Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, chúng em xin gửi đến thầy Nguyễn Đình
Cả đã cùng tri thức và sự tận tâm của mình để truyền đạt cho chúng em những
kiến thức quý báu nhất. Nếu không có những lời giảng dạy của thầy,chúng em
khó có thể hoàn thiện bài tiều luận này. Một lần nữa, chúng em xin chân thành
cảm ơn thầy.
Bài tiểu luận của chúng em được thực hiện trong thời gian 4 tuần. Do kiến
thức còn hạn chế, không tránh khỏi những thiếu sót là điều chắc chắn, chúng em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ thầy và các bạn cùng lớp
để kiến thức của chúng em được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin chúc thầy dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực
hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
1
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
2
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH (Chủ Nghĩa Xã Hội) khi
mà nền sản xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại
cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, lực lượng sản xuất thấp kém. Kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là lúc
bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạng XHCN phải tạo ra bước biến đổi sâu sắc,
toàn diện và triệt để đất nước, phải xóa bỏ cái cũ và xây dựng cái mới. Phải tạo ra cơ
sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra đời sống vật chất lẫn tinh thần mới cho
con người. Trước yêu cầu cấp thiết đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đi lên CNXH
phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước và muốn CNHHĐH thành công thì Nghị quyết Trung ương 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã chỉ rõ: “CNH-HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công
nghệ”, “ khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH-HĐH”.
Từ năm 1996 đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH, phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là một yếu tố có
ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp xây dựng CNXH nước ta chỉ thực sự thành
công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. KHCN nâng
cao năng suất lao đng, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá
trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia. Do đó việc nghiên cứu, tìm tòi
phát triển KHCN là một vấn đề rất quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
B. PHẦN NỘI DUNG
3
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
1. Vai trò của khoa học công nghệ trong sự nghiệp CNH-HĐH
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện nền sản xuất xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp sang sử
dụng lao động được đào tạo ngày càng nhiều hơn cho năng suất chất lượng và hiệu quả
cao hơn dựa trên phương pháp sản xuất công nghiệp, vận dụng những thành tựu mới
của KHCN tiên tiến.
CNH, HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng KHCN (Khoa Học Công Nghệ) cao, giá trị
gia tăng cao. Thực chất và nội dung cơ bản của CNH, HĐH là sáng tạo và ứng dụng tri
thức do giáo dục - đào tạo và KHCN tạo ra vào phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Vì vậy, với tư cách là một thành tố cơ bản của nền văn hóa dân tộc, KHCN có
một vị trí trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển giáo dục đào tạo cùng với phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu, không chỉ có ý nghĩa lớn lao
trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần
của chế độ xã hội chủ nghĩa.
KHCN còn có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống,
đạo đức và nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước không
phải chỉ là quá trình đổi mới về KHCN, hiện đại hóa, thị trường hóa nền sản xuất xã
hội mà còn là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích ứng
với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quan điểm của Đảng thì KHCN là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ
trương, chính sách phát triển đất nước, kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều
phải dựa vào KHCN và thực hiện bằng KHCN. Chỉ có phát triển KHCN, chúng ta mới
phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Để KHCN nhanh chóng phát huy được vai trò là nền tảng và động
lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng, Nhà nước luôn có những chính sách quan
tâm đặc biệt đến phát triển KHCN.
4
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
KHCN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp,
là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. Hoạt
động KHCN không chỉ là nhiệm vụ của các nhà KHCN, các nhà quản lý khoa học mà
là công việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi người... Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều
đòi hỏi phải có nội dung KHCN để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Mọi
hành động phải xác định cơ sở khoa học của nó, phải điều tra, nghiên cứu, tìm ra quy
luật, dự báo sự phát triển, đề xuất các giải pháp phù hợp với quy luật khách quan.
Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng phải có luận cứ xác đáng về KHCN. Các nhiệm vụ KHCN phải hướng vào giải
quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh
việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu KHCN vào hoạt động kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển, hoạch định
chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện.
Đặc biệt, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, cần phải làm
thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm, nhanh chóng ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo ra
các ngành nghề mới, các sản phẩm mới, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và kinh tế nông thôn.
Phát triển KHCN không phải chỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn
nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường ngay trong từng bước đi và từng chính sách
phát triển.
Hiện nay, cuộc cách mạng KHCN đang tác động mạnh mẽ trên phạm vi toàn
thế giới, xu hướng chuyển giao công nghệ trở thành đòi hỏi cấp bách với tất cả các
nước. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hóa của các nước NIC đã chỉ ra
rằng: “Việc xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài nhằm tiếp cận
một cách có chọn lọc những thành tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy
mạnh cuộc cách mạng KHCN hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả
nhất quyết định sự thành công của quá trình CNH-HĐH”.
5
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
2. Cách mạng khoa học công nghệ
2.1.1 Nguyên nhân của cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ
2.1.1.Tác dụng và ảnh hưởng của chiến tranh thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai là một tai hoạ to lớn chưa từng có trong lịch sử loài
người, nhưng lại có tác dụng thúc đẩy nhất định đối với sự phát triển của KHKT (khoa
học kĩ thuật). Để dành thắng lợi trong chiến tranh các nước đế quốc đã dốc sức và
nghiên cứu KHKT quân sự. Các bên tham chiến cạnh tranh kịch liệt trong việc phát
minh và sử dụng các vũ khí và trang bị mới như: Ra đa, tên lửa, máy bay phản lực,
bom nguyên tử... Trong chiến tranh Đức là nước đầu tiên dùng tên lửa mang đầu đạn
có điều khiển, còn Mỹ là nước đầu tiên sử dụng bom nguyên tử. Việc phát minh và sử
dụng vũ khí, trang thiết bị mới không quyết định thắng bại cuối cùng, song quả thực
nó ảnh hưởng quan trọng đối với cuộc chiến. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, rất nhiều
bộ môn KHKT quân sự được ứng dụng vào ngành công nghiệp dân dụng, điều đó
không những mở ra rất nhiều ngành công nghiệp mới, mà còn nâng cao nhanh chóng
năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế quốcdân. Chỉ riêng điểm này có thể thấy
rằng những thành tựu KHKT giành được sau chiến tranh, là do loài người đã phải trả
cái giá rất đắt mới có được.
