc gia, quốc tế. Qua thống kê 10 toàn tỉnhcó 441 di
10

/>
25


tích lịch sử cách mạng, 33 di tích được xếp hạng cấp quốc gia có giá trị đối với hoạt
động du lịch, thu hút được du khách khi tìm hiểu về chiến tranh cách mạng, bản
lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh
giải phóng tổ quốc. Hơn 20 năm là tuyến lửa, ở nơi đây đã xuất hiện hàng loạt kỳ
tích oai hùng cùng nhiều địa danh lừng lẫy chiến công, như Khe Sanh, Đường 9,
Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cửa Việt, Thành Cổ, Làng Vây, Ái Tử, Cồn Cỏ, Vịnh Mốc,
Gio An, Mỹ Thủy, Phường Sắn, Sông Hiếu, Ba Lòng… Một số điểm du lịch đến
các di tích lịch sử cách mạng như quần thể di tích đường Trường Sơn, tuyến du lịch
vùng phi quân sự DMZ (Demilitarized Zone), nhà đày Lao Bảo, sân bay Tà Cơn,
đồn Không Tên, cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, khu di tích Thành Cổ Quảng Trị, khu
di tích đôi bờ Hiền Lương, địa đạo Vịnh Mốc, khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê
Duẩn…
Nhìn chung, trong kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Quảng
Trị thì di sản văn hóa chiến tranh cách mạng là rất lớn. Đây là tiềm năng và lợi thế

trong việc xây dựng mô hình du lịch đặc trưng cho Quảng Trị, đặc biệt là du lịch
hồi tưởng, du lịch tâm linh, góp phần thúc đẩy Quảng Trị trở thành một điểm đến
hấp dẫn của khách du lịch trong cả nước.
3.2. Định hƣớng vận dụng
Có thể thấy rằng, nếu so sánh với vùng đất bên cạnh là tỉnh Thừa Thiên - Huế
hay các tỉnh phía Bắc của đất nước thì Quảng Trị không phải là vùng đất tôn giáo.
Tuy nhiên, Quảng Trị có nhiều là vùng đất cách mạng, gắn với yếu tố tâm linh sâu
sắc như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường Chín… và khu di tích Thành
Cổ. Bên cạnh đó, tỉnh còn có Trung tâm hành hương Đức mẹ La Vang là nơi hành
hương của các tín đồ Công giáo.
Với điều kiện như vậy, trên cơ sở lí luận và các mô hình như đã phân tích ở
trên, thiết nghĩa, nên tập trung thực hiện theo hai mô hình:
- Vận dụng theo mô hình du lịch tôn giáo
+ Du lịch hành hương đối với trường hợp Trung tâm hành hương Đức mẹ La
Vang. La Vang là thánh địa hành hương quan trọng nhất của người Công giáo Việt
Nam. Với lợi thế đó, từ trước đến nay, đây là nơi đã được chú trọng để phát triển
du lịch. Hàng năm có hơn nửa triệu người về hành hương. Thông thường, du khách
đến đây bên cạnh việc hành hương là để cầu xin những ơn lành mà người theo đạo
Công giáo tin rằng Đức Bà sẽ ban ơn như ý.
26


+ Du lịch thờ tự đối với các cơ sở chùa chiềng Phật giáo trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, vận dụng theo mô hình này, cần tạo điều kiện hơn nữa cho du khách có điều
kiện để thẩm thấu yếu tố tâm linh, có điều kiện để tìm về chính mình, tìm được sự
an nhiên, bình thản, tươi vui,… sau chuyến đi.
- Vận dụng theo mô hình du lịch tham quan, tham dự sự kiện đối với trường
hợp các di tích lịch sử như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường Chín. Theo
mô hình này, du khách sẽ được đưa đến tham quan, tham dự các ngày lễ tưởng
niệm. Không khí của những ngày lễ này là điều kiện để du khách hồi tưởng, hoài

niệm lại lịch sử của vùng đất, con người nơi đây. Tuy nhiên, nó không chỉ là hồi
tưởng, hoài niệm, bởi trong không khí ấy, con người sẽ tìm thấy sự an nhiên trong
tâm hồn mình.
Bên cạnh đó, theo mô hình này, du khách sẽ tham dự các sự kiện lễ hội mang
đậm màu sắc tâm linh của Quảng Trị. Đó là các lễ hội đêm Thành Cổ, lễ hội Thống
nhất non sông…
Mô hình này có khả năng thu hút khách lớn, đặc biệt là du khách vốn từng
tham gia chiến trường xưa. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tính thế hệ của nó, bởi đối
tượng hướng có thể thỏa mãn được của mô hình du lịch này ở Quảng Trị là những
thế hệ từng tham gia, trải qua chiến trường xưa, vì vậy, khi thế hệ này đi qua thì
việc nối tiếp, kế thừa có khả năng suy giảm. Chính vì vậy, cần có những giải pháp
mang tính dài hơi để tạo điều kiện tồn tại cho mô hình du lịch này.

