TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN LẦN THỨ XIII
(Năm học 2007 – 2008)
TÓM TẮT
CÁC BÁO CÁO ĐẠT GIẢI NHẤT
HÀ NỘI, NGÀY 15 THÁNG 5 NĂM 2008
1
BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT HIỆN TƯỢNG NÓI TỨC ĐÔNG LOAN
(LÀNG ĐÔNG THƯỢNG, XÃ LÃNG SƠN, HUYỆN YÊN DŨNG,
TỈNH BẮC GIANG)
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thanh Chi, Nguyễn Hải Định,
Nguyễn Ngọc Mai, Mai Huyền Trang
K50 Ngôn ngữ học
TS. Hoàng Cao Cương
Đông Loan là tên gọi cổ của một làng thuộc xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Đông Loan xưa nhất xã ngũ thôn: Đa Mỹ, Đại Khánh, Ngọc Hà, Phú Thịnh, Thượng Đình thuộc xã
Lãng Sơn; là nơi tứ chiếng quần cư, đa ngành đa nghề; hiện còn lưu giữ và phát huy những nét văn
hóa tốt đẹp của một vùng quê yêu nước, hiếu học.
* Đôi nét về hiện tượng Nói tức ở Đông Loan
- Nói tức là gì?
Nói tức là dùng lời nói để chọc cho người ta tức. Chúng thường xuất hiện khi con người chịu
sự tác động của nhiều yếu tố, trong số đó phải kể đến hoạt động giao tiếp, hay nói một cách cụ thể
là: lời nói. Khi giao tiếp, con người luôn cố gắng vận dụng mọi yếu tố của ngôn ngữ nhằm đạt được
mục đích giao tiếp của mình. Và với Nói tức thì mục đích của người phát ngôn là dùng lời nói để
chọc cho người nghe "tức".
Xét về mặt từ nguyên, có hai khả năng về nguồn gốc nói tức : một là do người bị nói thấy
tức mà đặt tên, hai là chính bản thân những người nói tức định danh cho sự việc. Riêng đối với tên
gọi “nói tức Đông Loan” có thể thấy ngay cái tên Đông Loan- nơi khơi nguồn, phát sinh “nói tức”
đã được người dân nơi đây dùng làm tên gọi cho hiện tượng ngôn ngữ học lí thú này.
Nói tức là một hình thức giao tiếp đặc sắc được ra đời khá sớm, đã có một quá trình tồn tại
và phát triển lâu dài, cho đến nay nói tức vẫn còn được bảo lưu lại trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
hay trong những giai thoại, hò vè của một số làng quê Bắc Bộ, tiêu biểu là làng Đông Thượng, xã
Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Dù đã bước vào những sáng tác văn học dân gian song
Nói tức Đông Loan trước hết vẫn là một thói quen giao tiếp, chính bởi vậy, trong bản báo cáo này,
dưới góc độ mô tả ngôn ngữ học chúng tôi vẫn tôn trọng và tiến hành tìm hiểu hiện tượng Nói tức
Đông Loan theo hai phương diện: chủ điểm và khung cảnh giao tiếp.
Các chủ điểm trong câu chuyện nói tức của người Đông Loan vô cùng phong phú. Tìm hiểu
về chủ đề của nói tức giúp chúng ta có thể biết được hiện tượng nói tức mà người Đông Loan
thường nói đến cũng như nguyên do vì sao mà người Đông Loan nói tức. Những chủ điểm thường
thấy trong các chuyện nói tức của Đông Loan gồm: đả kích giới quan lại, cán bộ nhà nước; quan hệ
gia đình; quan hệ hàng xóm láng giềng; đồ vật, vật nuôi trong nhà; lao động sản xuất; mua - bán;
phê phán, mỉa mai thói hư tật xấu; lễ hội, ma chay, cưới hỏi.
- Nói tức theo các khung - hoàn cảnh giao tiếp.
+ Nói tức giữa các nhóm người: nhóm giữa những người cùng làng; Nhóm giữa những
người khác làng.
+ Nói tức theo khung cảnh: Nói tức trong khung cảnh riêng tư; Nói tức trong khung cảnh
công cộng như ngoài đồng, ngoài chợ, ngoài đường; nói tức trong khung cảnh hoạt động lao động
sản xuất; nói tức trong khung cảnh cơ quan hành chính; nói tức trong khung cảnh là những nơi tụ
tập, ăn uống, cỗ bàn.
2
Nói tức Đông Loan không chỉ nơi riêng tư mà còn ở những nơi công cộng, nơi cơ quan hành
chính.
* Một số kết luận:
- NTĐL là một hiện tượng ngôn ngữ mang tính tích cực từ các phương diện sau:
+ Bản chất tín hiệu ngôn ngữ
+ Chức năng giao tiếp (trao đổi)
+ Chức năng liên nhân
- Từ lối đối đáp đơn thuần, NTĐL đã trở thành một thói quen giao tiếp trong cộng đồng làng
xã ĐL. Như vậy nó xuất hiện khá sớm và có một quá trình phát triển lâu dài chứ không phải là một
hiện tượng "mới" của ngôn ngữ học.
- Nói tức không chỉ xuất hiện ở một nơi mà nhiều vùng khác cũng xuất hiện nhưng nói tức ở
mỗi vùng có đặc điểm khác biệt riêng.
- Nói tức là hiện tượng mang tính xã hội cao, nó thuộc về cộng đồng và chia theo nhiều
nhóm xã hội.
- Nói tức không phải là một hiện tượng giao tiếp đời thường mà đã đi vào trong văn chương
(vè và giai thoại), dần được định hình và điển hình hóa.
- NTĐL sử dụng nhiều phương tiện ngôn ngữ khác nhau để diễn đạt. Trong đó, đặc biệt là
sử dụng sự phong phú trong vốn từ vựng và các hiện tượng thuộc trường nghĩa (ví dụ: đồng âm,
đồng nghĩa, trái nghĩa…).
Tóm lại, đây là một đề tài có nhiều khía cạnh còn có thể đi sâu. Hy vọng rằng, trong tương
lai, giống như nhiều hiện tượng ngôn ngữ học khác, chúng ta sẽ có thể xây dựng được "Bản đồ Nói
tức Việt Nam".
3
SẢN PHẨM – DỊCH VỤ THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN, MIỀN NÚI
TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Bùi Thị Thanh Diệu
K49 Thông tin Thư viện
PGS. TS. Trần Thị Quý
1. Sản phẩm thông tin KHCN phục vụ NTMN
Qua tìm hiểu ta thấy: Sản phẩm thông tin TKHCN phục vụ phát triển KT-XH ở NTMN có
thể chia làm 2 loại chính như sau:
- Loại phục vụ ngay (trực tiếp)
Bao gồm: Các bản tin trên giấy, các bản tin điện tử (chủ yếu trên mạng VISTA); Tin đài phát
thanh, truyền hình; Tờ rơi, tờ bướm; Tài liệu phổ biến kĩ thuật… và điển hình nhất là các Bản tin
điện tử hàng tuần (bản tin “Nông thôn đổi mới” và “Kinh tế - Khoa học – Công nghệ - Môi
trường”), các bản tin này được đưa trên mạng VISTA và đồng thời được in ra để gửi thường kì,
ngay sau khi có bản tin.
- Loại tiềm tàng
Gồm CSDL toàn văn (về cây, con, giống, mô hình làm ăn kinh tế…); CSDL chuyên gia và
CSDL phim Khoa học; thông tin đa phương tiện (những loại này thường được bao gói trên CDROM, trên mạng và một phần trong máy Local). Đó cũng là nền tảng để hình thành việc tạo lập thư
viện điện tử phục vụ NTMN của Trung tâm. Đặc biệt chú ý tới các sản phẩm sau:
+ Thư viện điện tử Công nghệ nông thôn
Thư viện điện tử Công nghệ nông thôn là kho tra cứu tin điện tử, gồm có bộ máy tra cứu và
kho tài liệu gốc dưới các dạng tài liệu khoa học kĩ thuật, catalo, văn bản pháp luật, âm thanh, hình
ảnh, được số hoá và phân loại theo khung phân loại quốc tế Dewey thuộc các lĩnh vực Nông – Lâm
– Ngư nghiệp; Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, giống cây con, vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc
trừ sâu,… Thư viện điện tử Công nghệ nông thôn với 48.471 tài liệu.
+ Thư viện điện tử Phim khoa học và công nghệ
Thư viện điện tử (TVĐT) Phim Khoa học và Công nghệ là kho tra cứu tin điện tử, gồm có
nộ máy tra cứu và kho tài liệu gốc dưới dạng âm thanh, hình ảnh được số hoá và phân loại theo
khung phân loại Quốc tế Dewey thuộc các lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp; chế biến nông sản,
nuôi trồng thuỷ sản, công nghệ sinh học, công nghệ sạch, bảo vệ môi trường, xử lý phế thải…
TVĐT phim Khoa học và Công nghệ có 277 phim.
+ CSDL chuyên gia, tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ/tiến bộ kỹ thuật với 4.131 hồ sơ.
Ngoài ra còn có rất nhiều các sản phẩm luôn có mặt ở Trung tâm như: Tờ rơi, tời bướm, các
bản tin nhanh, tin điện tử được cập nhật thường xuyên, các đĩa CD-ROM... đây là nguồn nội sinh
tiềm tàng giúp cho TTTTKH&CNQG xây dựng và triển khai tốt hơn các sản phẩm của mình tới các
xã, các huyện vùng sâu, vùng xa của NTMN nước ta.
2. Dịch vụ thông tin KHCN phục vụ NTMN
4
Bên cạnh các loại hình SP thông tin KHCN thì hiện tại Trung tâm đã và đang triển khai các
dịch vụ thông tin khoa học công nghệ phục vụ phát triển KT-XH ở NTMN. Đó chính là:
- Dịch vụ thông tin bằng ấn phẩm
Các ấn phẩm bằng thông tin như: Thông tin khoa học và công nghệ định kì, thông tin
chuyên đề, tờ rơi, tờ bướm, tài liệu tuyên truyền, tài liệu hướng dẫn kĩ thuật, nông lịch... được biên
soạn và gửi đến các địa bàn tham gia dịch vụ. Trong đó có một dạng đặc thù được triển khai rộng
rãi trong những năm gần đây là: Bản tin điện tử, đáng chú ý là Bản tin điện tử “Nông thôn đổi mới”,
phát hành 2 tuần/số, có nội dung đáp ứng yêu cầu tin của địa bàn NTMN.