2.1.1.2.Sự thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang giữa các siêu cường quốc
Sau chiến tranh, do thế giới hình thành cơ cấu hai cực Mỹ và Liên Xô, sự đối
lập và đối kháng Đông - Tây rất nghiêm trọng, khiến các quốc gia này chiến tranh ác
liệt trong cuộc chạy đua vò trang. Chi phí cho chạy đua vũ trang hàng năm của họ
chiếm khoảng trên dưới 10% giá trị tổng sản phẩm quốc dân, thậm chí còn hơn nữa
trong lịch sử loài người, chưa bao giờ có cuộc chạy đua vũ trang ác liệt như vậy trong
thời bình. Chỉ riêng nước Mỹ, để chiếm ưu thế trong chạy đua vò trang, đã đề ra kế
hoạch " Chiến tranh giữa các vì sao" nếu thực hiện tất cả họ sẽ phải chi khoảng 1000
tỷ đô la. Với sự thúc đẩy của hai siêu cường Mỹ và Liên Xô (Cũ), một số nước phát
triển khác cũng đổ một lượng lớn tiền của và sức người vào sản xuất vũ khí và nghiên
cứu KHKT quân sự. Theo tính toán, trong thập kỷ 80, chi phí cho nghiên cứu KHKT
quân sự mỗi năm trên thế giới tăng lên tới 50 - 70 tỷ đô la, chiếm khoảng 1/3 - 1/2 toàn
6
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
bộ chi phí nghiên cứu KHKT thế giới. Một lượng lớn tiền của đổ ra, đã thúc đẩy sự
phát triển của KHKT quân sự, các loại vũ khí và trang thiết bị quân sự liên tiếp ra đời,
không ngừng đổi mới các thế hệ. Điều đó cũng giống như thời kỳ chiến tranh nó làm
cho KHKT quân sự trở thành một ngành đi đầu trong việc phát triển toàn diện KHCN,
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển nhanh chóng trong thời kỳ nhất định.
2.1.1.3.Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước tạo ra những điều kiện tương đối có
lợi.
Ngày nay việc nghiên cứu KHCN đã ngày càng xã hội hoá. Rất nhiều công
trình nghiên cứu đòi hỏi ngày càng nhiều sức người sức của và gánh chịu những rủi ro
ngày càng lớn. Nhiều công trình nghiên cứu KHKT vượt quá khả năng của các nhà tư
bản cá biệt, thậm chí các tập đoàn tư bản độc quyền. Mối liên quan giữa các ngành
KHCN cũng ngày càng rộng rãi và chặt chẽ. Một phát triển mới của ngành KHCN đòi
hỏi sự phát triển tương ứng của rất nhiều ngành có liên quan. Ví dụ: Việc nghiên cứu
và ứng dụng năng lượng nguyên tử, việc tìm tòi nghiên cứu hàng không và vũ trụ...
đều không thể tách rời việc khai thác sử dụng vật liệu mới, không thể tách rời sự phát
triển cao độ của kỹ thuật điện tử và tự động hóa... Điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác
và phối hợp mạnh mẽ. Trong tình hình đó sự phát triển cao độ của chủ nghĩa tư bản
độc quyền Nhà nước, ở mức độ rất lớn đãđáp ứng được những đòi hỏi về mặt này của
sự phát triển KHCN hiện đại. Chỉ nói riêng về chi phí cho nghiên cứu mỗi năm chính
phủ các nước tư bản bỏ ra xấp xỉ một nửa số kinh phí của toàn bộ việc nghiên cứu của
các nước này. Hơn nữa, số kinh phí đó phần lớn tập trung vào các đề tài nghiên cứu
khoa học tương đối lớn và cơ bản, nên tác dụng thúc đẩy KHCN của nó càng mạnh
mẽ.
Ngoài phương diện kinh phí nghiên cứu KHKT, chính phủ các nước tư bản
ngày nay còn có tác dụng rất to lớn trong việc bồi dưỡng nhân tài để phát triển nghiên
cứu khoa học. Một vấn đề then chốt của tiến bộ KHCN hiện nay là phải có một loại
nhân tài KHKT phù hợp và có chất lượng cao, ngay cả những cá nhân bình thường
cũng cần nâng cao trình độ KHKT mới có thể đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế
hiện đại.
7
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
Tác dụng thúc đẩy tiến bộ KHCN của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
còn thể hiện ở chỗ nó làm cho sự hợp tác quốc tế về KHKT ngày càng mở rộng.
2.1.1.4.Cạnh tranh độc quyền ác liệt vẫn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến bộ
KHKT
Bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, độc quyền càng
không thể tiêu diệt được cạnh tranh, quy mô của cạnh tranh mở rộng, mức độ cạnh
tranh ác liệt. Cạnh tranh càng ác liệt, càng buộc các nhà tư bản độc quyền không
ngừng nghiên cứu kỹ thuật công nghệ mới, sử dụng công nghệ mới để làm ra các sản
phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh. Do đó, cạnh tranh
vẫn như trước đây, là một sức mạnh bên ngoài thúc đẩy tiến bộ KHCN( khoa học công
nghiệp).
