Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.78 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Văn học dân gian luôn là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống, là niềm tự hào của dân
tộc. Trong tất cả các loại hình văn học dân gian ấy, tục ngữ tồn tại như một vẻ đẹp của tri
thức. Đến với kho tàng tục ngữ là đến với những tri thức, những kinh nghiệm nếp sống
của nhân dân ta đã đúc kết từ ngàn năm trước. Vì thế dù cho thời gian có trôi nhanh, xã
hội thay đổi thì những tri thức, những kinh nghiệp ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Qua quá trình tìm hiểu, tiếp xúc ta có thể thấy rằng, dù chứa nhiều tri thức như thế
nhưng tục ngữ rất gần gũi và dễ hiểu. Bởi chất liệu tạo nên tục ngữ là những hiện tượng,
sự vật tồn tại xung quanh cuộc sống con người như: Động vật, thực vật, các đồ dùng sinh
hoạt hay các hiện tượng tự nhiên. Nhưng ẩn đằng sau những sự vật gần gũi, bình dị ấy là
một ý nghĩa sâu xa, bài học về đạo lí. Đúng như Chu Xuân Diên – Lương Văn Đang –
Phương Tri đã nhận xét: “Trong vốn tục ngữ của người Việt, bên cạnh những câu có một
nghĩa – nghĩa đen, còn có rất nhiều câu có hai nghĩa – nghĩa đen và nghĩa bóng”[3;
142]. Hay các tác giả Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ cũng đã khẳng định
rằng: “ Tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa: Nghĩa đen (hay là nghĩa gốc) và nghĩa bóng
(trường nghĩa)”[15; 197]. Để chỉ hạng người vong ơn, bội nghĩa, khi được việc rồi thì
quên ơn người đã giúp đỡ mình, tục ngữ có câu:
“Ăn cháo đá bát”.
Hay để chỉ sự thay lòng đổi dạ, thấy mới quên cũ, tục ngữ có câu:
“Có trăng quên đèn”.
Qua đó ta thấy, những đồ vật hay những hiện tượng quen thuộc khi đi vào tục ngữ
đã khoác lên mình một nghĩa mới, khái quát hơn, sâu sắc hơn. Để có dduocj điều đó thì
ẩn dụ là một trong những phương thức cơ bản. Càng đọc, càng tìm hiểu, càng thấy thú vị.
Chính vì thế người viết chọn đề tài Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam nhằm
làm sáng tỏ sự hấp dẫn và ý nghĩa trong tục ngữ. Tiếp thu những kinh nghiệm được đút
kết từ bao đời của ông cha ta. Nhằm kế thừa và phát huy những cái hay, cái đẹp ấy.
2. Lịch sử vấn đề

Hiện nay, vấn đề nghiên cứu tục ngữ Việt Nam rất được các nhà nghiên cứu quan


tâm. Qua quá trình tìm hiểu người viết nhận thấy một số công trình nghiện cứu về tục
ngữ như sau:
Vũ Ngọc Phan, có công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam. Công trình này đem
đến cho chúng ta những kiến thức sâu sắc hơn về tục ngữ và cả ca dao, dân ca. Ông phân
biệt điểm giống, khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ. Đồng thời cũng nêu rõ khái niệm,
nội dụng và cả hình thức trong tục ngữ.
Chu Xuân Diên - Lương Văn Đang - Phương Tri, với quyển Tục ngữ Việt Nam.
Công trình này, các tác giả đã tập trung sưu tập và nghiên cứu về tục ngữ trong đó còn có
1


phần tiểu luận về tục ngữ Việt Nam. Ở phần tiểu luận này Chu Xuân Diên đã đi sâu vào
nghiên cứu về nhiều khía cạnh của tục ngữ từ nội dung đến hình thức và mối quan hệ của
tục ngữ với lối sống của thời đại, với lối nghĩ của nhân dân và cả lối nói của dân tộc.
Đồng thời ông cũng chứng minh rằng tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội.
Chu Xuân Diên, có công trình Lời ăn tiếng nói của nhân dân. Công trình này gồm
hai phần chính đó là tục ngữ và câu đố. Phần tục ngữ tác giả chủ yếu nói về khái niệm và
nội dung phản ánh của tục ngữ có thể kể đến như: Tục ngữ nói về hiện tượng thời tiết, nói
về kinh nghiệm và những kỹ thuật trồng trọt, tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh
thần sáng tạo trong lao động. Phản ánh tập trung sinh hoạt hằng ngày của người dân,
phản ánh truyền thống tư tưởng và đạo đức. Bên cạnh đó thì ông còn phân biệt sự giống
và khác nhau giữa tục ngữ và ca dao.
Nguyễn Thái Hòa, với Tục ngữ Việt Nam - cấu trúc và thi pháp. Công trình này đã
đem đến cho ta những kết luận mới mẻ về tục ngữ ở góc độ ngôn ngữ văn học.
Hoa Bằng, có bài viết Tục ngữ và ca dao nguồn văn liệu phong phú. Bài viết này
viết về công lao, vai trò của tục ngữ ca dao vừa có thể ghi chép lại lịch sử triều đại, vừa
lên án các bất công, phi pháp. Nói lên tính vị nhân sinh trong tục ngữ, ca dao. Đồng thời
tục ngữ ca dao làm điển cố cho văn chương, tư liệu cho nhà văn khiến cho thơ văn thêm
bóng bẩy nhưng nhẹ nhàng bình dị.
Trịnh Như Luân, có bài viết Cách chiêm nghiệm và cuộc sinh hoạt của người xưa

theo ca dao tục ngữ. Bài viết này tập trung nói về cuộc sông của những người xưa thế hệ
trước với biết bao là kinh nghiệm sống. Bao gồm kinh nghiệm về dự báo thời tiết, kinh
nghiệm trong lao động sản xuất và những bài học luân lý để răn dạy con cháu đời sau, răn
dạy đời.
Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên
công trình nghiên cứu về Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam vẫn khá ít và chưa
chuyên sâu tìm hiểu một cách trọn vẹn hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ. Vì thế, người viết
chọn đề tài niên luận của mình là “Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam”. Dù các tác
giả viết về khía cạnh nào đi nữa, dù viết trực tiếp hay gián tiếp. Tôi xin kế thừa những
thành tựu của các nhà nghiên cứu, phê bình.
3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam, người viết nhằm đạt được
những mục đích sau:
Người viết muốn hiểu hết được cái hay, cái đẹp, những kinh nghiệm sống trong tục
ngữ. Bởi tục ngữ là một di sản quý giá mà ông cha ta thế hệ đi trước đã để lại.
Củng cố và vận dụng tất cả những kiến thức đã học để tìm hiêu sâu hơn về tục ngữ
đặc biệt là ở khía cạnh ẩn dụ trong tục ngữ. Người viết muốn giúp bản thân và bạn đọc có
thê có cái nhìn sâu sắc hơn về ý nghĩa những ẩn dụ bên trong của tục ngữ.