- Dịch vụ thông tin bằng danh sách gửi tới địa phương, cơ sở
Áp dụng hình thức thông tin truyền thống, TTTTKH&CNQG đã tiến hành xây dựng kho tin
gồm kho tài liệu gốc và Bộ máy tra cứu tin. Các danh sách gửi về có nội dung từ thấp đến cao và
được sắp xếp theo khung phân loại trực tuyến Dewey (DDC)…
- Dịch vụ thông tin bằng cách gửi đĩa CD-ROM, phim khoa học
Là hình thức thông tin đa phương tiện, có ưu điểm là tiết kiệm kinh phí; dễ dàng trong việc
gửi và nhận, dễ nhân rộng. Các thông tin được trình bày có kèm theo cả hình ảnh và ân thanh minh
hoạ nên dễ hiểu, dễ tiếp thu.
Dịch vụ thông tin qua các hình thức trực quan
Tại các địa bàn, TTTTKH&CNQG đã tổ chức các hội thảo, tập huấn kỹ thuật, trình diễn
trực quan tại hiện trường, tổ chức báo cáo điển hình, câu lạc bộ nhà nông, triển khai các mô hình
sản xuất tiên tiến, tạo các poster... để cung cấp thông tin, phổ biến kinh nghiệm cho nông dân. Tùy
đặc điểm mỗi địa bàn mà lựa chọn những hình thức phù hợp.
- Dịch vụ cung cấp thông tin qua các trang web
Qua các trang web, thông tin được cung cấp phục vụ chung cho tất cả các đối tượng người
dùng tin. Thông tin được cập nhật liên tục, tra cứu được nhiều lĩnh vực khác nhau, người dùng tin
tự truy cập thông tin mà không cần qua các bộ phận trung gian.
- Dịch vụ thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng
TTTTKH&CNQG đã thông qua các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình địa phương để
cung cấp thông tin khoa học và công nghệ xuống các địa bàn. Qua hình thức này thông tin được phổ
biến rộng rãi, thường xuyên và chi phí không cao. Theo tổng kết của các cơ quan thông tin địa
phương, hình thức này luôn được đánh giá là phù hợp, hữu hiệu và cần được đẩy mạnh trong thời
gian tới.
Qua một số dự án đã triển khai, Trung tâm đã thu về được một số kết quả khả quan. Việc
này thể hiện được hiệu quả KT-XH trong việc triển khai hệ thống SP-DV phục vụ NTMN. Hiệu quả
được xem xét trước nhiều góc độ và quan điểm khác nhau. Hoạt động thông tin khoa học và công
nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi rõ ràng đã đem lại nhiều hiệu quả thiết
thực, được triển khai ngay từ quá trình triển khai dự án thí điểm và được các địa phương thừa nhận.
Đặc biệt là những hiệu quả kinh tế mang ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa xã hội. Từ đó mà tôi có đưa ra
một số nhận xét và giải pháp sau:
3. Một số nhận xét
- Về ưu điểm:
5
Việc triển khai hệ thống SP-DV của trung tâm tới NTMN sẽ góp phần nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước,
từng bước hình thành thị trường công nghệ và dịch vụ ở nông thôn, tạo đà cho việc ứng dụng nhanh
các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và thúc đẩy phát triển KT-XH khu vực NTMN
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các dự án xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KHCN được hình thành theo các
nhóm và gắn với các mục tiêu, nội dung cụ thể như nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo, sản xuất các
loại nông sản quý, có lợi thế so sánh cao, sản xuất các mặt hàng còn phải nhập khẩu,…
Chương trình này sẽ được thực hiện cùng với các chương trình phát triển KT-XH của vùng,
của địa phương về nông nghiệp, nông thôn, các chương trình nghiên cứu khoa học, chương trình
mục tiêu quốc gia khác để nâng cao hiệu quả đầu tư từ các nguồn lực của Nhà nước và huy động tối
đa nguồn lực của xã hội.
- Về nhược điểm:
Tiềm lực thông tin khoa học và công nghệ ở mỗi tỉnh, nhất là tiềm lực thông tin số hóa, còn
rất nhỏ bé, cơ quan thông tin địa phương chưa thu thập được nhiều những tài liệu có giá trị và đặc
thù của địa phương mình.
Đa số các cơ quan thông tin địa phương chưa có khả năng đưa các CSDL lên mạng để có thể
phục vụ trực tuyến.
Đội ngũ cán bộ thông tin KHCN và cộng tác viên ở hầu hết các địa phương còn mỏng, hay
biến động, chưa thực sự gắn bó với nghề nghiệp. Cần được ổn định về mặt tổ chức tại các trung tâm
thông tin KHCN địa phương.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ quan thông tin địa phương nhìn chung còn yếu, dàn trải
chưa đáp ứng yêu cầu cơ bản.
Kinh phí dành cho hoạt động thông tin KHCN tại các tỉnh còn rất hạn hẹp. Hầu hết các cơ
quan thông tin địa phương chưa biết tận dụng nguồn kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ để xây dựng tiềm lực thông tin và hạ tầng cơ sở.
Ngoài ra, có thể nói việc quán triệt cũng như triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước về công tác thông tin khoa học và công nghệ ở các tỉnh còn chậm, các biện pháp chưa
được đảm bảo tốt, nhiều vấn đề chưa được cụ thể hóa và chưa đồng bộ.
- Về giải pháp:
+ Giải pháp về tổ chức: Cần phải nhanh chóng ổn định, đặc biệt chú trọng việc lựa chọn mô
hình tổ chức và hoạt động sao cho thích hợp.
+ Giải pháp về xây dựng tiềm lực thông tin: Thu thập đầy đủ, số hóa và đưa vào các CSDL
những tài liệu có giá trị lâu dài của địa phương cũng như tài liệu về địa phương. Ưu tiên xây dựng/
hoặc tích hợp các CSDL tương đồng đã có thành các CSDL lớn, có diện bao quát phù hợp, phục vụ
thiết thực cho phát triển KT-XH của tỉnh.
+ Giải pháp về sản phẩm, dịch vụ: Có SP-DV chất lượng. Cụ thể là xác định và tạo lập
những sản phẩm, dịch vụ cốt yếu (thế mạnh của mình) để đưa ra phục vụ với phương châm “năng
suất, chất lượng, hiệu quả”, lấy người dùng tin/khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động.
Giải pháp về đội ngũ cán bộ thông tin: Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, tâm huyết với
nghề nghiệp. Muốn vậy cơ quan thông tin địa phương phải có kế hoạch bồi dưỡng, có chế độ
khuyến khích thích hợp, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ.
6
Giải pháp về liên kết, hợp tác: Tăng cường liên kết, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ tiềm lực
thông tin với các cơ quan thông tin trung ương, bộ/ngành và các địa phương khác; tận dụng khai
thác thông tin dưới nhiều hình thức, đặc biệt là khai thác trực tuyến.
Giải pháp về hiện đại hoá cơ sở vật chất, kĩ thuật hạ tầng: Cần xây dựng Mạng
INTRANET/Cổng thông tin tiên tiến, có khả năng đưa lên web các CSDL của cơ quan và tích hợp
được cả các CSDL khác có được nhằm phục vụ rộng rãi, tiện lợi
Kết luận
Đối với người nghèo, đặc biệt là cư dân vùng NTMN, chính sách của Đảng và Nhà nước cần
linh động và hỗ trợ nhiều hơn nữa, cần “cho họ một cái cần câu chứ không phải cho họ con cá”.
Luôn thực hiện mọi chỉ đạo, đặc biệt là các chỉ đạo liên quan đến chuyển giao công nghệ, Trung
tâm phối hợp với các Bộ ngành có liên quan để cùng hành động vì một cuộc sống tươi đẹp hơn của
NTMN nước ta. TTTTKH&CNQG xứng đáng là đầu tàu về lĩnh vực khoa học công nghệ trong các
mục tiêu, nhiệm vụ triển khai khoa học của mình. Như vậy tăng cường các dự án đưa sản phẩm và
dịch vụ tới phục vụ phát triển KT-XH NTMN sẽ làm giảm đi khoảng cách chênh lệch về mức sống
và trình độ về khoa học kĩ thuật, giúp cho bà con nơi vùng sâu, vùng xa cải thiện cuộc sống. Đây là
mục tiêu và cũng là nhiệm vụ mà TTTTKH&CNQG hướng tới trong tương lai.
7
NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐẦU THẾ KỶ XX
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Kim Dung
K50 CLC Lịch sử
PGS. TS. Phạm Xanh
Bằng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như : Phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh ..., chúng tôi cố gắng làm nổi bật lên vai trò của
Nguyễn Văn Vĩnh trong cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX, với tư cách là một trong những
người khởi xướng, người hoạt động tích cực và có nhiều đóng góp nhất. Ông là một trí thức Tây
học tài hoa muốn hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà theo Âu Tây tư tưởng, đồng thời cũng là con
người thiết tha với những giá trị truyền thống nhưng cũng vô cùng nhạy bén với thời cuộc. Ông
cũng là người có công đầu trong việc tạo nên mối liên hệ chặt chẽ và phát huy vai trò của báo chí
trong cải cách giáo dục.
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 30 tháng 4 năm Nhâm Ngọ (tức ngày 15/6/1882 ) tại số nhà 46,
phố Hàng Giấy, Hà Nội, hiệu là Tân Nam Tử.
Ông sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy biến động. Việt Nam trở thành thuộc địa của thực
dân Pháp. Các phong trào đấu tranh vũ trang của nhân dân chống Pháp bùng lên mạnh mẽ nhưng
đều bị dìm trong bể máu.