27


CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA
TÂM LINH Ở QUẢNG TRỊ
Ở Việt Nam, Quảng Trị là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, có tọa
độ từ 16018‟13‟‟ đến 17010‟ vĩ tuyến bắc và từ 106030‟51‟‟ đến 107023‟48‟‟ kinh
tuyến Đông. Phía bắc giáp với tỉnh Quảng Bình và Biển Đông, phía đông giáp Biển
Đông, phía tây giáp tỉnh Savannakhét (nước Lào) với 200 km đường biên giới.
Nhìn vào bản đồ, Quảng Trị giống như một hình có năm cạnh gần bằng
nhau, tâm điểm là vùng Tân Sở (thuộc huyện Cam Lộ). Các cạnh ấy là về phía tây
bắc, từ giáp bờ biển tỉnh Quảng Bình đến đỉnh Vàng Vàng ở góc ba biên giới
Quảng Bình, Quảng Trị và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Phía tây từ đỉnh
Vàng Vàng đến xã Thanh thược huyện Hướng Hóa, dọc biên giới Việt - Lào. Về
phía tây nam từ xã Thanh đến xã Hồng Thủy thuộc huyện Đa Krông, ở góc ngã ba
biên giới Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và Lào. Về phía đông nam từ xã Hồng Thủy

đến bờ biển giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. Cạnh phía đông bắc là bờ biển tỉnh Quảng
Trị. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.745,7 km2 (chiếm tỷ lệ 1,4% diện tích toàn
quốc).
1. TIỀM NĂNG TÀI NGUYÊN DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH Ở QUẢNG
TRỊ
Đi lên từ chiến tranh, việc phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Trị cũng gặp
không ít khó khăn. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây nền kinh tế của tỉnh đã có
những phát triển, đặc biệt là ngành du lịch. Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị, trong 9 tháng đầu năm 2014, tổng lượng khách đến
Quảng Trị ước đạt 1.398.000 lượt khách, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2013.
Khách nội địa là 1.240.000 lượt (tăng 31% so với cùng kỳ năm 2013) và khách
quốc tế 158.000 lượt (tăng 8% so với cùng kỳ năm 2013). Trong đó, khách lưu trú
tại khách sạn chuyên ngành: 647.567 lượt tăng trên 10% so với cùng kỳ năm 2013.
(Khách nội địa là 565.065lượt, khách quốc tế là 92.035 lượt). Tổng doanh thu kinh
doanh du lịch xã hội 1.009 tỷ đồng (tăng 11% so với năm 2013). Trong đó doanh
thu lưu trú và lữ hành 256 tỷ (tăng 20% so với cùng kỳ năm 2013). Đặc biệt, loại
hình du lịch tham quan di tích lịch sử, hoài niệm, tâm linh, du lịch biển tiếp tục
phát triển, lượng khách nội địa đến tham quan tăng mạnh trong các ngày lễ 30-4,
01-5, ngày Thương binh Liệt sỹ 27-7, đặc biệt dịp lễ kiệu La Vang khách du lịch và
giáo dân hành hương về dự lễ kiệu La Vang rất đông. Sự phát triển du lịch của tỉnh
28