2


Ngoài ra, người viết cũng muốn hiểu về tục ngữ một cách hoàn thiện hơn. Bởi tục
ngữ là món ăn tinh thần của nhân dân ta, đó là tinh hoa của trí tuệ. Ngày nay thì thế hệ trẻ
đang dần quên lãng đi nền di sản đáng quý này mà chỉ đi theo những cái mới lạ của xã
hội, không biết được hết cái hay cái tốt trong tục ngữ. Chính vì thế người viết muốn giúp
cho bản thân cũng như bạn đọc biết quý trọng, giữ gìn và phát triễn nét đẹp văn hóa của
dân tộc.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam, người viết đã xác định đối tượng
nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu: Hình ảnh ẩn dụ trong tục ngữ Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Những câu tục ngữ có hình ảnh ẩn dụ trong quyển “Tục ngữ
Việt Nam” của nhóm tác giả Chu Xuân Diên – Lương Văn Đan – Phương Trị và quyển
“Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Phan.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài niên luận này, người viết đã sử dụng những phương pháp và
thao tác nghiên cứu sau:
Phương pháp khảo sát, thống kê: Đọc và thống kê tất cả những câu tục ngữ có hình
ảnh ẩn dụ
Phương pháp phân tích: làm sáng tỏ kết hợp với đánh giá các câu tục ngữ, nhằm
mục đích chỉ ra cái hay cái đẹp trong tục ngữ.
Phương pháp phân tích tổng hợp: trong khi phân tích người viết cũng huy động tất
cả các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận,... Đồng thời, so sánh đối chiếu để làm
nổi bật vấn đề nghiên cứu. Sau cùng trình bày kết quả thu được qua quá trình nghiên cứu,
người viết kết hợp cả hai phương pháp diễn dịch và quy nạp.

3


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TU TỪ ẨN DỤ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM
1.1. Vài nét về tu từ ẩn dụ
1.1.1. Khái niệm ẩn dụ

Nhắc đến khái niệm ẩn dụ Phan Thế Hưng cũng đã định nghĩa khá đầy đủ: “Ẩn dụ
là phép thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật hiện tượng khác
loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa chúng theo đặc điểm thuộc tính nào đó

cùng có ở chúng” [ngôn ngữ số 4,7-12]. Ẩn dụ không chỉ là phép so sánh ngầm mà chính
là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu trúc bề sâu của tư duy.
Bởi ẩn dụ là phương thức tu từ dựa trên sự đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể
hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì được giấu đi một cách kín đáo.
Ví dụ như trong ca dao:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Ở đây “thuyền” ẩn dụ cho người con trai, vô định, “bến” nói đến người con gái, cố
đinh. Qua đó thể hiện được sự chia li người đi kẻ ở và tình cảm của đôi trai gái.
Còn trong tục ngữ, ẩn dụ làm cho cái được nói đến thêm ý nghĩa, bổ sung, nhấn
mạnh, biểu hiện cảm xúc:
Cá lớn nuốt cá bé
Ở đây không chỉ nói đến việc cá lớn thì có thể ăn cá nhỏ mà đây là sự chê trách
những kẻ có quyền thế thường bắt nạt, đàn áp kẻ yếu hơn.
Qua đó ta thấy, ẩn dụ là một yếu không kém phần quan trọng trong việc góp phần
tạo nên thành công trong ca dao, trong văn học và đặc biệt là trong tục ngữ. Nhưng cũng
có những trường hợp trong tục ngữ không chứa hình ảnh ẩn dụ như tục ngữ về thời tiết,
khí hậu.
1.1.2.

Phương thức ẩn dụ
Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên sự vật b, c, d
vì giữa a, b, c, d có điểm giống nhau. Hay nói cách khác, phương thức ẩn dụ là phương
thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật liên tưởng tương đồng.
Có hai hình thức chuyển nghĩa:
+ Dùng cái cụ thể để nói đến cái cụ thể (ẩn dụ cụ thể - cụ thể).
_Ví dụ: Người ta như hoa ở đâu thơm đấy.
+ Dùng cái cụ thể đẻ nói đến cái trừu tượng (ẩn dụ cụ thể - trừu tượng).
_Ví dụ: Người ta là hoa đất.
4



Một số cơ chế chuyển nghĩa của phương thức ẩn dụ thường thấy:
+ Dựa vào sự giống nhau về hình thức của các sự việc, hiện tượng.
_Ví dụ: Lá lành đùm lá rách.
+ Dựa vào sự giống nhau về vị trí của các sự việc, hiện tượng.
_Ví dụ: Con vua thì lại làm vua, con sải trong chùa thì quét lá đa.
+ Dựa vào sự giống nhau về cách thức của các sự việc, hiện tượng.
_Ví dụ: Có cấy có trong có trồng có ăn.
+ Dựa vào sự giống nhau về chức năng của các sự việc, hiện tượng.
_Ví dụ: Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
+ Dựa vào sự giống nhau về tính chất, trạng thái hoặc kết quả của các đặc trưng.
_Ví dụ: Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế trên không phải bao giờ cũng rành mạch. Trong
một số trường hợp thì không chỉ có một mà còn rất nhiều nét nghĩa.
1.2. Vài nét về tục ngữ Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tục ngữ
Tục ngữ là một bộ phận của văn học dân gian, là kho tàng trí tuệ của dân tộc ta. Tục
ngữ là một thể loại gần gũi và quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Có nhiều ý kiến
cũng như quan niệm khác nhau về khái niệm của tục ngữ có thể kể đến như sau:
Đầu tiên phải nhắc đến khái niệm tục ngữ của Vũ Ngọc Phan trong công trình
nghiên cứu và sưu tầm về tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam: “Tục ngữ là một câu tự nó
diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê
phán”[14 ; 38].
Cũng đồng nhất với ý kiến của Vũ Ngọc Phan, ông Hoàng Tiến Tựu cũng đưa ra
một khái niệm về tục ngữ như sau: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có chứ
năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét dưới hình thức
những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu dễ nhớ, dễ truyền” [17 ; 18].
Dương Quảng Hàm thì cho rằng: “Một câu tục ngữ nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc
khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì”[5 ; 15].