Các xí nghiệp tư bản độc quyền ở các nước tư bản ngày nay không tiếc của, bỏ
ra những lượng tiền khổng lồ để xây dựng bộ máy nghiên cứu khoa học riêng, hoặc uỷ
thác cho các cơ quan học thuật nghiên cứu kỹ KHKT, rõ ràng không phải là xếp vào
ngăn kéo. các xí nghiệp Mỹ bỏ ra những khoản kinh phí cho nghiên cứu khoa học
trong những năm 80 lớn gấp 22 lần so với những năm 50, còn các xí nghiệp ở Cộng
hoà Liên bang Đức, kinh phí đó trong cùng một thời gian này tăng lên tới 83 lần, điều
đó nói lên một cách đầy đủ rằng, cuộc cạnh tranh giữa các xí nghiệp độc quyền đã
ngày càng cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực KHCN.
2.2.2 Nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
Cuộc cách mạng KHCN phát triển sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động
vào mọi ngành kinh tế quốc dân, mọi lĩnh vực XH của các nước tư bản phát triển, hiện
nay vẫn đang tiếp tục phát triển, ảnh hưởng của nó đối với nền chính trị xã hội và kinh
tế từ nay về sau sẽ càng to lớn. Sau đây là những lĩnh vực khoa học, công nghệ mới đã
và đang có triển vọng nhất hiện nay.
2.2.1. Kỹ thuật điện tử:
Đây là ngành hạt nhân có tính quyết định của cuộc cách mạng KHCN, là ngành
phát triển nhanh nhất, ứng dụng rộng rãi nhất trong số các ngành KHCN mới nổi lên.
Hiện nay bất kể những sáng tạo KHCN mới hay cải tạo kỹ thuật trong các ngành kinh
8
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
tế truyền thống đều không thể tác rời kỹ thuật điện tử. Ở các nước tư bản phát triển,
ngành này đã trở thành một ngành mới, độc lập giá trị sản lượng của nó không ngừng
tăng lên.
Thành tựu nổi bật nhất của kỹ thuật điện tử biểu hiện ở việc phát minh và áp
dụng máy vi tính điện tử. Máy vi tính điện tử là một trong những phát minh KHCN vĩ
đại nhất của thế kỷ này. Máy tính điện tử từ khi ra đời vào giữa thập kỷ 40 đến nay, nó
đã trải qua 4 thế hệ là: Bóng điện tử, bóng bán dẫn, mạch vi điện tử, mạch vi điện tử
quy mô lớn. Ở một số nước đã bắt đầu nghiên cứu, chế tạo máy tính sinh học. Nó có
ưu điểm lớn nhất là tốc độ tính toán cực nhanh.
Ngoài máy tính sinh học ra, các loại máy tính mô phỏng óc người, máy tính quang học
cũng đang trong quá trình nghiên cứu chế tạo. Sự phát triển của máy tính điện tử tuy
trải qua chừng nửa thế kỷ nhưng triển vọng của nó vẫn vô cùng rộng lớn đang làm
phấn chấn lòng người.
2.2.2. Công nghệ thông tin
Nếu nói kỹ thuật điện tử là cơ sở của kỹ thuật thông tin, thì kỹ thuật thông tin là
bộ phận mấu chốt của công nghệ tin học ngày nay. Thông tin là hệ thống thần kinh của
XH hiện đại, không có sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ không thể có sự truyền
bá và sử dụng hàng ngàn hàng vạn thông tin trong XH hiện đại.
Sự phát triển của công nghệ thông tin được đo bằng chỉ tiêu: Tỷ số giá cả/ Hiệu suất.
Ở các OECD, người ta ước tính đã thu được 20% lợi nhuận từ công nghệ thông tin.
Trong 10 năm tới, giá cả của công nghệ thông tin sẽ giảm nhanh và hiệu quả của thông
tin sẽ càng lớn hơn. Tại Mỹ, nước chiếm 20% thị trường sản phẩm công nghệ thông
tin thế giới đang bùng nổ cuộc cách mạng thông tin. Một số công ty lớn đang thử
nghiệm việc xây dựng "Hệ thống thông tin cao cấp". Đây là hệ thống liên kết giữa máy
điện thoại + Máy thu hình + Máy vi tính cho phép truyền thông 2 chiều và đa chiều,
làm cho việc truyền tin và lưu tin được nhanh chóng, tự do hơn. Cuộc cách mạng về
thông tin đang làm cho nhiều ngành công nghiệp phát triển vượt bậc, trong đó đặc biệt
là ngành vật liệu mới.
2.2.3. Công nghệ vật liệu mới.
9
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
Công nghệ vật liệu mới là công nghệ thông qua phương pháp khoa học để chế
tạo ra các vật liệu thay thế cho vật liệu thiên nhiên. Sự xuất hiện của các lọai vật liệu
mới không những giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào tài nguyên thiên nhiên, mà
còn làm cho sự nghiên cứu chế tạo và phát triển các loại sản phẩm có trình độ KHKT
cao trở thành hiện thực. Trong các loại kỹ thuật vật liệu mới, hiện nay những thứ phát
triển nhanh nhất và có triển vọng nhất là vật liệu cho thông tin, vật liệu tổng hợp và
nguyên liệu năng lượng mới... Trong những kỹ thuật vật liệu mới, đáng chú ý nhất là
vật liệu năng lượng mới là cơ sở quan trọng để phát triển kỹ thuật năng lượng mới.
Trong thời gian tới, nhu cầu của vật liệu mới sẽ tăng nhanh hơn nhiều so với các vật
liệu truyền thống. Trong thời kỳ 1986 - 2000 các vật liệu siêu dẫn sẽ tăng 32%, Gali
tăng 10,1% gồm cấu trúc định sẵn tăng 30% trong khi bạc chỉ tẳng 0,8%, thiếc 1,2%.
nhu cầu vật liệu mới của Mỹ sẽ tăng từ 243 tỷ đô la (1970) lên 379 tỷ đô la (2000).