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, tại làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín,
tỉnh Hà Nội ( bây giờ là huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây), một vùng quê chiêm trũng nghèo khổ,
quanh năm ngập nước. Nhưng đây là vùng quê nổi tiếng hiếu học và nhiều người đỗ đạt cao.
Nguyễn Văn Vĩnh lớn lên trên kinh đô ngàn năm văn hiến, kế thừa truyền thống hiếu học
của quê hương, có sẵn trong mình ý chí vươn lên thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ, lại được tác động
không ngừng bởi các yếu tố văn hóa phương Tây đang du nhập ồ ạt cùng những chuyển biến cả đất
Hà Thành. Tất cả đã tác động không nhỏ đến nhân cách và suy nghĩ của Nguyễn Văn Vĩnh, lý giải
phần nào tư tưởng canh tân sau này của ông.
Cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh là sự nỗ lực phi thường vươn lên học thức, địa vị xã hội, sự
nghiệp báo chí và hết tâm sức cổ động cho truyền bá chữ Quốc ngữ, đổi mới giáo dục, canh tân đất
nước. Tuy vậy, sống trong buổi giao thời đầy biến động, lại hoạt động trên lĩnh vực hết sức nhạy
cảm là báo chí, từng có sự nghiệp chính trị nhất định trong chính quyền Pháp, hướng theo Âu Tây
tư tưởng... nên không khỏi có những điều tiếng khen chê về ông. Nhưng dù thế nào, cũng không thể
phủ nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn Văn Vĩnh cho nền văn hóa Việt Nam trong đó có giáo
dục.
Nguyễn Văn Vĩnh có một sự nghiệp chính trị nhất định trong hệ thống chính quyền Pháp.
Ông là nhà báo đồng thời là chủ bút các tờ báo : Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, Lục Tỉnh Tân
Văn, Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn, Học Báo, Notre revue và L’ Annam nouvea…
Ông tham gia thành lập Hội Trí Tri, Hội Dịch Sách, Hội giúp đỡ người Việt sang Pháp du
học, thành lập Đông Kinh Nghĩa thục và giảng dạy tại trường.
Ông là một dịch giả nổi tiếng, nắm trong tay nhà xuất bản Âu Tây tư tưởng, đồng thời được
coi là đại gia trong lĩnh vực kinh doanh in ấn và báo chí.
Ông có công đầu trong cuộc cách mạng chữ Quốc ngữ và cải cách văn hóa ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
Khi nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh, chúng ta cần lưu ý những điểm cơ
bản sau:
8
1. Nguyễn Văn Vĩnh - tấm gương về tinh thần tự học
Ở phần này, chúng tôi khái quát những chặng đường vươn lên học tập của Nguyễn Văn
Vĩnh. Đặc biệt chú ý đến những bước ngoặt lớn trên con đường tích lũy tri thức của ông:
+ Bước ngoặt đầu tiên quan trọng : vào học tại trường Thông ngôn của Pháp năm 8 tuổi.
+ Bước ngoặt thứ hai: Sau 17 năm tự học với vốn tri thức khá uyên bác, năm 1906, ông
được sang Pháp dự hội chợ triển lãm tại Mác xây. Ông được chứng kiến nền văn minh Pháp, thấy
được cội nguồn sức mạnh Pháp là sức mạnh của văn hóa tiên tiến. Từ đây, ông coi việc canh tân đất
nước, cải cách giáo dục là “ niềm vui thích êm ái nhất”, là sự nghiệp cả đời của mình. Ông viết: “
… Rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi
sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phai nhòa trước tư tưởng đó để nhường
chỗ cho lòng vui thích êm ái nhất …”.
Nguyễn Văn Vĩnh là một học giả uyên bác, là tấm gương lớn mà bất cứ người học tập nào
cũng cần phải noi theo. Ông xứng đáng là một trong những người đứng đầu phong tráo cải cách
giáo dục đầu thế kỷ XX bởi tài năng, sự uyên bác và nghị lực phi thường của mình. Quá trình tự
học đã giúp ông có cái nhìn đúng đắn trong tiếp nhận tư tưởng, nội dung giáo dục mới và đưa ra
được các phương pháp giáo dục phù hợp. Đổi mới mà không xa rời, đi ngược lại truyền thống văn
hóa. Ông là người ý thức sâu sắc về bản sắc văn hóa dân tộc. Ông đã kế thừa truyền thống hiếu học
ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
2. Quan niệm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh
+ Ông chỉ rõ và phê phán nghiêm khắc những nhược điểm của nền giáo dục cũ để thức tỉnh
nhân dân hướng theo cải cách giáo dục. Ông đề xướng bỏ nền giáo dục Nho học để thực hiện nền
giáo dục chữ Quốc ngữ hiện đại.
+ Ông khẳng định vai trò của giáo dục với việc canh tân đất nước, tăng cường sức mạnh dân
tộc. Ông xác định tích chất của nền giáo dục mới là nền giáo dục đại chúng. Ông chỉ ra đối tượng
chính của giáo dục mới là bình dân không phân biệt sang hèn, nam nữ, đây là lực lượng quyết định
của cải cách giáo dục.
+ Ông rất coi trọng thực học, coi nghề học là cốt của các nghề . Học để : “ vinh hạnh mà
cầm cày, vẻ vang mà cầm cuốc”
+ Về phương tiện truyền thụ trong giáo dục, ông nhấn mạnh : nền học vấn của dân tộc phải
gắn bó chặt chẽ với chữ viết dân tộc. Chữ viết dân tộc ở đây là chữ Quốc ngữ. Ông coi cổ động học
chữ Quốc ngữ là trọng tâm của cải cách giáo dục.
+ Về nội dung và phương pháp giáo dục : Ông đưa ra nội dung và phương pháp giáo dục
mới là sự kết hợp giữa những ưu điểm của nền giáo dục truyền thống với nội dung và phương pháp
giáo dục mới của phương Tây hiện đại.
+ Muốn hiện đại hóa giáo dục một cách toàn diện phải đảm bảo tính thống nhất của nó trên
phạm vi cả nước : Bắc, Trung, Nam đều hòa hợp.
Là một trí thức Việt Nam yêu nước, Nguyễn Văn Vĩnh có sẵn trong mình kháng thể của nền
văn hóa dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm phát triển. Sức kháng thể đó đã giúp ông có đủ năng lực
để tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây hiện đại. Từ bản thân mình, ông đã nhìn ra khả năng tiếp
thu những yếu tố hiện đại của nền giáo dục Việt Nam mà không làm mất đi những giá trị tốt đẹp
vốn có.
3. Các biện pháp thực hiện cải cách giáo dục
9
3.1. Truyền bá sâu rộng chữ Quốc ngữ - phương tiện truyền thụ cơ bản của nền giáo dục
mới.
Chúng tôi nhấn mạnh vai trò của chữ viết với văn hóa nói chung và giáo dục nói riêng. Chữ
viết là phương tiện truyền thụ cơ bản của giáo dục, thậm chí nó còn làm nên đặc trưng cho mỗi mô
hình giáo dục
Các biện pháp truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh như : khẳng định
vai trò của chữ Quốc ngữ trong giáo dục và phổ cập giáo dục, đối với tương lai đất nước. Tuyên
truyền học chữ Quốc ngữ bằng mọi phương tiện, mọi hình thức, kêu gọi mọi lực lượng trong xã hội
tham gia vào cuộc cải cách chữ viết, …
Đánh giá vai trò của nền giáo dục Quốc ngữ với văn hóa Việt Nam, cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, tác dụng của chữ Quốc ngữ trong hội nhập hiện nay. Qua đó khẳng
định công lao của Nguyễn Văn Vĩnh. Chẳng hạn: Một điều không thể phủ nhận rằng: nền giáo dục
Quốc ngữ không chỉ bao gồm hệ thống văn tự Quốc ngữ, mà còn là nội dung và phương pháp giáo
dục hiện đại. Giáo dục Quốc ngữ đã đem lại bầu sinh khí mới cho xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nó tạo ra những thế hệ con người Việt Nam mới, thế hệ này không những đủ sức tiếp nhận những
tinh hoa của nền văn hóa phương Tây hiện đại, gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn
đủ sức để đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ra khỏi “đêm tối không có đường ra”. Đây mới là
công lao lớn nhất của thế hệ những người như Nguyễn Văn Vĩnh với lịch sử dân tộc.
3.2. Thành lập và tham gia vào hoạt động của các tổ chức giáo dục – Trung tâm tuyên
truyền ứng dụng và phổ cập mô hình giáo dục mới.
Chúng tôi trình bày tóm tắt quá trình thành lập, hoạt động của các tổ chức giáo dục : Đông
Kinh Nghĩa Thục, Hội Trí Tri và Trường học Hội Trí Tri, Hội dịch sách…; khẳng định vai trò của
Nguyễn Văn Vĩnh trong những tổ chức giáo dục này.
Nhận xét về vai trò, sức ảnh hưởng của các tổ chức giáo dục với cuộc cải cách giáo dục đầu
thế kỷ XX, chỉ ra những điểm mới và sáng tạo trong các tổ chức giáo dục này.
3.3. Sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực cho tuyên truyền cổ động giáo dục Quốc
ngữ đồng thời phổ biến nội dung và phương pháp giáo dục mới
Chúng tôi trình bày lí do khiến Nguyễn Văn Vĩnh sử dụng báo chí làm công cụ trước tiên để
thực hiện cải cách giáo dục.
Nội dung giáo dục trên Đông Dương tạp chí- tờ báo do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút.
Chúng tôi thống kê được trên Đông Dương tạp chí ( 1913 – 1914 , 1916 – 1918) 834 bài viết về
giáo dục trên tất cả các mặt mục đích, đối tượng, phương pháp, nội dung, phương tiện giáo dục.
Trong đó những bài viết về đối tượng, nội dung và phương pháp giáo dục mới chiếm tới 96,2 %.