Trong bài giảng văn học dân gian 2, Phạm Thu Hằng có đưa ra nhận xét về tục ngữ:
“Tục ngữ là thể loại văn học dân gian, gồm những câu nói ngắn gọn, ổn định có vần
điệu, dễ nhớ, dễ truyền, nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân về mọi mặt
(thiên nhiên, lao động, sản xuất, con người, xã hội,…)”[7 ; 14].
5


Bùi Mạnh Nhị có bài viết “Tục ngữ” được in trong Văn học dân gian - những công
trình nghiên cứu cũng định nghĩa về tục ngữ: “Tục ngữ là những câu nói dân gian, ổn
định, có nhịp điệu, hình ảnh và thường mang nhiều ý nghĩa"”[13 ; 242].
Hay trong “Từ điển thuật ngữ văn học” do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn
Khắc Phi chủ biên cũng đã đưa ra định nghĩa: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian
mà chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức ngắn gọn, súc tích,
giàu vần điệu, hình ảnh để dễ nhớ, dễ truyền”[6 ; 310].
Ngoài ra thì cũng còn rất nhiều khái niệm khác như: “Tục ngữ là những câu nói
ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo nên và lưu truyền qua
nhiều thế kỷ" ,…
Qua khảo sát ta thấy có nhiều ý kiến, quan điểm và những cách diễn đạt khác nhau.
Nhưng ở tất cả những khái niệm, định nghĩa trên đều có một ý chung đó là tục ngữ là
những câu nói dân gian, ngắn gọn và phản ánh được những phương diện, khía cạnh của
đời sống.
1.2.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ

Đôi khi giữa thành ngữ và tục ngữ rất khó xác định ranh giới giữa chúng. Có rất
nhiều tác giả, công trình nghiên cứu đi tìm ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ.
Có thể khái quát như sau:
Giống nhau: Hai thể loại này đều có những đặc điểm, vai trò rất giống nhau: Ngắn
gọn, cô động, dễ hiểu.
Khác nhau:
Những đặc trưng dùng làm Tục ngữ

tiêu chí nhận diện

Thành ngữ

Hình thức cấu tạo

Tối thiểu là một câu hoàn Là một cụm từ, tổ hợp từ có
chỉnh có kết cấu hai trung kết cấu một trung tâm
tâm, có thể thêm hoặc bớt không thể thêm bớt các yếu
các yếu tố tu từ.
tố tu từ.

Về nội dung

Biểu thị phán đoán mang Biểu thị khái niệm mang
tính chất quy luật
tính chất hiện tượng

Chức năng

Thông báo, nhận định, kết Định danh sự vật, hiện
luận về một phương diện tượng có tính chất hành
của hiện thực khách quan.
động.

6


1.2.3. Nội dung tục ngữ


Căn cứ vào nội dung phản ánh người ta chia tục ngữ thành ba loại: phản ánh về
thiên nhiên - lao động sản xuất, tục ngữ về lịch sử - xã hội, tục ngữ về tư tưởng đạo đức,
lối sống, triết lý dân gian.
1.2.3.1. Tục ngữ về thiên nhiên lao động sản xuất

Tục ngữ về thiên nhiên lao động sản xuất chuyên phản ánh những kinh nghiệm được
con người đúc kết từ quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân lao động. Nước ta là
một nước nông nghiệp, có nền khoa học kĩ thuật lạc hậu. Chính vì thế mà những người
dân lao động đã tự đút kết cho mình những kinh nghiệm rồi đưa những kinh nghiệm ấy
vào vận dụng thực tiễn. Đồng thời cũng truyền lại cho thế hệ sau và nó trở thành kho tri
thức vô giá của nhân dân ta. Trong quá trình lao động sản xuất thì khí hậu, thời tiết là yếu
tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của sản phẩm. Từ đó, nhân
dân đã quan sát kĩ các hiện tượng tự nhiên, các đặc diểm sinh học của con vật để đút kết
những kinh nghiệm phong phú cho bản thân.
_Mỡ gà thời gió, mỡ chó thời mưa.
_Tháng bảy kiến bò đại hàn hồng thủy.
_Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
_Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
Tục ngữ về lao động sản xuất rất phong phú, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề:
Nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, nghề đan, nghề dệt, làm gốm,làm muối,…
_Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
_Tốt giống tốt má, tốt mạ, tốt lúa.
_Trâu hoa tai, bò gai sừng.
_Tôm chạng vạng, cá rạng đông.
_Nhất hồ, nhì da, thứ ba dệt.
_Nhất dáng, nhì men, ba chàm, bốn vẽ.
_Khéo đan lông mốt, dốt đan lồng hai.
_Được nắng trắng muối.
_Nhất lửa mạ, nhì hạ lửa con.
Có thể thấy, tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo

của nhân dân trong lao động đó là những tri thức vô giá được rút ra từ thực tiễn cuộc
7


sống. Đa số những kinh nghiệm ấy đến nay vẫn phù hợp và còn được áp dụng nhưng bên
cạnh đó cũng có một số không còn phù hợp. Dù như thế thì nhân dân vẫn nhớ đến chúng.
1.2.3.2.

Tục ngữ về các hiện tượng lịch sử - xã hội

Bên cạnh những câu tục ngữ về lao động sản xuất ta còn bắt gặp vô số câu tục ngữ
về các hiện tượng lịch sử - xã hội. Nhắc đến một thời lịch sử xa xôi với những biến động
thay đổi, phản ánh cuộc sống, tập quán thị hiếu, cuộc sống đấu tranh của nhân dân. Đầu
tiên ta có thể dễ dàng nhận thấy, đó chính là những kí ức về thời xa xưa, bất phân, sống
chung trại.
_Ăn lông ở lổ.
_Năm cha ba mẹ.
Một số biến đổi về kinh tế - chính trị, kinh nghiệm đánh giặc và nhân vật lịch sử
cũng được nhân dân ta ghi lại một cách đầy đủ, dễ hiểu trong những câu tục ngữ.
_Cờ bay Sơn Đông, ngựa lồng Chương Dương.
_Hai mươi mốt Lê Lai, hai mươi hai Lê Lợi, hai mươi ba giỗ mụ Hàng dầu.
Một số tục ngữ nói về đặc điểm địa phương, thể hiện niềm tự hào về phong tục, sản
vật và cảnh quan của người dân ở từng địa phương.
_Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
_Lúa đồng Ngâu, trâu Yên Mỹ.
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu trở về hội Gióng
Bên cạnh đó, tục ngữ Việt Nam cũng phản ánh một cách đa dạng những đặc điểm
sinh hoạt gia đình và xã hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần như: Ăn, ở, cưới xin, ma chay,
hội hè, tín ngưỡng tôn giáo,... Đầu tiên là kinh nghiệm về ăn uống.
_Tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc.

_Có an cư mới lạc nghiệp.
_Mồng một chơi nhà, mồng hai chơi ngõ, mồng ba chời đình.
_Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.
_Ai chết trước thì được ấm mồ.
_Cảm tất thông, cầu tất ứng.
Đồng thời tục ngữ cũng phản ánh đời sống của giai cấp thống trị, bị trị, những mâu
thuẫn, bất công trong xã hội và sự phản kháng mãnh liệt của nhân dân.
_Con vua thì lại làm vua, con nhà kẻ khó bắt cua tối ngày.
8


_Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
Ở tục ngữ về lịch sử - xã hội còn có nhiều câu tục ngữ phản ánh tình cảm gia đình,
những quan điểm thân tộc, quan điểm tình cảm và các tục lệ, tập tục ở từng vùng miền.
_Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
_Của chồng công vợ.
_Làng theo lệ làng, nước theo lệ nước.
Tóm lại, tục ngữ về lịch sử - xã hội rất phong phú,đa dạng, phản ánh mọi khía cạnh
của đời sống.
1.2.3.3.