Nhật Bản do phụ thuộc nặng vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài, từ lâu đã tích cực
phát triển công nghệ vật liệu mới. Thị trường vật liệu của Nhật Bản dự tính tăng từ 2,2
tỷ đô la (1981) lên 24 tỷ đô la (2000).
2.2.4. Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là một bộ môn khoa học mới nổi lên từ những năm 50 của
thế kỷ này. Nó là sản phẩm kết hợp của khoa học về sự sống và KHKT hiện đại. Công
nghệ sinh học đang được nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ yếu là gen, dung học tế
bào, môi tế bào, phản ứng sinh vật và công nghệ gây men... Công nghệ sinh học tuy
hiện nay mới ở giai đoạn đầu nhưng nó đã có những bước tiến, bắt đầu có tác dụng và
ảnh hưởng đến đời sống KT - XH.
2.2.5. Công nghệ hải dương
Biển chiếm 71% diện tích trái đất nhưng việc lợi dụng biển của loài người còn
hết sức nhỏ bé. Cùng với sự tiến bộ của KHCN, con người đã dần dần coi trọng việc
khai thác và sử dụng biển. Xem xét tình hình hiện nay thì thấy rằng công nghệ hải
dương đã bao gồm rất nhiều lĩnh vực chuyên môn như: Năng lượng biển, nuôi trồng
hải sản, khai thác khoáng sản biển, làm nhạt nước biển, hoá chất biển... Trong đó
ngành khai thác khoáng sản biển có triển vọng lớn rất hấp dẫn.
2.2.6. Công nghệ vũ trụ.
10
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
Công nghệ vũ trụ bao gồm việc nghiên cứu và chế tạo các thiết bị máy móc cho
việc bay vào vũ trụ như: Vệ tinh nhân tạo, phi thuyền chở người, phóng tên lửa... Cũng
bao gồm việc sử dụng các lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào vũ trụ
như: Khí tượng, tài nguyên, khoa học đời sống... Về mặt thông tin truyền dẫn, việc sử
dụng kỹ thuật không gian càng tương đối rộng rãi. Do khoảng không vũ trụ có những
điều kiện hết sức đặc biệt như: Độ chân không rất cao; trọng lực cực nhỏ, vô trùng...
nên có thể chế tạo ở đó những sản phẩm mà trên trái đất không thể chế tạo được: Sản
phẩm có độ sạch cao, vật liệu siêu dẫn, tinh thể thuần khiết...
2.2.3 Đặc điểm của cách mạng khoa học- công nghệ
- Một là: khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa
học tự nhiên - kỹ thuật lẫn khoa học xã hội, nhất là khoa học kinh tế) do con người tạo
ra và thông qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách
đầu tư cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương ứng trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH-HĐH).
-Hai là: thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát
minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học
vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ
giữa chiến lược KH-CN với chiến lược CNH-HĐH nói riêng, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng KH-CN ở nước ta hiện nay có thể khái quát
gồm hai nội dung chủ yếu:
• Xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa
vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.
• Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu
mới của KH-CN hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước
đi, quy mô thích hợp.
Trong quá trình thực hiện cách mạng KH-CN, điểm nổi bật được chú trọng là
ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, phục vụ CNH-HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức; sử
11
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh,
giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công
nghệ hiện đại; tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH-CNå;
kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết
kiệm, hiệu quả; kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô
vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội
2.2.4 Ảnh hưởng của cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ
Ảnh hưởng của cuộc cách mạng KHCN mới đối với CNTB hiện đại là hết sức
to lớn, vượt xa ảnh hưởng của các cuộc cách mạng KHKT trước đây đối với đời sống
chính trị, kinh tế của XH đương thời.
2.2.4.1 Cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ liên quan đến hầu như toàn bộ các
lĩnh vực KHKT với mức độ rộng lớn chưa từng có.
Hai cuộc cách mạng KHKT trước nổ ra chủ yếu trong ngành động lực và ngành
chế tạo, còn cuộc cách mạng KHCN lần này thì xâm nhập vào mọi mặt đời sống của
loài người như: Nông nghiệp, công nghiệp, năng lựơng, giao thông, dịch vụ, thậm trí
môi trường sinh thái... Vì vậy, mà ảnh hưởng của nó đối với chính trị - KT - XH là
toàn diện và sâu sắc. Nếu nói tiến bộ KHKT trước đây chủ yếu nhằm vào đòi hỏi phát
triển sức sản xuất, thì một đặc điểm quan trọng của cách mạng KHKT lần này là đồng
thời với việc thúc đẩy sự phát triển sức sản xuất, nó chủ yếu còn nhằm vào duy trì và
cải thiện điều kiện và môi trường sống của con người.
2.2.4.2. Cuộc cách mạng KHCN rút ngắn nhanh chóng quá trình biến KHCN
thành lực lượng sản xuất
Làm cho khoa học và công nghệ phục vụ sự phát triển KT - XH càng nhanh
hơn, tốt hơn. Lấy việc phát minh và ứng dụng máy hơi nước làm ví dụ: Năm 1705,
người ta đã phát minh ra máy hơi nước cớ lớn, năm 1925 Stivenson mới phát minh ra
xe lửa chạy bằng máy hơi nước. Từ khi phát minh ra máy hơi nước đến khi nó được
ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vận tải, phải tới hơn 100 năm. Việc phát minh ra
động cơ đốt trong, quá trình rút ngắn còn lại 80 năm. Còn việc tìm ra và ứng dụng
năng lượng nguyên tử chỉ cần đến 40 năm. Lại lấy ví dụ như máy điện thoại từ khi
phát minh ra đến khi sử dụng rộng rãi phải mất 60 năm, còn vô tuyến truyền hình
12
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
phức tạp hơn rất nhiều, nhưng quá trình đó chỉ có 14 năm. Máy tính điện tử chỉ trong
vòng thời gian ngắn (14 năm) đã trải qua 4 thế hệ. Có thể thấy rõ là, từ KHKT chuyển
thành sức sản xuất, đúng như một số nhà khoa học đã kết luận, có xu hướng phát triển
"Tăng tốc".