Quảng Trị là do những tiềm năng và thế mạnh của mình, trong đó có những thuận
lợi về giao thông, hệ thống di tích tôn giáo tín ngưỡng và lịch sử cách mạng, cũng
như những lễ hội có liên quan, là điều kiện để du lịch tâm linh ngày càng phát triển.
1.1. Hệ thống giao thông thuận lợi
Quảng Trị nằm ở điểm phát khởi của Quốc lộ 9 (còn gọi là đường 9 - điểm
đầu mối của trục Hành lang kinh tế Đông Tây), đây là con đường thượng đạo
xuyên Trường Sơn ngày xưa và là con đường Xuyên Á ngày nay - con đường lịch

sử mang trên mình nó nhiều dấu tích của nhiều thời đại. Đồng thời, Quảng Trị còn
nằm trên Con đường Di sản miền Trung, là cầu nối giữa hai địa phương có di sản
văn hóa thế giới là Quảng Bình và Thừa Thiên - Huế nên Quảng Trị là địa phương
có khá nhiều lợi thế trong phát triển du lịch.
Trong đó, Hành lang kinh tế Đông Tây (East-West Economic Corridor EWEC) là một sáng kiến được nêu ra vào tháng 10 năm 1998 tại Hội nghị Bộ
trưởng Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) lần thứ 8 được tổ chức tại Manila
(Philippines) nhằm thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế giữa bốn nước Lào,
Myanma, Thái Lan và Việt Nam. Hành Lang Hành lang này chính thức thông tuyến
vào ngày 20 tháng 12 năm 2006.
Hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến hành lang dài 1.450 km, đi qua bốn
nước, bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang Mon) đến cửa khẩu
Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Myanmar - Thái Lan. Ở Thái Lan, bắt đầu từ
Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh: Tak, Sukhothai, Kalasin, Phitsanulok, Khon Kaen,
Yasothon và Mukdahan. Ở Lào, chạy từ tỉnh Savannakhet đến cửa khẩu Dansavanh
và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo (tỉnh Quảng Trị) qua các tỉnh thành
Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng. (Hình 1, Phụ lục 2)
Hành lang kinh tế Đông Tây đa dạng về địa hình, khí hậu, có đồng bằng ven
biển Mawlamyine (Myanmar), miền đất thấp và nhiều đồi núi phía nam Bắc Thái
Lan, vùng đồng bằng ẩm ướt, rừng và cây bụi Savannakhet và vùng đồi núi trung
du miền Trung Việt Nam. Hoạt động thương mại của hành lang này tập trung vào 6
thành phố lớn: Mawlamyine, Phitsanulok, Khon Kaen, Savannakhet, Huế, Đà Nẵng
và một số thành phố nhỏ khác. Đồng thời, Hành lang kinh tế Đông Tây còn giao
với một số tuyến đường huyết mạch Bắc - Nam như: Yangon - Dawei, Chiang Mai
- Bangkok, Đường 13 (Lào) và Quốc lộ 1A (Việt Nam), có điều kiện thuận lợi để
phát triển thương mại theo hướng bắc hoặc hướng nam đến các trung tâm thương
mại lớn như Băngkok, Thành phố Hồ Chí Minh. Các địa phương dọc hành lang đa
29


số đều tương đối nghèo, chậm phát triển, đông dân cư và xa cách về mặt địa lý.

Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, sự phát triển của công nghiệp còn hạn chế.
Chính vì vậy, sự ra đời của Hành lang kinh tế Đông Tây sẽ đem lại lợi ích thiết
thực và lâu dài cho các quốc gia thành viên.
Quảng Trị là một tỉnh nằm trên Hành lang kinh tế Đông Tây là cơ hội thuận
lợi cho Quảng Trị phát triển kinh tế về mọi mặt, đặc biệt là phát triển du lịch - dịch
vụ, đồng thời phát huy được thế mạnh về du lịch văn hóa tâm linh trước sự cạnh
tranh mạnh mẽ của những tỉnh/thành phố trong khu vực.
Với lợi thế này, những tuor du lịch sẽ được hình thành nhằm kết nối giữa
Quảng Bình - Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng - Hội An. Đồng thời, thông qua cửa khẩu
Lao Bảo những tuyến du lịch liên kết hai nước Việt - Lào cũng được hình thành và
phát triển.
1.2. Các cơ sở tôn giáo tín ngƣỡng đã hiện diện lâu đời
Quảng Trị không những là mảnh đất chứa đựng trong mình nhiều di tích tín
ngưỡng tôn giáo và lịch sử cách mạng, có giá trị đặc biệt không chỉ của quốc gia
mà để lại dấu ấn trong lòng bè bạn trên thế giới. Những di tích này đã chứng kiến
biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc trên cuộc hành trình tiến về phương Nam
mỡ cõi của các bậc tiền nhân, cũng như trong công cuộc chiến đấu, bảo vệ chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Ngày nay, những di tích đó là những bằng
chứng trung thực và hào hùng nhất về truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc
ta, là nơi để du khách trong nước và quốc tế đến thăm quan, vãn cảnh, nghiên
cứu,… và còn có ý nghĩa cầu nguyện cho cuộc sống được tốt đẹp hơn và tránh
những rủi ro về mặt tinh thần.
Do đặc điểm về vị trí địa lý cũng như nằm trong dòng chảy lịch sử nên
Quảng Trị là một trong những tỉnh, thành ở khu vực miền Trung có điều kiện trong
mối giao lưu với các vùng, miền trong nước và các quốc gia trên thế giới, nên
Quảng Trị cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập, phát sinh, phát triển của các
luồng văn hóa, tư tưởng và các tôn giáo. Bởi vậy, ở Quảng Trị, những tôn giáo có
nguồn gốc từ phương Đông như: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; các tôn giáo có
nguồn gốc từ phương Tây như: Công giáo, Tin lành,... đã được du nhập, truyền bá,
ngày càng phát triển và hoạt động ổn định. Sự tồn tại, hoạt động của mỗi tín