Nội dung giáo dục trên Đông Dương tạp chí rất phong phú, được thể hiện rõ trên các chuyên mục
giáo dục của báo như Sư phạm học khoa, Tân học văn tập, Nam học niên khoá, Gõ đầu trẻ…
Như vậy, Đông Dương tạp chí bên cạnh là tờ báo văn hoá xã hội nói chung còn là tờ báo
riêng của giáo dục. Hay nói cách khác, Đông Dương tạp chí là cơ quan ngôn luận của cuộc cải cách
giáo dục đầu thế kỷ XX. Nguyễn Văn Vĩnh là người có công đầu tiên trong việc tạo ra mối liên hệ
chặt chẽ giữa báo chí và giáo dục, góp phần hoàn thiện giáo dục, tăng cường sức mạnh cho cải cách
giáo dục.
4. Kết luận
Khẳng định công lao của Nguyễn Văn Vĩnh đối với giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX nói
riêng và với văn hoá Việt Nam nói chung là hết sức to lớn. Đóng góp của ông cho nền giáo dục là
10
rất toàn diện từ tấm gương tự học của chính mình, hệ thống quan điểm giáo dục đúng đắn đến
những biện pháp hữu hiệu thực hiện cải cách giáo dục. Nguyễn Văn Vĩnh có một tầm nhìn xa.
Nhiều tư tưởng của ông cho đến nay vẫn còn mới mẻ và hữu ích đặc biệt là cho cuộc cải cách giáo
dục đầu thế kỷ XXI.
NHỮNG ĐIỂM CHƯA HỢP LÝ TRONG LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM
VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT KHÁC VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Gấm
K49A Khoa học Quản lý
TS. Trần Văn Hải
1. Những điểm chưa hợp lý trong quy định về quyền tác giả và quyền liên quan
- Điều 4 Khoản 1 Nghị định 100/2006/NĐ-CP định nghĩa về tác phẩm di cảo: “Tác phẩm di
cảo là tác phẩm được công bố lần đầu sau khi tác giả đã chết”.
Tác phẩm không được công bố lần đầu sau khi tác giả đã chết thì sẽ không được coi là tác
phẩm di cảo và nó sẽ được điều chỉnh như các tác phẩm bình thường khác. Thời hạn bảo hộ tác
phẩm sẽ là khác nhau phụ thuộc vào việc công bố là không hợp lý. Nếu tác phẩm được công bố sau
khi tác giả qua đời thì tác phẩm sẽ được bảo hộ 50 năm tiếp theo năm công bố. Nhưng nếu như tác
phẩm không được công bố sau khi tác giả chết thì tác phẩm sẽ được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và
50 năm tiếp theo năm tác giả chết như những tác phẩm bình thường. Thời điểm tác giả chết và thời
điểm tác phẩm được công bố sau khi tác giả chết là hoàn toàn khác nhau.
* Biện pháp điều chỉnh: Định nghĩa lại tác phẩm di cảo:
“Tác phẩm di cảo là tác phẩm không được công bố khi tác giả còn sống”.
- Khoản 4 Điều 4 Nghị định 100/2006/NĐ-CP có quy định như sau: “Bản sao tác phẩm là
bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm. Bản sao chụp cũng là
bản sao tác phẩm” .
Như vậy bản sao một phần tác phẩm cũng là bản sao tác phẩm. Chúng ta đã lấy cái bộ phận
để chỉ cái tổng thể. Xét về mặt logic như vậy là không hợp lý. Cái bộ phận không bao giờ có thể đại
diện được cho cái tổng thể, không bao giờ có thể phản ánh được cái tổng thể.
* Biện pháp điều chỉnh: định nghĩa lại về bản sao: “Bản sao là bản sao chép trực tiếp
hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình”.
- Tại Khoản 4 Điều 19 có quy định như sau: “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả”.
Thế nào là gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả? Ai là người đánh giá việc sửa
đổi đó có gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả hay không? Không ai có thể định nghĩa
được thế nào là gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, không ai có thể đánh giá được
việc làm đó có gây ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của tác giả hay không ngoại trừ chính tác giả.
Tác giả sẽ luôn bảo vệ ý tưởng của mình, bảo vệ sản phẩm của mình, sự sáng tạo của mình mới là
đúng đắn, là hay. Chính vì vậy, thực tế sẽ không khi nào việc sửa đổi được tác giả chấp nhận và họ
luôn cho rằng việc sửa đổi là ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của họ. Cụm từ “gây phương hại đến
danh dự và uy tín của tác giả” là không cần thiết.
* Biện pháp: bỏ cụm từ “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” trong quy định
này. Quy định này được viết lại như sau: “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người
khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào”.
11
- Thời hạn bảo hộ quyền tài sản (Đ27 Luật SHTT): Tác phẩm có thời hạn bảo hộ là suốt
cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có
đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau khi đồng tác giả cuối
cùng chết.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả phụ thuộc vào tác giả, cuộc đời tác giả
Trong khi quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả, nhiều khi chủ sở hữu quyền tác
giả lại không phải là tác giả
Quyền thuộc về một người nhưng thời hạn bảo hộ quyền lại phụ thuộc vào một người khác
→ bất hợp lý
* Biện pháp: Quy định thời hạn bảo hộ quyền tài sản trong quyền tác giả đối với tác phẩm
theo số năm nhất định, ví dụ 100 năm kể từ ngày tác phẩm được công bố
- Điều 27 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4
Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn”. Điều 45 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ: “Tác giả
không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại điều 19, trừ quyền công bố tác
phẩm”. Như vậy các quyền nhân thân chỉ thuộc duy nhất và vĩnh viễn về một mình tác giả trừ
quyền công bố. Sau khi tác giả qua đời, không ai có quyền thực hiện các quyền nhân thân đó, đặc
biệt là quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm. Ai cũng có thể cắt xén, xuyên tạc tác phẩm mà không bị
làm sao vì tác giả không thể lên tiếng phản đối.
Biện pháp: Quyền nhân thân này cũng nên được phép chuyển giao cho người khác với tư
cách là người đại diện hợp pháp cho tác giả
2. Những điểm chưa hợp lý trong quy định về nhãn hiệu hàng hóa
- Trong Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ quy định trường hợp không được bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa: “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử
dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự…”. Như vậy theo quy định
này, những nhãn hiệu trùng hoặc tương tự nhau nhưng đăng ký cho những hàng hóa, dịch vụ khác
nhau thì vẫn được bảo hộ. Trong khi, Luật SHTT không giới hạn danh mục hàng hóa đăng ký dưới
tên nhãn hiệu. Một nhãn hiệu có thể đăng ký cho một hàng hóa, dịch vụ hoặc cho nhiều hàng hóa,
dịch vụ. Danh mục hàng hóa, dịch vụ này người tiêu dùng ít khi biết đến. Do đó, người sử dụng sẽ
dễ dàng nhầm lẫn những hàng hóa đó là của một chủ sở hữu. Nhãn hiệu lúc này sẽ không thực hiện
được chức năng của nó là phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau.
* Biện pháp: Bỏ cụm từ: “cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự” trong quy định.
3. Những mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật quy định về Sở hữu trí tuệ
- Mâu thuẫn trong quy định về thời hạn bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Điều 93 Khoản 7 Luật SHTT: “Giấy chứng
nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô
thời hạn kể từ ngày cấp”
Điều 95 Khoản 1 Điểm g Luật SHTT 2005
quy định chỉ dẫn địa lý hết hiệu lực bảo hộ
khi: “Các điều kiện địa lý tạo nên danh
tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý bị thay đổi làm mất
danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản
phẩm đó”
Như vậy, một điều quy định thời hạn bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý là vô thời hạn, nhưng
điều quy định ngay sau đó lại đặt ra điều kiện để chỉ dẫn địa lý đó có được tiếp tục duy trì hiệu lực
12
hay không. Hai điều quy định ngay sát nhau trong cùng một Luật lại mâu thuẫn với nhau như vậy sẽ
làm giảm hiệu lực thi hành của Luật.
* Biện pháp: Quy định lại Điều 93 Khoản 7 Luật SHTT: “Giấy chứng nhận đăng ký chỉ
dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp trừ trường hợp quy định tại Điều 95 Khoản 1
điểm g Luật này”.
- Mâu thuẫn trong quy định về việc đăng ký chỉ dẫn địa lý
Điều 80 Khoản 3 Luật SHTT quy định về
việc chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ: “Chỉ
dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn
hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng
chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì sẽ gây
nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm”
Điều 125 Khoản 2 điểm g Luật SHTT: người
được trao quyền sử dụng hoặc quản lý chỉ dẫn
địa lý không được cấm người khác “sử dụng
nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn
địa lý được bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã đạt
được sự bảo hộ một cách trung thực trước
ngày nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý”
Như vậy theo điều125 thì chỉ dẫn địa lý vẫn được bảo hộ khi trùng hoặc tương tự với nhãn
hiệu đã có trước đó, hoàn toàn mâu thuẫn với quy định tại Đ80. Chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu hàng
hóa trùng hoặc tương tự nhau cùng song song tồn tại thì khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa là hoàn toàn có thể.
* Biện pháp: Hủy bỏ hiệu lực bảo hộ đối nhãn hiệu để bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Đây cũng sẽ là
một biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn mọi người sử dụng tên địa danh để đăng ký nhãn hiệu.
- Mâu thuẫn trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 Luật SHTT 2005: Phạt tiền thấp nhất bằng giá
quy định: phạt tiền tối đa 100 triệu đồng đối trị hàng vi phạm và tối đa là 5 lần giá trị hàng
với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh hóa vi phạm
vực SHTT
Vậy khi giá trị hàng hóa vi phạm vượt 100 triệu đồng thì sẽ xử lý như thế nào? Theo quy
định nào? Các cơ quan chức năng hiện nay còn rất lúng túng khi giải quyết các trường hợp như vậy.
Hiện nay Chính Phủ cũng chưa quy định cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm
* Biện pháp: CP phải quy định cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm. Quy định cụ thể
trường hợp nào thì áp dụng quy định nào.