2.2.4.3. Cách mạng KHCN trở thành nguyên tố trực tiếp quyết định sự phát triển
của lực lượng sản xuất XH của các nước tư bản sau chiến tranh. Nó được uỷ
nhiệm chủ yếu trên các mặt sau đây:
Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở KHKT công nghệ hiện đại ra đời và
phát triển rất nhanh, trở thành những ngành tiên phong, chủ đạo của sự phát triển KT XH.
Nhờ KHCN hiện đại, các ngành công nghiệp truyền thống phần lớn là các
ngành công nghiệp cơ sở, không thể thiếu đối với tái sản xuất XH, đã được cải tạo
không ngừng, năng suất lao động tăng liên tục.
Cơ cấu ngành thay đổi, chuyển dịch nâng cấp lên trình độ mới phù hợp với nền
sản xuất hiện đại, kỹ thuật cao, hàm lượng trí tuệ lớn.
Phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Chuyên môn hoá chi tiết
trong từng ngành, phân công chuyên môn hoá chi tiết giữa các ngành, phân công liên
kết chuyên môn hoá giữa các nước, trong một số ngành đã xuất hiện dây chuyền sản
xuất quốc tế.
Tái sản xuất mở rộng ngày càng phát triển theo chiều sâu lấy đầu tư KHKT làm
chính để nâng cao chất lượng lao động, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế
và chất lượng sản phẩm. Điều này đã dẫn đến một thực tế mà nhà kinh tế Mỹ Simon
Kuznetz trong cuốn "Tăng trưởng kinh tế và kết cấu việc làm" của mình đã rút ra kết
luận: Tốc độ tăng trưởng cao của các nước ngày nay không phải do lao động đầu vào
cùng như tăng tư bản đầu vào quyết định, mà là do năng suất lao động tăng với nhịp
độ cao quyết định.
2.2.4.4 Cuộc cách mạng KHCN thúc đẩy sự xuất hiện hàng loạt ngành nghề mới và
làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo
"Thay da đổi thịt", làm cho cơ cầu ngành nghề ở các nước tư bản phát triển nhờ
đó mà có sự thay đổi lớn. Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng nhanh sau chiến tranh,
13
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
công nghiệp hoá dầu là tổ hợp ngành nghề mới, có tác dụng rất quan trọng. Ngày nay,
những ngành nghề mới xuất hiện nhờ có sự phát triển sâu sắc của cách mạng KHCN
đã không chỉ có một, hai ngành, mà là xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới
như: Công nghiệp điện tử, công nghiệp khoa học, công nghiệp nguyên tử, công nghiệp
sinh vật, công nghiệp tàu vũ trụ... phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự xuất hiện hàng loạt
ngành nghề mới, các ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà đựơc cải tạo một cách triệt
để. Việc sử dụng rộng rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi nước, sự phát triển rộng
rãi của lò luyện thép điện và đúc gang liên hoàn, sự tăng vọt của hệ thống máy công cụ
điều khiển... Tất cả những cái đó khiến cho các ngành công nghiệp cũ như dệt và xe
lửa, gang thép... đều đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cuộc cách mạng KHCN
mới và các ngành nghề cũ ngày càng kết hợp chặt chẽ với nhau. Các ngành mới lấy
công nghiệp truyền thống làm chỗ dựa và thị trường chủ yếu cho sự phát triển của
mình, các ngành cũ thì dựa vào các ngành cải tạo kỹ thuật mà tăng thêm sức sống mới.
Sự kết hợp chặt chẽ 2 mặt này sẽ là xu thế quan trọng của sự phát triển KHKT từ nay
về sau.
3. Quá trình đổi mới chính sách KHCN ở nước ta:
Quá trình đổi mới chính sách KHCN ở nước ta thực chất là quá trình phát triển
tư duy lý luận khoa học bằng những bổ sung thực tiễn vận động KT - XH. Một quá
trình hoàn thiện lý luận hướng tới chân lý khách quan: KHCN là động lực phát triển
KT - XH đất nước.
3.1. Các giai đoạn cải cách chính sách KHCN trong tiến trình cải cách KT XH.
Căn cứ bản chất nội dung từng chặng đường phát triển của chính sách KHCN
trong tương lai, chúng ta có thể phân chia quá trình cải cách trong chính sách KH và
CN ở nước ta theo 3 giai đoạn với những nội dung khá đặc trưng.
Giai đoạn I (1975 - 1980): Cải cách trong khuôn khổ Nhà nước tổ chức mọi
hoạt động KH và CN với một hệ thống chỉ huy tập trung.
Nội dung cải cách trong giai đoạn này ở nước ta cũng như hàng loạt nước XHCN là
nhằm vào việc hoàn thiện hệ thống kế hoạch hoá, hình thành phương thức kế hoạch
14
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
hoá theo chương trình các mục tiêu sao cho Nhà nước có khả năng tập trung các nguồn
lực thực hiện được các mục tiêu KH đã đề ra.
Tuy nhiên, các biện pháp cải cách trong giai đoạn này không đạt được những kết quả
mong muốn do gặp phải những hạn chế không trực tiếp bắt nguồn từ bản thân các biện
pháp, chính sách KH và CN.
Giai đoạn II (1981 - 1986): Phi tập trung hoá hệ thống chỉ huy nhưng vẫn
trong khuôn khổ Nhà nước tổ chức các hoạt động KH và CN.