Tục ngữ về đạo đức tư tưởng, đạo đức lối sống, triết lí dân gian

Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm sống, lối sống và truyền thống tư tưởng đạo
đức của nhân dân chiếm số lượng khá lớn trong kho tàng tục ngữ của dân tộc ta. Tục ngữ
còn phản ánh trung thực tư tưởng nhân đạo mà trước tiên là sự quý trọng, đề cao con
người và phẩm chất tốt đẹp của con người
_Người ta là hoa đất.
_Đói cho sạch, rách cho thơm.
Song song đó là lòng tự hào về phong cảnh giàu đẹp, những con người tài hoa và

tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột của nhân dân.

_Gái Xuân Mai, trai Yên Thế.
_Nhất cao là núi Tản Viên, nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vường.
_Quan cần nhưng dân không vội, quan có vội quan lội mà sang.
_Bề trên chẳng ở chính ngôi, để cho bề dưới chúng tôi hỗn hào.
Con người Việt Nam với những đức tính tốt đẹp, luôn cần cù, chăm chỉ, có tinh thần
lạc quan, xem trọng tình nghĩa, sự thủy chung, thật thà, coi trọng con ngời,…
_Có cấy có trông, có trồng có ăn.
_Ở hiền gặp lành.
_Có công mài sắc có ngày nên kim.
_Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
_Anh em xa không bằng láng giềng gần.
_Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.
9


_Đường mòn ân nghĩa không mòn.
_Lá lành đùm lá rách.
Tục ngữ còn chứa đựng cách ứng xử giữa người với người, những nét văn hóa cần
có trong mỗi chúng ta. Đồng thời cũng phản ánh những nhận thức duy vật tự phát.
_Nói gần nói xa chẳng qua nói thực.
_Lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa lòng nha.
Tóm lại, tục ngữ từ xa xưa đã được ví là “túi khôn của dân gian” kho tàng tri thức
của con người. Tục ngữ truyền đạt những kinh nghiệm đáng quý cho nhân dân. So với
các thể loại khác thì tục ngữ thể hiện toàn diện và đầy đủ, phong phú hơn.

10



CHƯƠNG 2: NHỮNG HÌNH ẢNH ẨN DỤ CƠ BẢN
TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM
1. HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT

Như đã biết, tục ngữ là một di sản văn hóa dân gian vô cùng quý giá, vốn là những
câu nói ngắn gọn, hàm súc…Chỉ những câu nói ngắn gọn, hình ảnh cụ thể, bình dị song
tục ngữ có khả năng truyền tải nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Tục ngữ phản ánh mọi khía cạnh của đời sống. Hình ảnh trong tục ngữ vô cùng
phong phú, đa dạng: Hình ảnh động vật, thực vật, đồ dùng sinh hoạt, hiện tượng tự nhiên,
…không phải tự nhiên mà người ta đưa ra những hình ảnh ấy vào tục ngữ mà nó chứa
đựng cả một kho tàng tri thức. Đó là những lời răn dạy, những đúc kết kinh nghiệm sống,
cách ứng xử giữa người với người. Đầu tiên có thể kể đến đó là hình ảnh ẩn dụ về động
vật trong tục ngữ Việt Nam. Số lượng những câu có chứa ẩn dụ trong hình ảnh động vật
là vô số kể và những con vật ấy cũng vô cùng đa dạng: cá, tôm, ngựa, trâu, bò, mèo, ong,
bướm,…Nhìn chung, tất cả đều cho ta thấy được những tri thức bên trong ẩn dụ.
Việt Nam là nước nông nghiệp. Chính vì thế mà hình ảnh con trâu đã là rất quen
thuộc đối với người nông dân vì nó đóng vai trò rất lớn trong sản xuất nông nghiệp.
Trâu chậm uống nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ béo.
Hình ảnh con trâu đi vào tục ngữ Việt Nam một cách rất tự nhiên. Các tác giả dân
gian đã dùng hình ảnh con trâu để hàm ý nói về con người trong xã hội. Đó có thể là biểu
thị cho những loại người trong xã hội, “trâu chậm” và “trâu ngơ” trong câu tục ngữ
“trâu chậm uống nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ béo” đã thể hiện được loại người chậm chạp
thường chịu phần thua thiệt trong khi kẻ ngu ngơ lại được phần lớn. Đó cũng là một điều
bất công trong xã hội. Hay:
Bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy.
Bụng trâu cũng như dạ bò.
Khi Người ta cùng cảnh ngộ, cùng đứng trước một sự việc hay có cùng ham muốn,
suy nghĩ nào đó thì hình ảnh con trâu cũng được dùng để thể hiện những cái giống nhau
ấy. Cũng thông qua câu tục ngữ này ông cha ta phê phán, chế giễu những kẻ hay bắt
chước người khác. Đây cũng là câu trả lời thích đáng cho những kẻ muốn chế giễu người

khác.
Trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò, củ tỏi giắt lưng.
Trâu lành không ai mừng cả, trâu ngã lắm kẻ cầm dao.
Trong xã hội hiện nay có lắm kẻ sống cơ hội không biết tự tạo cái lợi cho mình mà
chỉ biết giẫm lên vết ngã của người khác để tạo ra thành công cho bản thân. Hai câu tục
ngữ trên phê phán những kẻ cơ hội luôn lợi dụng sự suy yếu của người khác để làm cái
lợi cho bản thân. Đó không phải là cái lợi bền vững bởi đó không phải là hành động đẹp.
Cơm đâu no bụng chó, cỏ đâu no bụng trâu.
11


Người ta thường nói “tham thì thâm”, tham lam là đức tính không nên có của mỗi
con người. Qua câu tục ngữ “cơm đâu no bụng chó, cỏ đâu no bụng trâu”, ông cha ta đã
dùng cái bụng vô độ của chó và trâu để phê phán những người tham lam vô độ.
Trâu bò rúc nhau ruồi muỗi chết.
Câu tục ngữ không chỉ đơn giản nói về việc “rúc nhau” của trâu bò mà thông qua
việc rúc nhau đó ông cha ta muốn nói lên mối quan hệ trong xã hội. Phản ánh phần nào
bức tranh về hiện thực cuộc sống trong xã hội xưa. Đó là những kẻ quyền thế thì luôn
tranh cạnh lẫn nhau làm ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, không chỉ có vậy mà
còn nhiều hơn thế nữa.
Trâu đạp cũng chết, voi đạp cũng chết.
Giai cấp thống trị luôn bóc lột, áp bức người dân, gây ra cảnh tang thương, khốn
khổ mà người nên chịu trách nhiệm không ai khác chính là người quyền thế, những bậc
phụ mẫu trong xã hội.
Trâu buộc thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.
Trong các triều đại xưa, triều đại phong kiến thường xuyên xảy ra những mâu thuẫn
trong triều đình, quần thần thì ganh ghét lẫn nhau. Để phản ánh hiện thực ấy ông cha ta
đã dùng hình ảnh “trâu buộc” và “trâu ăn” để biểu thị thái độ ghen ghét, gièm pha lẫn
nhau của quan chức thời phong kiến.

Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Trâu ta ăn cỏ đồng ta, tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm.
Mỗi con người ai cũng có sự ích kỷ và tinh thần tự lực cánh sinh. Ai cũng muốn
mình thành công đặc biệt là thành công bằng chính sức lực của mình đó là điều hạnh
phúc. Hai câu tục ngữ trên cũng phần nào nói sự ích kỉ và tinh thần tự lập ấy, tự lực cánh
sinh là một điều tốt nhưng không nên tự cô lập, ích kỉ cũng không xấu nhưng nếu quá ích
kỉ cũng ảnh hưởng không tốt đến bản thân.
Trâu chết để da, người chết để tiếng.
Người Việt Nam luôn coi trọng danh dự và phẩm chất đạo đức vì thế ông cha ta đã
thể hiện ý nghĩa đó thông qua hình ảnh con trâu như một lời nhắc nhở mọi người phải
biết giữ gìn danh dự của mình. Người chết không còn nhưng tiếng thơm còn mãi.
Trâu béo kéo trâu gầy.
Hình ảnh “trâu béo” và “trâu gầy” giúp ta hình dung ra được hai hạng người trong xã
hội. Đó là một bên giàu sang, khỏe mạnh và một bên nghèo khó, yếu đuối. Trong cuộc
sống đầy những khó khăn, chông gai con người cần phải biết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Đây cũng là thông điệp mà ông cha ta muốn nhắn nhủ trong câu tục ngữ “trâu béo kéo
trây gầy”. Trong tình yêu, con trai luôn là người chủ động, tục ngữ có câu.
Trâu tìm cọc chứ cọc không đi tìm trâu.
Hình ảnh “trâu” chỉ người con trai, “cọc” chỉ người con gái. Câu tục ngữ này hàm
chỉ người con trai phải là người tìm đường ngỏ lời trước chứ không phải là người con gái
12


đi tìm người con trai để tán tỉnh. Ngoài ra thì câu tục ngữ này cũng có ý nghĩa là mình
cần đến người ta thì mình phải đi tìm người ta chứ đừng mong người ta tìm đến với mình.
Ta thấy, tục ngữ chứa hình ảnh con trâu đã thể hiện khá đầy đủ mọi khía cạnh về đời
sống con người. Nhưng bên cạnh đó hình ảnh của những loại động vật khác như: chó, gà,
cá, ngựa, kiến,… Cũng phản ánh rất chân thực đầy đủ về cuộc sống – xã hội.
Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng.
Cá lớn nuốt cá bé.

Trong xã hội con người luôn đề cao sự công bằng, nhưng thử hỏi đã có sự công
bằng chưa khi hàng ngày luôn diễn ra sự bắt nạt của những kẻ quyền thế đối với người
nghèo khổ, kẻ quyền lực luôn chèn ép kẻ thấp, yếu. Hai câu tục ngữ trên phê phán sự bất
công nghịch lý trong xã hội, những kẻ có quyền có thế luôn bắt nạt, hung hăng với người
khác.
Chó cắn rách áo
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có ít nhất 70 (lần) câu xuất hiện hình ảnh con chó,
loài vật quen thuộc gần gũi với con người. Đôi khi nó được đề cao, đôi khi nó được dùng
để phê phán hiện thực. Câu tục ngữ “chó cắn áo rách” mang hai nét nghĩa rõ rệt. Nét
nghĩa đầu tiên đó là chỉ hành động chó hễ thấy người mặc áo rách sẽ cắn, nét nghĩa thứ
hai hàm chỉ những người kém may mắn, đang rơi vào hoàn cảnh nghèo khó, cùng cực lại
bị kẻ xấu hãm hại. Đồng thời phê phán những kẻ bất lương lợi dụng cơ hội làm hại những
người khốn khổ.
Chó ngáp phải ruồi.
Trong cuộc sống, góp phần vào sự thành công không chỉ có tài năng, nghị lực mà ta
cũng cần một chúc may mắn. Đâu chỉ riêng những người tài mới thành công. Đôi khi chỉ
vì một chút may mắn ngẫu nhiên mà cánh cửa thành công vẫn mở cho những người bình
thường.
Chó chui gầm chạn.
Mỗi con người, mỗi tính cách, mỗi hoàn cảnh. Trong cuộc sống gia đình, có lúc sẽ
phải sống nương nhờ nhà chồng, cũng có lúc nương nhờ nhà vợ. Câu tục ngữ “chó chui
gầm chạn” dùng để biểu thị người chồng sống nương nhờ, hoặc có cuộc sống phụ thuộc
vào ngườivợ.
Chó ba năm mới nằm, gà ba lần vỗ cánh mới gáy.
Đây là lời văn dạy có ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh “ba năm mới nằm”, “ba lần vỗ
cánh mới gáy”, như một lời nhắc nhở chúng ta luôn thận trọng, cân nhắc kỷ lưởng trước
khi làm gì hoặc nói gì.. Qua câu tục ngữ ta rút ra bài học cho bản thân là làm việc gì cũng
phải biết suy tính không nên gấp gáp, phải biết quý trọng và giữ gìn những gì mình đang
có.
Chó là loài vật khôn lanh và tình cảm. Loài chó hiện lên qua tục ngữ một chách mộc

mạc, chân tình, đồng thời nó cũng thể hiện độc đáo những điều trong cuộc sống. Ngoài
hình ảnh con chó, con ngựa cũng xuất hiện nhiều trong tục ngữ.
13


Ngựa quen đường cũ.
Con ngựa là loài xuất hiện rất nhiều trong tục ngữ Việt Nam, nó được lấy làm biểu
tượng ẩn dụ sinh động. Điển hình trong mọi lĩnh vực đời sống, câu tục ngữ “ngựa quen
đường cũ” nói đến những người phạm sai lầm nhiều lần mà vẫn không bỏ được, vẫn làm
theo thói quen tật xấu. Qua đó nhắc nhở ta rằng không nên bước chân vào vết xe đỗ mà
hãy tìm ra những con đường đúng đắn để đi. Để chỉ sự tham lam tục ngữ có câu.
Được đầu voi, đòi đầu ngựa.
Qua hai từ “được” và “đòi” trong câu tục ngữ “được đầu voi, đòi đầu ngựa” thể
hiện được sự tham lam của con người, được cái này lại muốn cái khác không biết đâu là
điểm dừng. Tóm lại qua hai câu tục ngữ ông cha ta khuyên bảo ta rằng không nên tham
lam vô dộ.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn.
Hai câu tục ngữ đề cập đến tình yêu thương gắn bó trong cộng đồng. “Một con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” có nghĩa là một con ngựa đau thì cả chuồng đều bỏ ăn,
ngoài ra câu tục ngữ còn mang tính ẩn dụ cao: “Một con ngựa đau” ám chỉ một thành
viên trong tập thể, còn “Cả tàu” chính là cả tập thể. Vậy nên, câu tục ngữ mang ý nghĩa
là: Khi một thành viên trong tập thể gặp hoạn nạn thì cả tập thể đều lo lắng, bất an. “Một
con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” trước hết khuyên bảo người có số phận, cảnh ngộ may mắn
thì hãy biết chia sẽ rủi ro bất hạnh của người đang gặp hoạn nạn. Mặc khác, nó còn được
hiểu là mọi người cùng cảnh ngộ phải biết yêu thương, đùm bọc, đồng cam cộng khổ với
nhau. Tóm lại, qua hai câu tục ngữ trên ông cha ta đã khuyên con cháu phải biết sống gắn
bó, yêu thương lẫn nhau. Qua đó cũng đề cao lối sống đậm đà tình nghĩa của con người.
Con gà trong văn học cổ là một dấu tích của văn minh và văn hóa lúa nước. Gà cũng
được nhắc đến trong tục ngữ.