- Mâu thuẫn trong quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng:
Điều 17 NĐ100 qui định: Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ và cơ quan Quản lý
thị trường có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp xảy ra
trong hoạt động kinh doanh, lưu thông hàng hóa trên thị trường. Như vậy là chồng chéo nhau
trong quy định về nhiệm vụ. Khi cả hai cơ quan cùng được giao làm một nhiệm vụ thì sẽ xảy ra tình
trạng lúc hai cơ quan “tranh nhau” giải quyết nhưng cũng có khi hai bên “nhường nhau” giải quyết.
Khi đó sẽ xảy ra tranh cãi hoặc nhiều vấn đề không được giải quyết nhưng cũng không ai phải chịu
trách nhiệm.
4. Luật Sở hữu trí tuệ chưa hoàn thiện
Thể hiện ở: giống vật nuôi, cây trồng không được coi là sáng chế, không được bảo hộ dưới
hình thức sáng chế; giống cây trồng được tách ra là một đối tượng bảo hộ SHTT riêng; giống vật
nuôi chưa được bảo hộ như là một đối tượng SHTT.
Biện pháp: Bổ sung giống vật nuôi được bảo hộ như một đối tượng SHTT
13
Kết luận
- Quyền tác giả và quyền liên quan là một đối tượng bảo hộ rất quan trọng và cũng là vấn đề
còn đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập nhất trong các văn bản pháp luật quy định về
SHTT.
- Các đối tượng sở hữu công nghiệp được qui định trong luật chặt chẽ hơn nhưng cũng còn
một vài điểm chưa hợp lý, nhiều chỗ còn mâu thuẫn nhau
- Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 chưa toàn diện, chưa đề cập đến đầy đủ các đối tượng
cần được bảo hộ.
CƠ SỞ VẬT CHẤT TẠI CÁC KHU NHÀ TRỌ SINH VIÊN
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Trịnh Ngọc Hà, Vũ Thị Vân
K50 Xã hội học
TS. Nguyễn Thị Kim Hoa
Mỗi năm, tỉ lệ sinh viên tuyển mới vào các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
tăng từ 6 đến 9%, trong đó, có từ 60 đến 80% là sinh viên ngoại tỉnh. Kí túc xá các trường chỉ đáp
ứng đủ 30% chỗ ở cho các sinh viên này khiến nhu cầu nhà trọ sinh viên tăng mạnh hàng năm.
Không nằm ngoài qui luật gia tăng của giá cả, giá thuê nhà trọ sinh viên cũng tăng khiến
sinh viên có điều kiện kinh tế không khá giả buộc phải tìm tới những nhà trọ có mức giá “vừa tầm”.
Tại những khu nhà trọ này, cơ sở vật chất còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ, học
tập và sinh hoạt của sinh viên.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi hướng tới tìm hiểu và phân tích Cơ sở vật
chất tại các khu nhà trọ sinh viên trên địa bàn quận Thanh Xuân – một trong số hai quận tập trung
nhiều trường đại học, cao đẳng và các khu nhà trọ sinh viên của thành phố Hà Nội.
Đề tài hướng tới tìm hiểu thực trạng cơ sở vật chất các khu nhà trọ sinh viên cũng như
những tác động của thực trạng trên tới sinh viên. Trên cơ sở đó, phân tích những nguyên nhân gây
ra thực trạng và đề ra một số giải pháp khắc phục.
1. Thực trạng cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất bao gồm các điều kiện về nhà ở, công trình phụ, hệ thống điện, nước, vật
dụng sinh hoạt, hệ thống thu gom và xử lý rác thải - nước thải. Mỗi phòng từ 8 đến 10m², dành cho
từ 1 đến 3 người ở. Công trình phụ gồm có nhà vệ sinh, nhà tắm và nhà bếp. Từ 6 đến 18 sinh viên
cùng chia sẻ 1 nhà vệ sinh và 1 nhà tắm. 73,6% cho biết phòng trọ không có nhà bếp riêng, chỉ đun
nấu ngay trước cửa phòng trọ, trong không gian sinh hoạt chung hay ở trong phòng trọ. Phải dùng
chung công trình phụ với nhiều người đã gây ra nhiều bất tiện cho sinh viên.
Hệ thống điện được lắp đặt nổi, cùng thời gian xây dựng nhà trọ nên đã cũ, gây nguy hiểm.
Hầu hết các thiết bị điện được phép sử dụng và sử dụng không hạn chế thời gian. 92% thanh toán
theo số điện sử dụng. Mức giá đắt hơn giá điện sinh hoạt và tuỳ thuộc vào khu vực ở trọ. Chất
lượng nguồn điện được đa số đánh giá là tốt (40,5%) và bình thường (38,6%) nhưng vẫn có hiện
tượng quá tải gây sụt điện, chập điện, cháy nổ các thiết bị điện.
Về nguồn nước, 56,4% sử dụng nước máy, 35,5% dùng nước giếng khoan có chất lượng
nước được đánh giá ở mức tốt (54%) và bình thường (32,5%). Nước được dùng không hạn chế, đủ
nhu cầu và không được phép lãng phí. Phí tiền nước trả theo hình thức: nước giếng trả khoán từ
15.000 đến 35.000 đồng/tháng tuỳ khu vực; nước máy trả theo số m³ sử dụng, có giá đắt hơn giá
nước sinh hoạt, dao động từ 2.800 đồng cho đến 6.000 đồng/m³.
14
Vật dụng sinh hoạt bao gồm những vật dụng được chủ nhà chuẩn bị sẵn và những vật dụng
do sinh viên tự chuẩn bị. Chủ nhà thường chuẩn bị giường, bóng đèn, ổ điện… nhưng những vật
dụng này tương đối cũ và nếu hỏng, sinh viên phải tự thay. Vì nhiều lí do, có những vật dụng sinh
hoạt quá cũ nhưng vẫn sử dụng, gây ảnh hưởng tới sinh viên. Còn lại, những vật dụng sinh hoạt
khác do sinh viên tuỳ nhu cầu và khả năng mà chuẩn bị.
Ngoài ra, hình thức thu gom và xử lý rác thải tại các khu nhà trọ này được đa số đánh giá ở
mức độ bình thường (57,7%) và tốt (27%). Có 2 hình thức thu gom và xử lý rác thải chính là đóng
phí vệ sinh 20.000 đồng/tháng/người để chủ nhà tự thu gom và tự đem đổ rác thải ra các bãi rác thải
tự phát. Hình thức thứ 2 này ít được đánh giá ở mức tốt và trung bình vì gây ô nhiễm môi trường và
ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ của sinh viên.
Vấn đề đáng lo ngại là hệ thống xử lý nước thải tại các khu nhà trọ. Có tới 47,2% không
thoả mãn với hoạt động của hệ thống này. 22,7% đánh giá chất lượng hệ thống xử lý nước thải rất
kém. Thực tế cho thấy, hệ thống này đã cũ và quá tải, không được chủ nhà sửa chữa. Trời mưa hay
nước thải sinh hoạt quá nhiều đều có thể là nguyên nhân gây ngập úng, kéo theo hàng loạt những
hiện tượng khác, ảnh hưởng không nhỏ tới sinh viên.
2. Tác động của cơ sở vật chất tại các khu nhà trọ tới sức khoẻ, học tập và sinh hoạt của sinh
viên
Mức độ ảnh hưởng của điều kiện này tới sức khoẻ, học tập và sinh hoạt của sinh viên được
đánh giá theo 4 mức độ: không ảnh hưởng, ảnh hưởng ít, ảnh hưởng bình thường và ảnh hưởng
nhiều. Mức độ ảnh hưởng này có sự khác nhau giữa giới tính, thời gian ở trọ, và thời gian học tại
trường đại học, cao đẳng.
Về sức khoẻ, có 20,9% cho biết sức khoẻ bị ảnh hưởng nhiều bởi cơ sở vật chất không đảm
bảo. Các bệnh tật về mắt như cận thị, loạn thị, đau đầu, dị ứng, đau mắt… do cơ sở vật chất cũ nát
thường xuyên xảy ra.
20,2% cho biết học tập bị ảnh hưởng nhiều bởi cơ sở vật chất, khiến sinh viên không thể tập
trung học tập để đạt kết quả cao hơn.
16,6% cho rằng cơ sở vật chất gây ảnh hưởng rất lớn tới sinh hoạt, khiến sinh hoạt trở nên
khó khăn và bị hạn chế nhiều.
Mức độ ảnh hưởng của cơ sở vật chất đến sinh viên nam và sinh viên nữ cũng có sự khác
biệt nhất định. Sinh viên nữ thường chịu tác động của điều kiện sinh hoạt nhiều hơn nam. Ngoài ra,
các sinh viên ở trọ càng lâu năm thì càng chịu nhiều tác động của cơ sở vật chất đến sức khoẻ, học
tập và sinh hoạt.
3. Giải pháp tình thế của sinh viên
Trước thực trạng và những tác động trên của cơ sở vật chất tới sinh viên, giải pháp tình thế
là “di cư theo mùa” và chuyển nhà trọ khác. Trong đó, “di cư theo mùa” là tạm rời đi một địa điểm
khác để có thể tập trung học tập khi điều kiện thời tiết và điều kiện tại phòng trọ quá sức chịu đựng
và quay lại nhà trọ khi thời tiết khá hơn trong ngày. Cũng như “di cư theo mùa”, việc chuyển tới
một nhà trọ khác cũng chỉ là một giải pháp tình thế. Một trong số những lí do khiến sinh viên phải
chuyển nhà là điều kiện sinh hoạt vượt quá mức chịu đựng. Khi đó, sinh viên chuyển từ nơi ở này
đến một phòng trọ khác có điều kiện khá hơn. Dù sao, đây cũng chỉ là giải pháp mang tính tạm thời,
có hiệu quả không bền vững.
4. Nguyên nhân ảnh hưởng tới cơ sở vật chất tại các khu nhà trọ sinh viên
15
4.1. Chủ nhà trọ
Điều kiện kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu nói riêng và Hà Nội nói chung có những
thay đổi to lớn, sự phát triển của kinh tế thị trường khiến giá trị đồng tiền ngày càng được đề cao.