Quyết định này đã tạo điều kiện cho cơ quan KH và CN được mở rộng quan hệ hợp
tác với nhau và với sản xuất thông qua các hợp đồng nghiên cứu, triển khai, dịch vụ
KH và KT, dẫn đến việc đa dạng hoá các hoạt động của cơ quan KH và CN; Và do
vậy, đa dạng hoá các nguồn kinh phí đi vào các cơ quan này, cũng từ đây làm xuất
hiện nhu cầu tự chủ tài chính đối với các cơ quan KH và CN.
Giai đoạn III (1987 - nay): Thừa nhận các sáng kiến cá nhân và sự tồn tại
những tổ chức và hoạt động KH và CN trong các thành phần kinh tế và các tổ chức
XH không thuộc Nhà nước.
Nghị định 35 - HĐBT ban hành năm 1992 đã ghi một mốc hết sức quan trọng trong
tiến trình đổi mới quản lý KH và CN. Ngay trong điều 1 của Nghị định đã thể hiện rõ
quan điểm phát huy sáng tạo của mỗi con người và các tổ chức XH trong hoạt động
KH và CN.
3.2. Nội dung của cải cách trong KH và CN ở Việt Nam.
Công cuộc cải cách KT - XH đang làm này sinh hàng loạt vấn đề cải cách trong
thể chế và chính sách KH và CN. Các vấn đề đó được bao hàm trong 3 nội dung cơ
bản là cơ cấu lại mạng lưới nghiên cứu và triển khai; cải cách chính sách, thể chế và
quản lý nhà nước về KH và CN.
3.2.1.Cơ cấu lại mạng lưới nghiên cứu và triển khai.
Mạng lưới nghiên cứu và triển khai được tổ chức như một sản phẩm của nền
kinh tế chỉ huy trước đây rõ ràng không đủ điều kiện đáp ứng những đòi hỏi của việc
tạo ưu thế cạnh tranh và phát triển XH trong 1 nền kinh tế thị trường vì nhiều lý do
khác nhau.
15
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
Mạng lưới nghiên cứu và triển khai được tổ chức theo đòi hỏi của nền KT chỉ
huy trước đây đang tự nó chuyển đổi thích ứng với tiến trình cải cách, cần phân tích
tiến trình này để đề ra những giải pháp thích hợp.
Thực trạng mạng lưới nghiên cứu và triển khai đã được phân tích trong các báo
cáo của Viện nghiên cứu quản lý KH. Những nghiên cứu gần đây cho thấy hiện nay
cần được tập trung thảo luận để tìm ra giải pháp về các vấn đề sau.
3.2.1.1.Tổ chức nghiên cứu KH trong trường đại học.
Theo mô hình tổ chức KH cũ trước đây, trong hệ thống trường đại học không
có các đơn vị nghiên cứu KH. Chế độ hợp đồng nghiên cứu KH được thiết lập năm
1981 làm nảy sinh nhu cầu khách quan về thành lập các đơn vị nghiên cứu KH có tư
cách pháp nhân độc lập.
3.2.1.2.Tổ chức nghiên cứu công nghệ
Các tổ chức nghiên cứu công nghệ vốn là những viện trực thuộc các bộ "Sản
xuất - Kinh doanh" hoạt động dưới sự "Chỉ huy trực tiếp" của Bộ, tồn tại song song
với các xí nghiệp thuộc Bộ. Các tổ chức này hiện đang đứng trước những thử tách
trước nhu cầu tồn tại và đang trải qua những diễn biến của trình tự sắp xếp mạng lưới
nghiên cứu và triển khai trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý KT ở Việt Nam.
3.2.1.3.Các Viện Quốc gia
Khuynh hướng tổ chức các Viện Quốc gia theo mô hình Viện Hàn lâm Liên Xô
(cũ) đã từng tồn tại trong 1 thời gian dài ở nước ta. Hiện nay khuynh hướng này hầu
như không còn nữa. Nhà nước đã có quyết định thành lập một số Trung tâm KH Quốc
gia để nghiên cứu những vấn đề phục vụ các nhiệm vụ ưu tiên của nhà nước, hoặc
những vấn đề tuy không phục vụ nhiệm vụ ưu tiên của Nhà nước, nhưng được Nhà
nước dành cho sự quan tâm ưu tiên.
3.2.2.Cải cách chính sách và thể chế.
Các vấn đề đang thu hút sự quan tâm đáng kể là:
1. Sửa đổi chế độ tuyển dụng nhân công kỹ thuật.
2. Đổi mới chính sách tiền lương của nhân lực KH và KT.
3. Quản lý Nhà nước về KH.
16
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
3.3.Mặt trái của cách mạng KHCN đối với sự phát triển của CNTB hiện đại
Cách mạng KHCN đã thực sự như một cứu cánh cho CNTB ngày nay, nhưng
mặt khác, nó cũng đặt CNTB trước những vấn đề gay cấn.
3.3.1. Sự tiêu vong của các nghề nghiệp truyền thống và nạn thất nghiệp cơ cấu.
Trong các nước tư bản phát triển, lực lượng lao động trực tiếp sản xuất giảm đi
theo đà áp dụng người máy, Rô bốt và hệ thống máy móc sản xuất và điều khiển sản
xuất tự động hoá. Do đó làm cho những nghề nghiệp truyền thống đòi hỏi nhiều sức
bắp, nhiều hao phí lao động sống ngày càng bị tiêu vong. Lao động trí óc ngày càng
được đề cao và phát triển, do đó làm nạn thất nghiệp cơ cấu tăng lên.
3.3.2.Khoảng cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển
ngày càng lớn hơn.