ngưỡng, tôn giáo đều có đường hướng và phương châm hoạt động riêng mang tính
đặc trưng riêng của tôn giáo mình phần nào đã làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân trên địa bản tỉnh Quảng Trị nói riêng và cả nước nói chung.
30


Tuy nhiên, trong các tôn giáo đó, Phật giáo và Công giáolà hai tôn giáo đã
được truyền bá vào vùng đất này lâu đời, để lại những dấu ấn độc đáo thông qua hệ
thống các di tích, lễ nghi, lễ hội phong phú, gần gũi với đời sống của người dân.
Những tôn giáo này với giáo lý thấm đẫm tình yêu thương, đưa con người tìm về
với giá trị đích thực của tình yêu thương, sự bao dung, cảm thông và chia sẻ. Ngày
nay, những di tích tín ngưỡng tôn giáo còn hiện hữu trên vùng đất Quảng Trị là một
trong những lợi thế để phát triển du lịch văn hóa tâm linh.
1.2.1. Phật giáo
Quảng Trị nguyên trước đây là phần đất thuộc vương quốc Chămpa. Trước
khi Quảng Trị được sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt thì nơi đây Phật giáo đã được
truyền bá và phát triển thịnh vượng. Sách Nam Hải kí quy nội pháp truyện (quyển
1) do nhà sư Nghĩa Tĩnh (635 - 713), người nhà Đường (Trung Quốc) nhân một
chuyến sang thăm các nước ở khu vực Đông Nam Á và Ấn Độ trong khoảng thời
gian từ năm 671 đến năm 691 đã kể lại rằng: “Hướng phía nam là tới Chămpa (tức
Lâm Ấp). Nước này có nhiều Chính Lượng lại kiêm có ít Hưu Bộ”.11. Chính
Lượng và Hưu Bộ tức Tuyết Nhất Thiết Hưu Bộ đều thuộc Phật giáo Tiểu thừa.Đặc
biệt vào năm 736, nhà sư Phật Triết, người Chămpa, thuộc Phật giáo Mật Tông đã
tới Nhật Bản và ở lại chùa Đại Yên tại Bình Thành kinh (nay là Thành cổ Nara),
thủ đô của Nhật Bản thời bấy giờ. Ở đây, ngài đã truyền lại múa men cổ truyền của
dân tộc Chămpa cho người Nhật và xây dựng một phần cơ sở quan trọng cho Nhã
nhạc Nhật Bản. Đồng thời, ngài còn dạy chữ Phạn cho các nhà sư người Nhật.
Dưới thời nhà Lý (1010 - 1225), năm Kỷ dậu (1069), vua Lý Thánh Tông
(1054 - 1072) đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước Chiêm Thành là Chế
Củ và nhiều dân lính làm tù binh. Các tù binh ấy được vua ban cho các quan trong

triều dùng làm quân hầu. Trong số các quan triều ấy có một vị tăng lục, tức là vị
quan coi về việc truyền bá Phật pháp. Một hôm vị tăng lục đi đâu về, bỗng thấy bản
Ngữ lục của mình sao chép bị người tù binh Chiêm Thành sửa chữa nhiều đoạn.
Ngài thất kinh đem việc ấy tâu vua. Vua liền đòi tên tù binh vào hỏi thì y ứng đối
rất thông, luận về những kinh điển nhà Phật rất xác đáng. Hỏi ra mới biết đó là một
vị thiền sư người Trung Hoa qua Chiêm Thành hành đạo, chẳng may bị bắt làm tù
binh. Vị thiền sư ấy hiệu là Thảo Đường, đệ tử của ngài Tuyết Đậu Minh Giác bên
Trung Hoa.11 Sự hiện diện của Thiền sư Thảo Đường trong hàng ngũ tù binh
Chiêm Thành đã cho biết đạo Phật đã được truyền bá ở vùng đất này lâu rồi.
11