Trong bối cảnh đó, nguyên nhân từ phía nhà trọ có thể kể đến là chủ nhà trọ quá coi trọng lợi ích
thu được từ việc cho sinh viên - đối tượng “tương đối ngoan” và “dễ bảo”. Họ xây dựng những khu
nhà trọ cho sinh viên thuê dựa trên nguyên tắc tiết kiệm tối đa diện tích và vật liệu xây dựng. Các
khu nhà trọ được xây dựng từ lâu, nay đã xuống cấp nhưng không được sửa chữa hay thay mới các
vật dụng. Quá coi trọng lợi ích, chủ nhà trọ đã để mặc điều kiện cơ sở vật chất ngày càng xuống
cấp, không đảm bảo cho người sử dụng, tác động trực tiếp tới sinh viên hoặc thậm chí chính họ.
4.2. Sinh viên
Sinh viên cũng là chủ thể gây ra sự xuống cấp của cơ sở vật chất tại các phòng trọ. Nguyên
nhân là ở ý thức của sinh viên. Họ chưa có ý thức giữ gìn những khoảng không gian sinh hoạt
chung và những khoảng không sinh hoạt riêng tại phòng trọ. Ý thức giữ gìn vệ sinh chưa cao này đã
góp phần không nhỏ vào việc làm xuống cấp cơ sở vật chất tại các nhà trọ sinh viên.
4.3. Các nguyên nhân khác
Một trong những nguyên nhân khác gây tình trạng xuống cấp cơ sở vật chất và tại các khu
nhà trọ này là mối quan hệ giữa chủ nhà trọ và sinh viên. Nguyên nhân này đa phần bắt nguồn từ
mâu thuẫn thế hệ giữa chủ nhà trọ và sinh viên. Hiện nay, nhiều chủ nhà trọ cho rằng sinh viên
không còn “ngoan” và “dễ bảo” như trước. Vì vậy, họ có thái độ kì thị, nhiều khi bỏ mặc, không
quan tâm tới sinh viên và không hoàn thành trách nhiệm quản lý của mình. Sự vô trách nhiệm này
là một trong những nguyên nhân khiến điều kiện sinh hoạt tại các phòng trọ này không đảm bảo.
Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân từ phía các trường Đại học, Cao đẳng. Những nguyên
nhân này chủ yếu là những nguyên nhân khiến sinh viên phải tìm những chỗ trọ có cơ sở vật chất
không đảm bảo. Các khu ký túc xá chỉ đáp ứng được rất ít nhu cầu của sinh viên, và một số khó
khăn còn tồn tại trong sinh hoạt của sinh viên ở các ký túc xá như không cho phép đun nấu trong ký
túc xá, có nhiều người cùng ở một phòng. Bên cạnh đó, các trường cũng chưa có những quan tâm,
hỗ trợ cụ thể đến các sinh viên sống ngoài ký túc xá.
Chính quyền địa phương chưa có những quy định cụ thể trong việc quản lý các khu nhà trọ
sinh viên trên địa bàn, tạo điều kiện cho các khu nhà trọ có cơ sở vật chất không đảm bảo tồn tại và
tiếp tục được đưa vào kinh doanh là nguyên nhân tiếp theo của thực trạng trên.
5. Xu hướng biến đổi của cơ sở vật chất tại các khu nhà trọ sinh viên
Nếu không có những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao cơ sở vật chất tại các khu nhà trọ
sinh viên, điều kiện này sẽ ngày càng xuống cấp và ảnh hưởng nghiêm trọng tới những sinh viên
buộc phải sống tại đây. Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực đang “thay da đổi thịt” hàng ngày,
nhiều chủ nhà trọ sinh viên đã cho xây dựng lại khu nhà trọ để phục vụ mục đích và đối tượng cho
thuê khác khiến nhu cầu nhà trọ càng tăng cao đã gián tiếp ảnh hưởng tới xu thế biến đổi của cơ sở
vật chất tại các khu nhà trọ sinh viên. Bên cạnh đó, vấn đề nhà ở dành cho sinh viên đã được các cơ
quan chức năng quan tâm hơn. Hiện nay, đã có nhiều dự án xây dựng những khu nhà trọ sinh viên
có mức giá phù hợp và có điều kiện sinh hoạt đảm bảo.
16
ĐẶNG TIỂU BÌNH KHẮC PHỤC “TẢ KHUYNH” VỀ KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở TRUNG QUỐC
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Đặng Thị Hạnh
K50 Triết học
ThS. Nguyễn Văn Thiện
Như chúng ta đã biết Trung Quốc là một quốc gia lớn, có nền văn minh phát triển khá sớm.
Hiện nay, tuy Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn trên con đường đi lên CNXH nhưng
để hoàn thành được con đường đi lên CNXH không phải là dễ dàng mà đầy khó khăn thách thức
đang đặt ra đối với Trung Quốc.
Nhìn lại lịch sử để tổng kết, đánh giá những thành công cũng như những sai lầm đã mắc
phải trong quá khứ là một điều hết sức quan trọng cho nhân dân Trung Hoa trong sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Việt Nam và Trnng Quốc là hai quốc gia láng giềng có rất nhiều điểm tương đồng về văn
hóa, phong tục tập quán... đặc biệt là hai nước cùng lựa chọn con đường đi lên CNXH vì vậy việc
chỉ ra sai lầm đặc biệt là sai lầm “tả khuynh” sẽ là những điều rất quý báu cho Việt Nam trong sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1. Biểu hiện tả khuynh trong xây dựng kinh tế ở Trung Quốc (1958-1959)
* Được thể hiện trên tất cả các mặt:
Về nông nghiệp: Đất nước Trung Quốc lúc này dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch
Đông đã đưa ra những chỉ tiêu trong năm 1959 là sản phẩm nông nghiệp phải tăng 12% so với năm
1958. Điều này là rất khó đạt được bởi vì ở Trung Quốc lúc này sự phát triển của sức sản xuất vô
cùng khóa khăn, chậm chạp, trình độ của người nông dân hết sức lạc hậu, họ chưa tiếp thu được
trình độ khoa học kỹ thuật. Tư tưởng “muốn bao nhiêu lương thực là có thể sản xuất bấy nhiêu” chỉ
là ý muốn chủ quan của Chủ tịch Mao Trạch Đông.
Bên cạnh đó, ông còn thành lập hàng loạt các “công xã nhân dân” tại nông thôn , mà không
biết được rằng việc hợp tác xã nông nghiệp còn chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất, trình
độ quản lý... hay nói cách khác là chưa có sự tích luỹ đầy đủ về số lượng để dẫn tới một sự thay đổi
về chất là thành lập các “công xã nhân dân” tại nông thôn. tư tưởng này của Chủ tịch Mao Trạch
Đông là nóng vội muốn thay đổi quan hệ sản xuất bất chấp tình trạng bất cập của sức sản xuất.
Về công nghiệp: Để tiến lên CNXH thì công nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng nhưng
Chủ tịch Mao Trạch Đông lại mạo hiểm muốn đạt được kết quả to lớn ngay từ đầu đó là:
Xây dựng một nền công nghiệp nặng chiếm ưu thế với chỉ tiêu là 10,7 triệu tấn vào năm
1958 và 18 triệu tấn vào năm 1959.
Phát động phong trào toàn dân làm gang thép, nhà nhà làm gang thép mà không thấy được
rằng sản xuất công nghiệp ở Trung Quốc lúc đó chưa đáp ứng được đầy đủ các cơ sở vật chất cần
thiết, mặt khác nhiệt tình hăng hái sản xuất của người dân mất hẳn.
Về chế độ phân phối: Đường lối “tả” thể hiện rất rõ: Muốn thực hiện ngay nguyên tắc của
CNCS như tổ chức nhà ăn tập thể, ăn cơm không phải trả tiền... Nhà nước tổ chức quản lý tập trung
thống nhất.
17
Ưu điểm của nguyên tắc này: nó cho phép Nhà nước Trung Quốc có thể tập trung tiền vốn,
phương tiện kỹ thuật, vật tư... cho phép phát triển kinh tế.
Hạn chế: người sản xuất không phát huy được tính chủ động, tích cực sáng tạo trong sản
xuất, tính tự nguyện của người dân bị mất hẳn.
Về vấn đề sở hữu: xoá bỏ sở hữu tập thể tiến tới sở hữu toàn dân đưa CNXH quá độ lên
CNCS là đốt cháy giai đoạn, thực hiện sở hữu toàn dân là không phù hợp với thực tiễn lúc đó.
* Hậu quả của sai lầm “tả khuynh” thật to lớn:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, công nghiệp ở trong tìnht rạng đình trệ, giao thông vận
tải lạc hậu so với nông nghiệp nên ảnh hưởng đến sản xuất và lưu thông.
Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.
Thực tế này đã đòi hỏi ĐCS Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa và trách nhiệm
nặng nề đó đặt lên vai các nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình – nhà lãnh đạo kiệt xuất
của nhân dân Trung Hoa trước những sai lầm của đường lối “tả khuynh” do Chủ tịch Mao Trạch
Đông gây ra đã đề xuất những phương hướng chung của thời kỳ hiện đại hóa đất nước từng bước
đưa Trung Quốc thoát khỏi khủng hoảng và hình thành nên thế hệ lãnh đạo mới - thế hệ lãnh đạo
thứ hai do Đặng Tiểu Bình làm hạt nhân.
2. Đặng Tiểu Bình khắc phục “tả khuynh” tiến hành cải cách, mở cửa phát triển kinh tế xây
dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc
2.1. Xóa bỏ các “công xã nhân dân” trong sản xuất nông nghiệp, tiến hành giải phóng
sức sản xuất
Các công xã nhân dân được chuyển thành uỷ ban nhân dân xã, đại đội sản xuất được chuyển
thành thôn, đội sản xuất được chuyển thành xóm. Bên cạnh đó, tiến hành giải phóng sức sản xuất là
điều hoàn toàn đúng, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn.