Ngoài các quốc gia giàu có đang bước vào thời đại "hậu công nghiệp", 3/4 dân
số của thế giới ngày nay đang phải vật lộn với sự nghèo khổ. Đại đa số các nước đang
phát triển có tốc độ phát triển chậm, CN lạc hậu, khả năng tham gia phân công lao
động quốc tế yếu, các lợi thế nhân công, nguyên liệu mất dần... Giữa họ và các nước
giàu có có một khoảng cách CN khá xa. Và nếu không cẩn thận, họ dễ trở thành nơi
chứa các chất "phế thải"do yêu cầu phát triển KHCN ở các nước tư bản phát triển đưa
tới. Mặc dù các nước đã vận dụng những phát minh sáng chê của nước ngoài rồi biến
thành bí quyết công nghệ của riêng mình đã mở ra nhiều khả năng vận dụng cho các
nước đi sau. Song, trong điều kiện của CNTB, số nước vận dụng được cơ may như
trên khó có thể trở thành phổ biến. Khoảng cách giàu - nghèo, tiên tiến và lạc hậu trên
thế giới vẫn là vấn đề nan giải của CNTB ngày nay.
4. KHCN đóng góp quan trọng, thiết thực phục vụ CNH, HĐH đất nước
Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho
việc hoạch định các đường lối, chủ trương của Đảng qua các kỳ Đại hội; làm rõ hơn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; phục vụ đổi mới hệ thống chính trị,
xác định rõ mô hình phát triển kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi sang xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống luật pháp; góp
phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát huy giá trị của nền văn hoá Việt Nam
17
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; duy trì ổn định chính trị xã hội, tạo điều kiện thuận
lợi cho công cuộc phát triển đất nước. Các nghiên cứu về khoa học nhân văn cũng góp
phần quan trọng khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, các hệ giá trị và
bản sắc văn hóa Việt Nam, khẳng định chủ quyền quốc gia và tính toàn vẹn lãnh thổ,
xây dựng và phát huy nhân tố con người trong chiến lược phát triển KT-XH đất nước.
Khoa học tự nhiên, tập trung nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở khoa học và triển
vọng hình thành một số lĩnh vực KH-CN đa ngành mới về vũ trụ, y sinh, tính toán,
môi trường, biển, nano, hạt nhân. Các nghiên cứu định hướng ứng dụng đã tạo ra các
kết quả nổi bật trong lĩnh vực công nghệ nano, tế bào gốc, giải mã bộ gen người; làm
rõ các giá trị tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên, khí hậu, môi trường, đóng góp
thiết thực cho phát triển KT-XH, dự báo và hạn chế hậu quả thiên tai và biến đổi khí
hậu. Bước đầu đã hình thành được một số nhóm nghiên cứu mạnh. Một số lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản đã được quan tâm đầu tư đúng mức. Việt Nam đã có thứ hạng khá
cao trong khu vực về lĩnh vực nghiên cứu toán học, vật lý...
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã có đóng góp tích cực thúc đẩy ứng dụng và
đổi mới công nghệ trong các ngành, lĩnh vực KT-XH, nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh, cải thiện tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế. Trong 5 năm gần đây, số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng 6
lần so với giai đoạn 1996-2000 và gấp 2 lần giai đoạn 2001-2005.
Trong lĩnh vực công nghiệp, việc ứng dụng và đổi mới công nghệ đã góp phần
thúc đẩy sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao liên tục. Có thể kể tới một số kết quả
điển hình: làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo hệ thống thiết bị cơ khí thủy công cho
các nhà máy thủy điện công suất lớn; giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp
với điều kiện Việt Nam ; giàn chống tự hành phù hợp đối với điều kiện địa chất các vỉa
có độ dốc đến 350 tại vùng Quảng Ninh; công nghệ luyện thiếc chất lượng cao; công
nghệ sản xuất thuốc tập hợp tuyển quặng Apatit loại III Lào Cai; nghiên cứu làm rõ
tiềm năng dầu khí và chính xác hoá trữ lượng dầu khí toàn khu vực thềm lục địa và
lãnh thổ Việt Nam; phát triển công nghệ khai thác dầu trong đá móng nứt nẻ…
Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, KH-CN đã đóng góp tới
30% giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông nghiệp, giúp Việt Nam gia tăng giá trị sản
18
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
lượng nông - lâm - thủy sản xuất khẩu lên mức gần 20 tỷ USD/năm. Trong 5 năm gần
đây, các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được hơn 142 giống cây trồng mới có năng
suất, chất lượng cao, trong đó, đã chọn tạo và tuyển chọn được gần 100 giống lúa mới,
đưa năng suất lúa bình quân cả nước đạt trên 52,3 tạ/ha năm 2010, đứng đầu Đông
Nam Á. Hoạt động KH-CN cũng có đóng góp rất có hiệu quả trong phát triển các cây
công nghiệp quan trọng, có giá trị xuất khẩu lớn như cao su, cà phê, điều, hồ tiêu, chè,
góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Trong nuôi trồng thuỷ sản, Việt Nam đã làm chủ được hầu hết công nghệ sản xuất
giống các loài cá nước ngọt và một số loài hải sản giá trị cao (cá tra, cá ba sa, tôm sú),
giúp thủy sản trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn; nhiều giống gia súc, gia cầm mới
có năng suất cao đã được tạo ra.
Trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ thông tin đã góp phần đưa ngành công nghiệp công nghệ thông tin và hạ
tầng viễn thông phát triển vượt bậc. Trong bảng xếp hạng viễn thông châu Á, thị
trường viễn thông Việt Nam đã được xếp thứ 13 cả về quy mô và tốc độ phát triển trên
3 lĩnh vực: cố định, di động và Internet. Công nghiệp công nghệ thông tin có tốc độ
phát triển trung bình 20-25%/năm, đạt tổng doanh thu khoảng 6-7 tỷ USD vào năm
2010. Hiện nay, đã có những giải pháp an toàn, an ninh mạng hiệu quả được cộng
đồng quốc tế công nhận.