Con gà tức nhau tiếng gáy.
Gà là con vật không thể bỏ qua khi nhắc đến hình ảnh ẩn dụ về động vật trong tục
ngữ Việt Nam. Con gà hơn thua nhau chỉ ở tiếng gáy, con người ranh ghét nhau cũng chỉ
vì những điều nhỏ nhặt để rồi dẫn đến chuyện không vui. Từ đó, ông cha ta khuyên rằng
sống ở đời không nên quá ích kỷ, hơn thua nhau để ta luôn vui vẻ trong cuộc sống.
Gà ăn hơn công ăn
Sống trong xã hội, họ chấp nhận nhường cái lợi của mình cho người trong nhà còn
hơn để những cái lợi ấy rơi vào tay kẻ sang trong thiên hạ. Bởi nếu rơi vào những kẻ giàu
sang mà không biết quan tâm đến người khác cũng như ta đã tiếp tay cho những kẻ ấy
làm việc xấu, góp phần làm xấu xã hội. Sống phải biết sang sẻ với người thân những điều
tốt nhất.
Bụt trên tòa gà nào dám mổ mắt.
Qua câu tục ngữ trên, ông cha ta cũng cho rằng nếu mình không trêu chọc người
khác thì hiển nhiên người khác cũng không gây sự với mình. Ông cha ta muốn nhắn gửi
cho chúng ta rằng: Sống không nên gây sự với người khác, nếu không sẽ gây ra hậu quả
14


xấu. Hình ảnh mèo cũng được nhắc đến trong tục ngữ nhưng giờ đây nó không chỉ đơn
thuần là con vật nuôi trong nhà, mà mèo được nhắc đến với những lời răn dạy, triết lí
sống.
Mèo khen mèo dài đuôi.
Mèo là loài vật thân thiết và hữu ích cho đời sống của gia đình, nuôi mèo còn được
xem là thú vui của những gia đình khá giả. Chẳng hạn như, trong truyện Trạng Quỳnh có
truyện “Ăn trộm mèo”. Hình ảnh con mèo thường thể hiện ý nghĩa tiêu cực được dùng để
phê phán những thói hư tật xấu ở đời. Câu tục ngữ trên mượn hình ảnh con mèo để phê
phán những kẻ quá tự tin vào khả năng của mình mà không biết nghĩ đến người khác, lúc
nào cũng tự khoe khoang.
Mèo con bắt chuột cống
Mèo vật đống rơm.

Có người từng nói rằng “sức nhỏ làm việc nhỏ” quan trọng là mình biết cố gắng
không nên làm những việc quá sức mình. “mèo con”, “mèo” chỉ con người nhỏ bé,
“chuột cống”, “đống rơm” chính là những việc lớn, hai câu tục ngữ mang ý nghĩa là. Một
người nhỏ bé bình thường nhưng lại muốn làm việc lớn không phù hợp với sức của mình.
Qua hai câu tục ngữ trên ông bà ta khuyên rằng phải biết lượng sức, đồng thời cũng phê
phán những kẻ không phân biệt nặng nhẹ, lựa chọn công việc không phù hợp với sức
mình.
Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ.
Trái lại ý nghĩa với hai câu tục ngữ trên, câu tục ngữ “mèo nhỏ vắt chuột nhỏ” nói
đến những người biết khả năng mình đến đâu thì làm việc đến đó. Đây là cách làm việc
đạt hiệu quả cao.
Ăn nhỏ nhẻ như mèo.
Ngoài những điểm tiêu cực thì hình ảnh con mèo cũng được nhắc đến mang ý nghĩa
tích cực. Đó cũng là những phút huy hoàng ít ỏi của mèo. Một người phụ nữ dù có vẻ,bề
ngoài xấu hay đẹp thì điều cần thiết nhất vẫn là nết na, ông cha ta đã miêu tả cách ăn từ
tốn nhỏ nhẻ của mèo để khuyên người phụ nữ phải biết giữ gìn nết ăn của mình “ cái nết
đánh chết cái đẹp”. Dù có đẹp nhưng nết na với người phụ nữ vẫn quan trọng hơn cả.
Có ăn nhạt mới nhớ đến mèo.
Chúng ta ai ai cũng thế, khi sống trong cuộc sống quá hoàn hảo sẽ chẳng bao giờ
nhận thấy sự cực khổ của người khác. Chỉ đến khi chính bản thân họ rơi vào hoàn cảnh
tương tự họ mới chợt nhận ra rằng mình cần phải thương yêu, chia sẻ, đồng cảm với
những người kém may mắn hơn mình. Câu tục ngữ mang ý nghĩa sâu sắc, một lời răn dạy
của ông cha ta phải biết hiểu và đồng cảm với những người gặp cảnh khốn khổ, kém may
mắn.
Chim có tổ người có tông
Đó là lời răn dạy của cha ông đối với mỗi chúng ta: Dù ở địa vị nào, ở bất kỳ nơi
đâu, bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng quên cội nguồn của mình, phải nhớ đền tình cha,
15