Onishi Kazuhiko. “Câu chuyện nhà sư Phật Triết người Chămpa tại Nhật Bản”. Kỷ yếu Hội thảo: Lịch sử
và triển vọng mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản nhìn từ miền Trung. Đà Nẵng, 2013.

31


Tiếp đến khi phần đất tỉnh Quảng Trị thuộc về Đại Việt (1075), vua Lý Nhân
Tông (trị vì: 1072 - 1127) kêu gọi dân chúng ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ di cư
vào vùng đất mới. Cho đến nay, tuy trong sử sách không nói rõ nhưng chúng ta có
thể đoán biết đạo Phật đã theo gót chân của những lớp di dân đầu tiên ấy vào ba
châu mới, trong đó có châu Ma Linh là nửa phần đất thuộc phía bắc của tỉnh Quảng
Trị ngày nay, vì nước ta dưới triều Lý, các vua rất sùng đạo Phật, nhất là dưới các
triều vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông lại có rất nhiều nhà sư chân chính, tu
hành đắc đạo. Giả dụ như trong cuộc Nam tiến này, nếu không có chỉ dụ của vua cử
các nhà sư đi theo đoàn di dân ấy thì chắc có lẽ các thiền sư cũng cử đệ tử của mình
đi theo để lo về việc hoằng pháp, hoặc ít ra trong số quan chức và quân lính đưa
đoàn dân di cư cũng có nhiều người theo đạo Phật, có trình độ học vấn và là cư sĩ
tại gia, không khỏi không lo dựng lên những Niệm Phật Đường làm nơi tụng kinh,
niệm Phật?

Đến đời nhà Trần (1226 - 1400), năm 1306, với sự kiện Chế Mân - vua
Chăm, dâng cho vua Trần Anh Tông (trị vì: 1293 - 1314) hai châu Ô, Rý (vùng đất
từ đèo Ngang thuộc tỉnh Quảng Bình đến phía nam đèo Hải Vân) để làm sính lễ
cưới công chúa Huyền Trân (em gái vua Trần), thì mảnh đất này thuộc về lãnh thổ
Đại Việt. Một năm sau (1307), nhà Trần đổi hai châu Ô, Rý thành Thuận Châu và
Hóa Châu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đinh Mùi năm thứ 15 (1307)
(Nguyên, Đại Đức, năm thứ 11). Mùa xuân, tháng Giêng. Đổi hai châu Ô, Rý làm
châu Thuận và châu Hóa, sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân. Trước là
vua Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm vật dẫn cưới, người của thôn
La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý
của triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng đất,
tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về”.12 Như vậy, địa bàn Quảng Trị được mở rộng thêm
nửa phần về phía nam nên có những đợt di dân mới.
Nhiều nguồn sử liệu hiện tồn cho biết, dưới đời nhà Trần, tiêu biểu là vua
Trần Thái Tông (trị vì: 1225 - 1258) đã chọn lựa con đường phát triển, sử dụng
Nho giáo như một công cụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước, trong đó có Phật giáo.
Trong bài tựa Thiền tông chỉ nam tự, vua Trần Thái Tông đã viết: “Trẫm thầm nhủ:
Phật không Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm, tính có trí ngu, cũng nhờ vào hiểu mà
ngộ. Vì vậy, phương diện dạy dỗ đám mê, đường tắt tỏ bày sinh tử, ấy là đại giáo
của Đức Phật ta. Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là
trọng trách của bậc tiên thánh. Cho nên Lục Tổ (tức Lục Tổ Huệ Năng - VVH) có
12

Ngô Sĩ Liên. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Thời đại, 2010, tr.22.