Trong lĩnh vực giao thông, xây dựng, đã làm chủ các công nghệ tiên tiến trong
thiết kế, giám sát, thi công, xây lắp các công trình giao thông, xây dựng có quy mô và
trình độ công nghệ ngang tầm với các nước trong khu vực; công nghệ thiết kế, chế tạo
các loại vật liệu xây dựng mới, thiết bị; tiếp cận và làm chủ các công nghệ đúc hẫng
cân bằng thi công cầu bê tông dự ứng lực khẩu độ lớn, công nghệ thi công cầu treo và
cầu dây văng nhịp lớn, công nghệ xây dựng dạng kết cấu vòm thép nhồi bê tông, công
nghệ xây hầm đường bộ, công nghệ cọc đất gia cố xi măng trong xây dựng cảng biển,
sân bay; làm chủ công nghệ đóng tàu biển từ 6.500 đến 53.000 tấn, tàu chở dầu thô
115.000 tấn, kho nổi chứa dầu thô 150.000 tấn.
Trong lĩnh vực y - dược, các thành công trong lĩnh vực ghép tạng là bước tiến
lớn trong ngành y tế Việt Nam có sự đóng góp quan trọng của KH-CN. Trong nghiên
19
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
cứu tế bào gốc, đã làm chủ được quy trình phân lập, bảo quản tế bào gốc từ tuỷ xương,
máu ngoại vi, vùng rìa giác mạc và bước đầu ứng dụng thành công trong điều trị các
bệnh xương, khớp, ung thư, nhồi máu cơ tim, nhãn cầu, bỏng. Nhiều kỹ thuật tiên tiến
trong chẩn đoán và điều trị được ứng dụng thành công như siêu âm, phẫu thuật nội soi,
giải trình tự gen, siêu âm mạch, kỹ thuật nuôi cấy tinh tử... Y học cổ truyền cũng đã có
bước phát triển quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ cao để sản xuất nhiều loại
thuốc quý có nguồn gốc từ thảo dược trong nước phục vụ khám, chữa bệnh cho nhân
dân.
Ngành dược đã nghiên cứu và sản xuất thành công 10 loại vắc xin (trong đó có
vắc xin phòng bệnh tiêu chảy, viêm gan B và A, viêm não Nhật Bản, phòng bệnh tả)
phục vụ tốt Chương trình tiêm chủng mở rộng và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước
hàng trăm tỷ đồng; bước đầu tiếp cận với các công nghệ bào chế hiện đại (công nghệ
đông khô, sấy phun sương, sản xuất thuốc tác dụng kéo dài), góp phần nâng cao chất
lượng thuốc sản xuất trong nước.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, KH-CN đã góp phần xây dựng và hoàn
thiện chiến lược quốc phòng, an ninh của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân; nâng cao năng lực bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến và
từng bước làm chủ công nghệ chế tạo một số vũ khí, khí tài thiết yếu phục vụ hiện đại
hóa quân đội, đáp ứng yêu cầu quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.
20
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, KHCN có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nhân loại
nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt Nam xuất phát điểm là một nước nghèo và
kém phát triển, việc xây dựng và phát triển tri thức KH-CN là phù hợp với bối cảnh
nước ta đang thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các quan
điểm về kinh tế tri thức nêu trên chính là cơ sở để định hướng ,để có những giải pháp
cụ thể cho xây dựng và phát triển kinh tế tri thức. đồng thời các quan điểm đó hướng
tới mục tiêu góp phần giải quyết các thách thức lớn trong quá trình phát triển kinh tếxã hội của đất nước như phải phát triển nhanh và bền vững, xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và tiến bộ, quản lý có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế mở vả nhanh
chóng rút ngắn khoảng cách phát triển so với khu vực và thế giới…
KHCN càng thể hiện rõ vai trò của nó đối với Việt Nam như: Cấu trúc lại nền
kinh tế, thay đổi và chuyển hướng các cơ sở hạ tầng của sản xuất, tăng cường các xu
thế toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng của đất nước. Việt Nam chúng ta
còn nghèo KHKT còn lạc hậu, thô sơ nên cần áp dụng các thành tựu KHCN mà nhân
loại tạo ra. Ngoài ra, chúng ta còn phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, tìm tòi... để
cho ra những phát minh khoa học của riêng mình.
Nhà nước ta cần có những chính sách ưu tiên, khuyến khích để phát triển KHCN: Đào
tạo những cán bộ có chuyên môn cao về KHKT, ưu đãi những nhà khoa học có tài tạo
điều kiện cho họ có khả năng phát triển hết khả năng của mình, nâng cao cơ sở vật
chất cho nghiên cứu khoa học, tăng cường hợp tác với các Viện nghiên cứu trên thế
giới.
Với thế hệ sinh viên trẻ - Lực lượng nòng cốt của sự nghiệp CNH - HĐH ngày
nay, mỗi chúng ta cần phải tự mình trau dồi thêm kiến thức về KHCN nói riêng và về
mọi mặt nói chung không chỉ trong trường học mà còn cả trong thực tiễn cuộc sống để
có thể đưa nước ta vững bước đi lên con đường XHCN
Do đó, có thể nói, Khoa học và công nghệ chính là nền tảng, là động lực của
quá trình Công nghiệp hóa-hiện đại hóa của một nước, đặc biệt là ở nước ta.
21
Đường lối cách mạng của ĐCSVN
Nguyễn Đình Cả
Tài liệu tham khảo
Khoa học công nghệ là nền tảng của Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Link: />Đẩy mạnh phát triển Khoa học và Công nghệ ,nhằm mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
Link: />http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?
topic=168&subtopic=306&leader_topic=&id=BT851237126
/> />
22