“Học thuyết con mèo” của Đặng Tiểu Bình đó là: “cho dù là mèo trắng hay mèo đen miễm
bắt được chuột đều là mèo tốt cả”. Về thực chất “học thuyết con mèo” là tìm ra một hình thức phù
hợp để khôi phục sức sản xuất nông nghiệp, phát huy tối đa lòng tích cực hăng hái của quần chúng.
Học thuyết này căn bản phù hợp với luận điểm về giải phóng sức sản xuất, về cải cách mở cửa.
2.2. Xóa bỏ chế độ nhà nước bao cấp, quản lý tập trung, mở rộng quyền tự chủ của
người sản xuất
Quyền quản lý tập trung rất cao mà Chủ tịch Mao Trạch Đông thực hiện đã làm hạn chế tính
tích cực của từng cá nhân, họ không phát huy được tính năng động, sáng tạo của mình do đó
phương hướng chung của thời kỳ cải cách mở cửa là:
- Xóa bỏ chế độ nhà nước bao cấp, quản lý tập trung thống nhất.
- Mở rộng quyền tự chủ của người sản xuất trên ba cấp: cho địa phương, cho xí ngiệp và cho
chính cá nhân người sản xuất.
2.3. Tiến hành cải cách bắt đầu từ nông thôn
Nhân khẩu ở nông thôn Trung quốc chiếm 80% dân số cả nước, nông nghiệp đóng vai trò
quan trọng do đó, tiến hành cải cách bắt đầu từ nông thôn là điều hoàn toàn đúng.
Quá trình cải cách ở nông thôn được bắt đầu bằng chế độ “khoán sản đến hộ” với những ưu
điiểm sau:
18
- Sử dụng được thế mạnh của nông nghiệp gia đình truyền thống có nguồn lao động dồi dào.
- Kết hợp trực tiếp tư liệu sản xuất - người lao động, trực tiếp gắn kết kết quả lao động với
mức thù lao.
Chế độ khoán sản đến hộ đã đem lại kết quả: sản phẩm nông nghiệp phong phú, đa dạng từ
nông thôn vào thành thị. Sự thành công của cải cách ở nông thôn đã chứng minh đồng chí Đặng
Tiểu Bình đúng, quyền uy của Đặng Tiểu Bình với tư cách là tổng thiết kế sư của sự nghiệp cải
cách, mở cửa ở trung Quốc đã được xác lập. Bức tranh tổng thể về cải cách ở Trung Quốc đã hiện ra
rõ nét trong tâm trí ông.
2.4. Phát triển kinh tế thị trường XHCN, nhiều thành phần kinh tế phi công hữu cùng
tồn tại
Kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc là nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch dựa trên cơ sở
của chế độ công hữu. Kinh tế hàng hóa có kế hoạch XHCN là phải thống nhất nội tại giữa kế hoạch
và thị trường. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế phi công hữu như: kinh tế tư doanh, kinh tế cá
thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài... đóng vai trò bổ sung. Các thành phần kinh tế khác có thể tự
nguyện liên doanh bằng nhiều hình thức. Quá trình điều chỉnh cải cách thực hiện mục tiêu “bốn
hiện đại hóa”: nông nghiệp hóa, công nghiệp hóa, quốc phòng hóa, khoa học kỹ thuật hóa ở Trung
Quốc trong 20 năm đã đạt được kết quả to lớn:
- Tổng giá trị sản phẩm trong nước, tổng kim ngạch bán lẻ hàng hóa xã hội có sự thay đổi
trong so sánh giữa hai năm 1978 và 1997.
- Đời sống nhân dân được cải thiện.
2.5. Tổng kêt kinh nghiệm sau 20 năm đổi mới và bài học rút ra cho Việt Nam
Việt Nam từ thực tiễn cải cách kinh tế ở Trung Quốc đã tiếp thu được những bài học kinh
nghiệm quý báu:
- Phát triển kinh tế tư nhân hỗ trợ kinh tế nhà nước
- Đa dạng hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, thực hiện chế độ công hữu đẩy mạnh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước. Lấy phân phối theo lao động làm chủ. Tạo động lực phát triển có hiệu quả
kinh tế tập thể.
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kết luận
Thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1978-1997) đã chứng minh đường lối cải cách của đồng chí
Đặng Tiểu Bình đúng, tư tưởng “tả” được khắc phục không những đem lại cuộc sống hạnh phúc cho
nhân dân, tạo bước phát triển đi lên cho đất nước mà còn là một đóng góp to lớn cho hòa bình và
phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu đã thu được, những kinh nghiệm đã có trong thế kỷ XX đã chuẩn bị hành
trang cho Trung Quốc vững bước vào thế kỷ XXI đầy cơ hội nhưng cũng lắm thách thức.
Cùng với Trung Quốc, công cuộc đổi mới ở nước ta được tính từ Đại hội VI (1986) đến nay
đã được hơn 20 năm. Thực tế cho thấy bộ mặt đất nước đã được thay đổi, đời sống nhân dân đã
được cải thiện. Bước vào thế kỷ XXI thế giới có nhiều biến đổi, nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức đan xen, tác động phối hợp và diễn biến phức tạp. Những khó khăn này sẽ là một thách
thức để Đảng và dân tộc ta khẳng định được trí tuệ, bản lĩnh và sức lực của mình trong cuộc đấu
tranh vì hòa bình - độc lập dân tộc - dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ
những bài học thành công và thất bại, từ sự thức tỉnh và khát vọng của các dân tộc có điều kiện và
19
khả năng sẽ tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người sẽ tiến lên
CNXH.
20
NGHIÊN CỨU SỰ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN K52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN VỚI ĐÀO TẠO TÍN CHỈ
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Đặng Thị Bích Hằng, Phạm Thị Hoà, Hoàng Mai Anh
K50, K51 Tâm lý học
PGS.TS. Nguyễn Hữu Thụ
A. MỞ ĐẦU
- Thích ứng là một phẩm chất quan trọng, giúp con người tồn tại phát triển trong hoàn cảnh
sống nhiều biến động
- Mô hình đào tạo tín chỉ mang tính tích cực cao nhưng cũng yêu cầu người học phải cố
gắng thích ứng nhằm đạt kết quả học tập cao.
- Ở Trường ĐHKHXH&NV sinh viên K52 là khoá đầu tiên được đào tạo theo tín chỉ. Sau 1
học kỳ liệu sinh viên K52 đã thích ứng được chưa và thích ứng ở mức độ nào?
B. NỘI DUNG
I - Thực trạng thích ứng của sinh viên K52 Trường ĐHKHXH&NV với đào tạo tín chỉ
1. Ở mặt nhận thức
1.1. Nhận thức của sinh viên K52 về đặc điểm, mục đích của ĐTTC:
- Sau một học kỳ, đa phần sinh viên K52 đã nhận thức khá đầy đủ về đặc điểm cũng như
mục đích của chương trình ĐTTC. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa có cái nhìn toàn
diện, mới dừng ở mức độ nhận thức ban đầu về mục đích, đặc điểm của ĐTTC.
1.2. Nhận thức của sinh viên K52 về nội dung chương trình học trong đào tạo tín chỉ:
Sinh viên đã nhận thức được những yêu cầu đòi hỏi cao của chương trình ĐTTC và việc đáp
ứng được những yêu cầu đó không hề dễ dàng.
1.3. Nhận thức của sinh viên K52 về vai trò của việc hình thành các kỹ năng học tập trong
ĐTTC:
- Phần lớn sinh viên thừa nhận họ thiếu các kỹ năng, phương pháp học phù hợp. Điều này
cản trở rất lớn tới quá trình học tập, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của mỗi cá nhân.
- Các kỹ năng được đánh giá quan trọng: kỹ năng đọc sách, kỹ năng tự học, kỹ năng lập kế
hoạch và sử dụng thời gian hợp lý.
1.4. Nhận thức của sinh viên K52 về các quy định đối với thời gian học, kiểm tra đánh giá
của nhà trường:
- Mỗi sinh viên có một thời khoá biểu riêng do phòng Đào tạo trực tiếp sắp xếp. Tuy nhiên
76,1% sinh viên cho rằng thời khoá biểu do nhà trường sắp xếp là chưa hợp lý.
Sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về thời gian học theo ĐTTC, vẫn mang lối nhận thức cũ
để nhìn nhận, đánh giá việc bố trí thời gian học theo mô hình đào tạo mới.
21
- Sinh viên có nhận thức tốt các hình thức kiểm tra, đánh giá cũng như là những mặt tích cực
của hình thức này. Điều này giúp sinh viên có sự chuẩn bị tốt hơn cho việc kiểm tra và sẽ có cơ hội
đạt kết quả cao.
2. Ở mặt thái độ, tình cảm
2.1. Thái độ đối với những thông tin về ĐTTC:
- SV K52 đã thể hiện thái độ quan tâm đến những thông tin về ĐTTC.
2.2 Thái độ đối với các quy định về thời gian học, kiểm tra, đánh giá của nhà trường
Hầu hết số sinh viên K52 thể hiện thái độ chưa đồng tình với quy định về thời gian học của
nhà trường nhưng họ lại chấp nhận các quy định về kiểm tra, đánh giá của nhà trường.
2.3. Thái độ với việc tự học, học theo nhóm và thảo luận trên lớp
Các bạn SVK52 đã có thái độ đúng đắn và nghiêm túc đối với việc tự học. Họ cũng đánh giá
cao việc học theo nhóm và thảo luận trên lớp nên đã có thái độ nghiêm túc với hoạt động này.
2.4. Thái độ đối với kết quả học tập
Trước kết quả học tập ở học kỳ I, hầu hết SVK52 đều thể hiện thái độ không hài lòng.
2.5. Sự gắn kết giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với giảng viên, sinh viên với tập thể
lớp, khoa, trường
Là sinh viên năm thứ nhất, họ đang dần thiết lập các mối quan hệ mới, đặc biệt là với bạn bè
và sinh viên khoá trên. Họ còn gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với khoa, với
trường nhưng họ rất mong muốn được tạo điều kiện tiếp xúc gặp gỡ các thầy cô, cán bộ của khoa,
của trường.