32


nói: „Thánh nhân đời trước với đại sư không khác‟. Thì biết đại giáo của Đức Phật
ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời. Thế nay lẽ nào trẫm không coi trách

nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của Đức Phật là giáo lý của
chính mình ư!”.13
Rõ ràng, khi viết như thế vua Trần Thái Tông đã đưa ra quan điểm của mình
đối với vấn đề vì sao sử dụng Nho giáo như một công cụ để truyền bá Phật giáo,
cho nên dưới đời nhà Trần, Phật giáo nước ta rất hưng thịnh và phát triển mạnh mẽ
không thua kém gì đời nhà Lý. Do đó, đến năm 1307, làn sóng Phật giáo không
khỏi không lan theo làn sóng di dân ấy vào vùng đất Quảng Trị.
Khi nước ta bị nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược, do chính sách đồng hóa,
chúng ra lệnh tịch thu hết tất cả các loại sách vở của ta đem về Trung Quốc, trong
đó có các loại kinh sách do các thiền sư biên soạn, cốt làm cho dân ta quên gốc văn
hóa truyền thống của mình để tuân theo văn hóa của kẻ thống trị. Nhưng chúng biết
dân ta mộ đạo Phật và đạo Lão nên chúng cho chở sang các loại kinh kệ, ngữ lục do
các thiền sư Trung Hoa biên soạn và lập ra Tăng cang ty để trông nom việc truyền
bá đạo Phật, cũng như lập ra Đạo kỳ ty để truyền bá đạo Lão. Như vậy, dù ít dù
nhiều thì trong suốt 14 năm nằm dưới ách đô hộ của nhà Minh, dân chúng ở vùng
Thuận Hóa, trong đó có vùng đất Quảng Trị, cũng phần nào đã chịu ảnh hưởng của
chủ trương truyền bá ấy, nghĩa là đạo Phật vẫn được tiếp tục sinh hoạt ở đây.
Đến đời Hậu Lê (1427 - 1789), nước nhà được độc lập nhưng Phật giáo có
phần sút kém hơn so với hai triều Lý, Trần. Vì giai đoạn này, Nho học cực thịnh,
giới trí thức chạy theo cái học khoa cử để được ra làm quan, vinh thân phì gia, xa
dần Phật pháp.
Sau khi vào trấn thủ Thuận Hóa rồi cả hai xứ Thuận, Quảng của Đàng Trong
(1558), từ chúa Nguyễn Hoàng (trị vì: 1569 - 1613) đến các chúa kế nghiệp để
củng cố, giữ vững, lâu dài quyền thống trị của mình, chống lại với chúa Trịnh ở
phía Bắc, các chúa Nguyễn đều ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, quân
sự, chính trị... Trong đó có cả việc dùng đạo Phật và hết lòng ủng hộ Phật giáo phát
triển bởi Phật giáo vốn rất gần gũi và ảnh hưởng sâu sắc đối với tín ngưỡng dân
gian, nhất là trong cảnh chiến tranh loạn lạc (chiến tranh Trịnh - Nguyễn), cảnh di
dân đến một vùng đất mới với bao khắc nghiệt. Đặc biệt đây phải chăng cũng là
một chủ trương chính trị nhằm củng cố tinh thần và tâm lý của cộng đồng cư dân

13

Lê Mạnh Thát. Toàn tập Trần Thái Tông. Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tr.373.

33


Việt di dân vào mảnh đất phía Nam cùng các chúa Nguyễn? Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng, lúc này các chúa Nguyễn không thể hoặc chưa thể dùng Khổng giáo vì
những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ
Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ
Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn
khác biệt với truyền thống của người Việt. Trong hoàn cảnh nêu trên, có thể nói
Phật giáo Đại thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn, một
mặt vừa đẩy mạnh được bản sắc dân tộc của người Việt, mặt khác vừa làm lắng
đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của
những người cai trị. Hơn nữa, đối với cư dân Champa, cư dân tiền trú - bản địa ở
đây và cả cộng đồng cư dân người Hoa, người Nhật di cư đến Đàng Trong cũng
không xa lạ gì đối với tín ngưỡng Phật giáo.
Bấy giờ các chúa Nguyễn đều có lòng sùng tín đạo Phật14, họ đã làm những
việc có lợi cho Phật giáo như ra lệnh trùng tu hay làm mới chùa chiền; cho người
sang Trung Quốc thỉnh kinh hay thỉnh tăng; cấp công điền cho các chùa lớn; truyền
bổ Tăng cang lo việc hoằng pháp;… Phần nhiều các việc làm đó hầu như tập trung
ở kinh thành Huế vì đây là Chính dinh, mà Quảng Trị là Cựu dinh tất nhiên sẽ có
mối liên lạc mật thiết với Chính dinh nên được ảnh hưởng lớn của sự phục hưng ấy.
Như vậy, việc sùng đạo Phật và hết lòng ủng hộ đạo Phật của các chúa Nguyễn là
có lợi về mặt chính trị vì lôi kéo được nhiều người theo đạo Phật về phía mình, nhờ
đó mà đạo Phật đã phục hưng ở Đàng Trong và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phật
giáo xứ Đàng Trong nói chung, tỉnh Quảng Trị nói riêng, bắt đầu bước qua khúc
quanh xán lạn với những ngôi chùa danh tiếng tồn tại đến ngày nay cùng những vị