3. Ở mặt hành vi:
3.1. Thích ứng với hoạt động học tập trên lớp:
3.1.1. Thích ứng với nội dung chương trình học:
Với năng lực và những kĩ năng hiện có, sinh viên K52 chưa thích ứng được với nội dung
của chương trình học.
3.1.2. Thích ứng với thời gian học trên lớp:
Trong ĐTTC, tuy nói là thời gian lên lớp ít nhưng sinh viên vẫn phải đến trường cả ngày,
khiến sinh viên không còn thời gian để tự học và nghỉ ngơi.
Sinh viên thấy mệt mỏi khi học theo thời khoá biểu mà nhà trường đã sắp xếp. Phần lớn họ
chưa thích ứng được với kiểu thời gian học theo ĐTTC này.
3.1.3. Thích ứng với phương pháp giảng dạy của giảng viên:
- Trong mô hình ĐTTC thì vai trò của người thầy là chỉ dẫn, định hướng bài học để sinh
viên tự chiếm lĩnh tri thức. Tuy nhiên, tình trạng “đọc- chép”, dạy theo cách “bày sẵn” vẫn tồn tại.
Việc tổ chức các buổi thảo luận của thầy cô, theo đánh giá, nhiều khi chưa có hiệu quả. Việc sử
dụng trang thiết bị hỗ trợ chưa được phát huy.
3.1.4. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy, học tập:
22
- Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh
viên: chưa đồng bộ, chưa đầy đủ...
3.2. Thích ứng với hoạt động tự học:
3.2.1. Thích ứng với việc xây dựng kế hoạch và phân bố thời gian hợp lý:
Sinh viên đã chủ động với hoạt động tự học của mình, đã lập kế hoạch cụ thể nhưng lại
không thực hiện được theo kế hoạch đó.
3.2.2. Thích ứng với việc đọc sách:
Do nhiều nguyên nhân, một số sinh viên chưa có được phương pháp đọc sách hiệu quả cũng
như chưa có khả năng tổng hợp tài liệu. Nhiều người đã cố gắng để nâng cao hiệu quả của việc đọc
sách bằng nhiều biện pháp.
3.2.3. Thích ứng với việc tìm và tổng hợp tài liệu:
Sinh viên coi trọng việc tìm kiếm tài liệu và đã tìm từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng họ
đánh giá nguồn tài liệu đó chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của môn học.
3.3. Thích ứng với hoạt động làm việc nhóm và thảo luận nhóm:
3.3.1. Mức độ họp nhóm:
Hoạt động học tập theo nhóm của sinh viên K52 vẫn chưa thực sự được phát huy một cách
chủ động, cho thấy họ chưa thích ứng được với hình thức học này.
3.3.2. Nội dung khi họp nhóm:
Phần lớn các bạn sinh viên K52 đã có thái độ nghiêm túc khi làm việc nhóm. Nhưng bên
cạnh đó vẫn còn một số sinh viên chưa tập trung khi làm việc trong nhóm mà họ lại ngồi nói
chuyện, tán gẫu với nhau.
3.3.3. Mức độ phát biểu của sinh viên K52 trong những buổi thảo luận trên lớp:
Nhìn chung tinh thần học tập của sinh viên K52 trong các buổi thảo luận trên lớp còn rất
trầm lặng, thụ động. Các bạn chưa sôi nổi hào hứng trao đổi với nhau về kết quả làm việc nhóm của
mình
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên K52 với đào tạo tín chỉ
1. Các yếu tố chủ quan: như nhu cầu, động cơ, hứng thú của chủ thể, nhận thức của chủ
thể, mặt năng động của chủ thể, các đặc điểm tâm sinh lý của chủ thể.
2. Các yếu tố khách quan: như yêu cầu, nhiệm vụ của chương trình đào tạo, điều kiện cơ sở
vật chất kĩ thuật, mối quan hệ với những người xung quanh, hứng thú, sự định hướng nghề trước
khi và sau khi vào trường.
III. Đánh giá mức độ thích ứng của sinh viên K52 Trường ĐHKHXH&NV với đào tạo tín chỉ
1. Ở mặt nhận thức
- Về đặc điểm, mục đích của ĐTTC, phần đông sinh viên đã có nhận thức đúng đắn.
- Một số lượng đáng kể SVK52 đã nhận thức được yêu cầu, nhiệm vụ mà chương trình học
đặt ra và ý thức được mức độ khó khăn của việc thực hiện các yêu cầu đó.
23
- Hầu hết sinh viên đánh giá cao vai trò, tầm quan trọng của việc hình thành các kỹ năng học
tập ở ĐH, đặc biệt là trong mô hình ĐTTC.
- SVK52 chưa có cái nhìn đúng đắn về thời gian học theo ĐTTC
- 2/3 số sinh viên được hỏi nhận thức tốt về các hình thức cũng như quá trình kiểm tra đánh
giá của nhà trường trong ĐTTC.
2. Ở mặt thái độ
- Phần đông có thái độ nghiêm túc, quan tâm đến những thông tin về ĐTTC.
- Với quy định về thời gian học, họ tỏ ra chưa đồng tình và thấy mệt mỏi khi học theo TKB.
- Đa phần, SVK52 đánh giá quá trình kiểm tra của nhà trường trong mô hình đào tạo mới là
khách quan, chính xác.
- Họ có thái độ đúng đắn, nghiêm túc, coi trọng việc tự học cũng như học tập theo nhóm.
- Với kết quả học tập đạt được trong học kỳ I, hầu hết SVK52 chưa hài lòng vì kết quả đó
chưa cao.
- Bước đầu sinh viên đã tạo lập được các mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, với khoa, với
trường.
3. Ở mặt hành vi
- SVK52 phần lớn chưa thực sự thích ứng với hoạt động học tập trên lớp
- Một số lượng lớn SVK52 đang dần thích nghi với hoạt động tự học.
- Với hoạt động học tập theo nhóm: Hầu hết SVK52 đã thành lập các nhóm học tập cho
mình nhưng chưa làm việc thường xuyên
Sau một học kỳ, với sự thích ứng bước đầu kết quả học tập của SVK52 Trường
ĐHKHXH&NV đạt được ở mức độ nhất định.
Như vậy, sự thích ứng diễn ra không đồng đều giữa sinh viên của các khoa.
Kết luận - Kiến nghị
- Giả thuyết khoa học đưa ra ban đầu là đúng đắn. Phần lớn sinh viên K52 Trường
ĐHKHXH&NV qua một học kỳ được đào tạo theo tín chỉ đã nhận thức được ưu điểm, ý nghĩa tích
cực của mô hình ĐTTC nhưng chưa thực sự thích ứng và kết quả học tập chưa thật cao; sự thích
ứng diễn ra chậm và không đồng đều.
- Sinh viên có nhận thức đúng đắn, tương đối đầy đủ về ĐTTC.
- Hầu hết SV có thái độ tích cực, phù hợp với quy định, chương trình của ĐTTC
- SV chưa có những hành vi tích cực đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của ĐTTC. Kết quả học
tập đạt được chưa cao.
- Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến thực trạng thích ứng là yếu tố chủ quan cụ thể là
tính tích cực năng động của chủ thể.
24
TÌM ĐƯỜNG VÀO THẾ GIỚI THƠ HÀN MẶC TỬ BẰNG PHƯƠNG PHÁP
TÂM PHÂN HỌC MỞ
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Mạnh Hùng
K49 Văn học
PGS. TS. Đoàn Đức Phương
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tìm đường vào thế giới thơ Hàn Mặc Tử bằng phương pháp tâm phân học mở là cố gắng để
đáp ứng những đòi hỏi bức thiết có tính thời sự.Về mặt lí luận đã đến lúc nhiều phương pháp nghiên
cứu mới, nhất là các phương pháp nghiên cứu tích cực của phương Tây cần được giới thiệu đầy đủ
hơn.Về mặt lịch sử văn học: Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt
Nam thế kỉ XX đòi hỏi có những sự tiếp cận xác đáng hơn nữa, toàn diện hơn nữa.
2. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu
Công trình được xây dựng trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ tìm hiểu rõ hơn, hệ thống hơn về
phương pháp tâm phân học văn học nghệ thuật, đồng thời mở rộng phương pháp đó theo những
chiều kích cho phép.
Công trình cũng xác định nhiệm vụ trung tâm là tìm ra một con đường mới tiếp cận thế giới
thơ Hàn Mặc Tử. Từ đó khơi sâu thêm vào tận cùng thế giới thơ Hàn Mặc Tử và góp phần lí giải
những vướng mắc nhiều chiều về hiện tượng thơ phức tạp này
3. Đối tượng nghiên cứu, khảo sát
Đối tượng nghiên cứu cụ thể của công trình; về lí luận, là các sáng tác kinh điển của tâm
phân học; về thực tiễn, là toàn bộ sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử (chúng tôi dựa vào văn bản thơ Hàn
Mặc Tử ở công trình Hàn Mặc Tử tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Phan Cự Đệ, NXB Văn học,
2002 làm đối tượng khảo sát chính về mặt văn bản).
4. Phương pháp nghiên cứu
Công trình được thực hiện với phương pháp chủ đạo là phương pháp nghiên cứu văn học
theo tâm phân học. Để đạt được hiệu quả cao nhất, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác như
phương pháp tiểu sử, phương pháp thống kê định lương… để bổ trợ cho việc thực hiện nghiên cứu
5. Dự kiến đóng góp
Về mặt lí luận, công trình này góp phần vào giới thiệu một cách hệ thống những tri thức nền
tảng về tâm phân học văn học nghệ thuật.Về mặt văn học sử, công trình này đưa ra những kiến giải
riêng góp phần khơi sâu vào hiện tượng thơ Hàn Mặc Tử, đánh giá khẳng định vị thế của nhà thơ
trong tiến trình thơ ca dân tộc.
B. NỘI DUNG
Chuơng I. Về phương pháp tâm phân học mở
25