cao tăng đức độ được lưu truyền trong sử sách.
Đến nay, hơn một thế kỷ trôi qua, Phật giáo đã hiện diện trên mảnh đất
Quảng Trị và chứng kiến biết bao cuộc đổi thay dâu bể, những hạnh phúc lẫn đau
thương tang tóc mà mảnh đất này hứng chịu trong suốt các cuộc nội chiến dưới thời
nhà nước phong kiến, cũng như cả sau này. Biết bao người đã ngã xuống để mảnh
đất này được hồi sinh, đã biết bao cuộc chia lìa đẫm đầy nước mắt,… Nhưng trong
hang khổ đau đó, Phật giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần ấm áp tình thương yêu vô bờ
bến, hướng chúng sinh gạt bỏ Tham - Sân - Si, hướng đến những giá trị tốt đẹp của
con người Chân - Thiện - Mĩ.
14

Chúa Nguyễn Hoàng được dân chúng tôn xưng là chúa Tiên (hiền như Tiên, Bụt). Chúa Phúc Nguyên là
Chúa Sãi (thầy chùa). Chúa Phúc Tần là chúa Hiền (hiền như Bụt). Chúa Phúc Chu, biệt danh là cư sĩ Hưng Long,
pháp hiệu Thiên Túng Đạo nhân. Chúa Phúc Trú, pháp hiệu Vân Tuyền Đạo nhân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần pháp
hiệu Khánh Phụ Đạo nhân.

34


Ngày nay trên mảnh đất Quảng Trị, những ngôi chùa được dựng lên từ xưa
có ngôi còn ngôi mất, nhưng đều là chỗ dựa tinh thần của con người tìm về sau
chặng đường dài mệt mỏi lao vào công cuộc mưu sinh.
Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Quảng Trị:
* Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang hiện này thuộc thị trấn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích
cấp Quốc gia theo Quyết định số 2009/QĐ-BVHTT ngày 15 tháng 11 năm 1991.
Chùa được tạo lập vào những năm niên hiệu Vĩnh Hựu nhà Lê (khoảng 1735
- 1739), ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Năm Kỷ sửu (1739), chúa Võ Vương
Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) trong một lần ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái

trước cảnh trí thoát tục của chốn Phật đường, cũng như tiếng tăm của nó trong dân
chúng nên chúa đã thân hành ngự bút viết năm chữ “Sắc Tứ Tịnh Quang Tự” rồi
cho làm bảng sơn son thếp vàng ban tặng cho chùa.
Theo một bài ký được viết bằng chữ Hán của cụ Hoàng giáp Hoàng Hữu
Bính soạn ngày 20-5-1895 viết về chùa đã cho biết, vị tổ sư đầu tiên của chùa là
người Trung Hoa, húy là Tánh Tu, hiệu là Chí Khả, thân phụ là Nguyễn Quý Công,
tước Kỳ Thiềm Hầu, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Thư, pháp danh Phật Thọ. Ngài
xuất gia năm 13 tuổi với Hòa thượng Kiến Nguyệt ở Hoa Sơn (Trung Hoa) rồi qua
Việt Nam học đạo và đắc pháp với tổ Liễu Quán ở chùa Thiền Tôn (Huế) thuộc
dòng Lâm Tế chánh tông.
Buổi ban đầu nơi đây hãy còn hoang hóa, dân cư thưa thớt, nơi cọp, beo, voi
thường kéo về quấy nhiễu dân chúng. Khi Hòa thượng Chí Khả đến đây đã dựng
lên một ngôi thảo am nhỏ để làm chỗ trú ngụ và tu hành của mình. Trải qua thời
gian, mưa gió, bom đạn chiến tranh tàn phá làm cho chùa hư hại rồi lại được trùng
tu. Đến nay, chùa đã trải qua 9 lần đại trùng tu, năm 1997 là lần trùng tu lớn nhất
với kinh phí gần 2 tỷ đồng do Hòa thượng Thích Chánh Liêm làm Trưởng ban Tái
thiết nên ngôi chùa mới có diện mạo như ngày nay. Ngôi chùa hiện nay có chiều
sâu 31 m, rộng 27 m, cao gần 15 m, đã tổ chức khánh thành trang nghiêm trọng thể
vào ngày 18-2 năm Tân tỵ (12-3-2001).
Chùa Sắc Tứ đã khẳng định tầm quan trọng của mình trong lịch sử truyền bá
Phật pháp ở xứ Đàng Trong bằng cội nguồn nhân bản, truyền thống tốt đời, đẹp đạo
của mình trên mảnh đất và con người Quảng Trị. Đây là di tích có lịch sử hình
35


thành khá lâu đời, là cõi tâm linh, là chốn đi về của những người mộ đạo, là nơi gửi
gắm niềm tin, khát vọng cuộc sống của biết bao thân phận giữa cuộc đời nhiều dâu
bể. Ngày nay, chùa Sắc Tứ còn là chốn hành hương trên vùng đất Quảng Trị đầy
nắng gió.
* Chùa Diên Thọ

Đến nay, dù không còn một tư liệu thành văn nào cho biết rõ về buổi ban sơ
của chùa Diên Thọ cũng như thời gian tạo dựng, nhưng có thể suy đoán rằng, chùa
Diên Thọ ngày nay ra đời trong khoảng thế kỷ XIV - XV khi cư dân Đại Việt đến
khai phá vùng đất này. Hiện nay, chùa tọa lạc ở thôn 1, làng Diên Sanh, xã Hải
Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cách ngã ba Diên Sanh khoảng 4 km.
Căn cứ vào bức hoành phi gắn ở tiền đường ghi ba chữ Hán “Diên Thọ Tự”
với các dòng lạc khoản: “Tuế tại Kỷ mão quý hạ cốc đán” và “Nội lệnh sử ty Huấn
đạo Nguyễn Ngọc Quỳnh pháp danh Liễu Giác, thê Nguyễn Thị Huyền pháp danh
Liễu Diệu phụng cúng”, cùng những lời tương truyền thì chùa được xây dựng từ
thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739 - 1765), đến tháng 6 năm Kỷ mão
(1759 ) thì vợ chồng ông Quỳnh cúng bức Hoành phi ấy.
Chùa được xây dựng trên một đồi cát ở phía đông bắc của làng thuộc giáp
An là một trong bốn giáp: An, Bình, Chính, Phước của làng (vì thế chùa Diên Thọ
còn có tên gọi khác là chùa Diên An). Mặt chùa quay về hướng tây trên một khu
đất rộng với diện tích 5000 m2 và có một cảnh quan lý tưởng theo cách nhìn của
phong thủy học: phía trước chùa là ruộng lúa, hồ sen - một vùng đất trũng luôn
luôn có nước bất kể nắng mưa. Đây có lẽ là “minh đường”. Bên trái chùa là đất
rộng trống, bên phải là rú với cây cối um tùm, đằng sau là khu dân cư đông đúc.
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và con
người, chùa đã bị thiệt hại và thay đổi nhiều về không gian và một số kết cấu kiến
trúc vốn có của nó, đặc biệt là trong cuộc đại trùng tu năm 2002. Tuy vậy, chúng ta
cũng không thể phủ nhận rằng, chùa Diên Thọ hiện nay là một trong số ít những
ngôi chùa làng cổ và đẹp nhất, có phong cách kiến trúc Phật giáo tiêu biểu cho
những ngôi chùa làng ở Quảng Trị nói riêng và vùng đất Thuận Hóa nói chung. Đó
là ngôi chùa được xây dựng trên đồi cao, có địa thế phù hợp, kiến trúc lại không
cao vút, hài hòa với cảnh quan bao quanh. Phần trang trí chạm khắc ở đây - nơi các
tay kèo, xà ngang, tôm ấp quả, đố bảng, cửa bản khoa và các hệ thống con nằm,
con đứng có thể được xem là đỉnh cao về nghệ thuật trang trí của một ngôi chùa
làng mà cho đến nay hiếm có một ngôi chùa nào ở Quảng Trị còn giữ được.
36



×