nghĩa mẹ, công đức ông bà, tổ tiên và như thế nối tiếp từ đời này, qua đời khác con cháu
ngày càng phát triển.
Cáo chết ba năm quay đầu về núi.
Con người Việt Nam vốn xem trọng tình nghĩa, đạo đức truyền thống, từ xa xưa,
ông cha ta luôn nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thủy chung đã nhận ơn
của ai thì không bao giờ quên, phải biết ơn đối với tổ tiên. Dù đi đâu thì quên hương vẫn
là điểm nhìn về. Câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta rằng phải biết nhớ ơn tổ tiên, những
người đã tạo ra chúng ta, tạo ra cuộc sống này. Dù có đi đâu và về đâu cũng nhớ về tổ
tông, quê hương nơi chôn nhau cắt rốn.
Ngoài những hình ảnh con vật được kể trên còn một số con vật khác được ông cha
ta đưa vào tục ngữ với những ý nghĩa triết lý sâu sắc như:
Con sâu bỏ rầu nồi canh
Ao sâu tốt cá, độc dại khốn thân
Kiến tha lâu cũng có ngày đầy tổ
Quan thấy kiện như kiến thấy mở
Trăm dâu đổ đầu tằm.
Qua những câu tục ngữ có chứa hình ảnh ẩn dụ trong động vật có thể thấy, ông cha
ta đã rất tài tình khi sử dụng hình ảnh con vật gắn bó với đời sống con người để phản ánh
một cách sinh động, độc đáo muôn mặc đời sống.
2. HÌNH ẢNH THỰC VẬT
Nước ta được biết đến là một nước nông nghiệp, người dân chủ yếu sống bằng nghề
nông. Chính vì thế, trồng trọt được xem là nghề không thể thiếu của tất cả mọi người.
Trong tục ngữ về lao động sản xuất, hình ảnh thực vật đã được thể hiện khá phong phú
với nhiều kinh nghiệm khác nhau. Đặc biệt thông quan hình ảnh những loài thực vật ấy
để nói lên ý nghĩa triết lý, những răn dạy mà người đời trước muốn truyền đạt cho con
cháu đời sau. Trong tục ngữ Việt Nam thì hình ảnh thực vật được thể hiện một cách đa
dạng về số lượng và phong phú về tên gọi. Đầu tiên là cây.
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Đây là một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc khi ăn những trái cây chín mọng với
hương vị ngọt ngào ta phải nhớ đến công lao vun xới, chăm bón của người trồng nên cây

ấy. Từ hình ảnh ấy, người xưa luôn nhắc nhở chúng ta một vấn đề đạo đức sâu xa hơn.
Người được hưởng thành quả lao động thì phải biết ơn người tạo ra nó. Hay nói cách
khác ta phải biết mang ơn những người mang lại cho chúng ta cuộc sống ấm no hạnh
phúc như ngày hôm nay, có lòng biết ơn, sống ơn nghĩa thủy chung là đạo lý làm người,
cũng là bổn phận, nhiệm vụ của chúng ta đối với đời.Qua câu tục ngữ trên giúp cho
chúng ta hiểu rõ về đạo lý làm người, lòng biết ơn tình cảm cao quý và cần phải có trong
mỗi người.

16


Ăn cây nào rào cây nấy.
Ăn quả cây nào thì phải rào cây ấy, để giữ gìn cho cây khỏi bị xâm phạm. Hàm ý
của câu này là, khi đã chịu ơn của ai thì phải nhớ ơn của người đó, phải biết giữ gìn bênh
vực cho người đó, luôn luôn tỏ lòng biết ơn với người đã làm ơn cho mình.
Nước có nguồn, cây có gốc
Ai sinh ra trên đời này cũng phải có tổ tông, có nguồn gốc. Cây còn có gốc, nước
còn có nguồn, huống chi chúng ta là những con người sống trong xã hội. Một lần nữa tục
ngữ nhắc đến nguồn gốc của con người, khuyên con người phải biết nhớ đến những
người tạo ra ta, tạo ra cho ta cuộc sống ấm no như bây giờ.
Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại lê hòn núi cao
Góp gió thành bảo, góp cây nên rừng.
Không chỉ xem trọng ơn nghĩa mà người Việt Nam còn xem trọng tinh thần đoàn
kết của cộng đồng. Bởi chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh vĩ đại “một cây” thì không
thể làm nên “non” nhưng “ba cây chụm lại” sẽ nên “hòn núi cao” hay một cây không thể
làm nên rừng xanh thẫm. Một ngọn gió thì chỉ là cơn gió bình thường, nhưng khi nhiều
ngọn gió hợp lại sẽ trở thành cơn bão dữ dội. Hai câu tục ngữ đề cao tinh thần đoàn kết,
sức mạnh tập thể, chỉ có đồng tâm hợp lực mới có thể dễ dàng thành công cũng như trong
cuộc dấu tranh giải phóng dân tộc dân ta đã đồng lòng, đồng sức, đoàn kết chống giặc
ngoại xâm từ đó đã giành được thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Đây cũng là bài học quý

báu cho mỗi chúng ta.
Cây khô không có lộc, người độc không có con
Luật nhân quả ở đời luôn luôn đúng. Những người hiền lành sẽ luôn có may mắn và
kết cục tốt đẹp, ngược lại những người độc ác luôn phải gánh chịu những hậu quả mà
mình đã gây ra. Chính vì thế, câu tục ngữ khuyên bảo chúng ta rằng không nên ăn ở độc
ác, hay có ý nghĩ xấu làm hại người khác để sau này không phải gánh chịu những hậu
quả không đáng có.
Cây ngay không sợ chết đứng.
Sống ở đời những người ngay thẳng thường không sợ những kẻ xấu, không sợ bị
người khác hại. Qua câu tục ngữ ông cha ta khuyên rằng sống phải ngay thẳng, rõ ràng
trong từng công việc thì sẽ không phải sợ điều gì. Đây là câu tục ngữ rất hay và đúng,
nhưng nó chỉ đúng với người xưa, còn ngày nay có còn phù hợp nữa chăng?.
Cây vạy hay ghét mực tàu.
Câu tục ngữ phản ánh thái độ ghen ghét của con người. Những người ngay thẳng thì
thường không được lòng kẻ xấu, những lời nói thẳng thắng thì thường không được chào
đón và kẻ xấu thì không ưa người ngay thẳng. Đây là những kinh nghiệm sống mà ông
cha ta được đút kết được qua bao đời.

17


Trồng cây có ngày ăn quả.
Câu tục ngữ ngụ ý khuyên bảo con người phải biết kiên trì nhẫn nại. Chúng ta chấp
nhận làm một việc gì đó rồi có ngày cũng sẽ hưởng được thành quả, câu tục ngữ là một
chân lý sống để chúng ta rèn luyện cho bản thân tính kiên nhẫn trong công việc.
Đời cha trồng cây, đời con ăn quả.
Cũng gần giống như câu tục ngữ “trồng cây có ngày ăn quả” nhưng câu này mang
một ý nghĩa sâu sắc hơn đó là: Chúng ta sống cần phải nghĩ đến tương lai đừng chỉ biết
nghĩ đến cái lợi trước mắt. Chỉ cần chăm chỉ thì nhất định sẽ nhận lại được thành quả.
Trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng

Như cây có cội, như sông có nguồn. Để có thể trưởng thành ai cũng từng trãi qua
thời thơ bé với sự bảo bọc, che chở của cha mẹ. Trãi qua thời gian, cha mẹ không còn trẻ
trung, khỏe mạnh như trước, đây là thời gian con cái cần trả hiếu cho cha mẹ, bắt đầu
nuôi dưỡng, lo lắng cho đấng sinh thành. Bởi một trong những tình cảm thiêng liêng,
sáng ngời nhưng vô cùng thâm thúy mà mỗi người con phải khắc ghi trong lòng đó là
tình thương, là công ơn trời biển của cha mẹ. Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục và
dìu dắt con bước vào đời. Câu tục ngữ “trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng” muốn nhắc
nhở chúng ta về đạo hiếu bởi đây là đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng, đức tính ấy
được coi như một nền tảng cho mọi đức hạnh.
Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
Chỉ khi gặp được môi trường tốt thì cái hay cái đẹp mới sinh sôi nảy nở. Chỉ khi dạy
dỗ con cái từ khi lúc nó còn nhỏ thì sau này nó mới thành tài. Đó là lời răn dạy hết sức
quý báu mà ông cha ta đã truyền lại cho chúng ta phải giáo dục con cái từ lúc nhỏ để nó
không bị ảnh hưởng của những cái xấu trong xã hội.
Dân như cây gỗ tròn
Ông cha ta đã đưa hình ảnh cây gỗ tròn vào trong tục ngữ để làm hình ảnh biểu
trưng cho những người nông dân trong chế độ cũ. Được ví như thế, bởi họ dễ sai khiến
như “cây gỗ tròn” lăn đi đâu cũng được. Qua câu tục ngữ “dân như cây gỗ tròn” ông cha
ta đã tố cáo thực hiện xã hội lúc bấy giờ, con người bị lợi dụng, bị bốc lột và bị chà đạp.
Hoa cũng là hình ảnh dễ dàng bắt gặp trong tục ngữ Việt Nam.
Người ta là hoa đất
Người như hoa ở đâu thơm đấy.
Hoa tượng trưng cho cái đẹp mà thường là người phụ nữ. Đến với tục ngữ, hoa
được xem là giá trị cao quý của con người, thông qua hình ảnh hoa ông cha ta đã nâng
giá trị cao quý của con người lên tầm cao mới, ca tụng những người tốt, bởi những người
tốt sẽ luôn ảnh hưởng tốt đến chung quanh.
Nước chảy hoa trôi, bèo dạt.
Như đã nói, hoa thường đại diện cho người phụ nữ, nhất là cuộc sống lênh đênh,
trôi nổi của người phụ nữ. Câu tục ngữ đã phần nào phản ánh số phận cực khổ, trôi dạt
của người phụ nữ.

18


Yêu hoa nên phải vì cành.
Cũng thông qua hình ảnh hoa, ông cha ta đã thể hiện được cách ứng xử và mối quan
hệ giữa người với người. Nếu đã yêu thương một ai thì cũng phải kính nể gia đình của
họ.Đó là lời dạy hữu ích mà ông cha ta đã để lại. Trong tục ngữ, hình ảnh cây tre cũng
được đưa vào một cách rất tự nhiên.
Măng không uốn, uốn tre sau được
Khi măng không uốn, thì tre trổ rồng
Tre non dễ uốn.
Bởi từ lâu, tre đã là hình ảnh rất quen thuộc và là biểu tượng của người Việt Nam.
Nhắc đến tre là ta nhớ ngay đến sự kiên cường buất khuất của nó. Nhưng ở đây, tre hiện
lên với những lời răn dạy của ông cha ta. Qua đó, ta thấy được sự cần thiết trong việc dạy
dỗ uốn nắng trẻ em từ lúc nhỏ. Bởi có như thế thì hiệu quả mới cao. Đây là bài học kinh
nghiệm về việc giáo dục con cái mà ông cha ta đã đút kết được từ ngàn xưa.
Tre già măng mọc.
Người Việt Nam luôn kế thừa những truyền thống của dân tộc, câu tục ngữ “tre già
măng mọc” thể hiện sự nối tiếp nhau giữa các thế hệ như một lời nhắc nhở rằng thế hệ
sau phải nối tiếp thế hệ trước để kế thừa, phát huy và giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta. Đoàn kết là sức mạnh chính vì thế mà ông cha ta đã đưa những bài học về xây
dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc vào tục ngữ.
Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Hình ảnh “bầu” và “bí” đại diện cho những dân tộc trên đất nước Việt Nam, cho
những người dân trong xã hội. Câu tục ngữ mang ý nghĩa sâu sắc. Đó là lời kêu gọi đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau. Dù là những con người ở mọi vị trí khác nhau nhưng đều đang
sống trên cùng một đất nước “chung một giàn”, vì thế mà hãy thương yêu, giúp đỡ nhau.
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
Chê cam sành gặp phải quýt hôi.
Đây là hai câu tục ngữ nói về thói khen, chê ở đời, chê cái tốt để rồi gặp cái xấu,

tránh cái này để rồi gặp cái khác cũng không hơn không kém, hai câu tục ngữ phê phán
thói hay chê của con người, không nên chê khen mà hãy chấp nhận những gì mình đang
có, đó là lời khuyên của ông cha ta gửi gắm qua hai câu tục ngữ. Có người từng nói rằng :
Trái tim của người mẹ là một kỳ quan tuyệt hảo nhất trong số những kỳ quan trong vũ
trụ, và cũng là trường học cho đứa con. Không có bút mực nào tả hết được tình cảm
thiêng liêng về tấm lòng cao cả của người mẹ.
Con có mẹ như măng ấp bẹ.
Người ta thường hát “lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào”. Đúng vậy tấm
lòng mẹ cao cả lắm, không gì có thể cân, đo, đong, đếm được. Bởi nó là cái gì đó rất
thiêng liêng, cao quý không ai lo lắng cho ta, yêu ta bằng mẹ. Mẹ luôn chăm sóc, chở che
cho ta từ khi còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Câu tục ngữ nói đến tấm lòng yêu
19


thương, chở che cho con của người mẹ. Qua đó nhắc nhở chúng ta rằng phải biết yêu
thương, nhớ ơn sự che chở của mẹ. Từ đó, biết quý trọng mẹ hơn.
Mẹ già như chuối chín cây.
Mẹ là tiếng gọi đầu đời của trẻ thơ, là dòng sữa ngọt nuôi nấng ta lúc chào đời, dạy
ta bắt đầu học nói. Mẹ hát ru ta ngủ, chăm sóc lúc ta thức, tập cho ta những bước đi đầu
tiên. Tình mẹ diệu vợi luôn luôn nồng ấm hòa nhập với mạch sống của con, lòng mẹ hân
hoan sung sướng khi thấy con khôn lớn, hạnh phúc, thành đạt trong xã hội. Để rồi đến lúc
ta lớn lên, trưởng thành bắt đầu lo lắng cho mẹ, lo cho mẹ ngày càng lớn tuổi, lo cho sức
khỏe của mẹ. Đặc biệt là lo sợ mẹ sẽ ra đi, trở về với cát bụi. Đây là một lời nhắc nhở
chúng ta rằng: Hãy biết nâng niu, trân trọng những phút giây bên mẹ, bởi không biết lúc
nào mẹ sẽ bỏ chúng ta mà đi.
Gừng già, gừng rụi, gừng cay, anh hùng càng cực càng đầy nghĩa nhân.
Tục ngữ chứa hình ảnh ẩn dụ trong thực vật không chỉ nhắc nhở chúng ta phải biết
yêu thương, trân trọng mẹ, dạy cho ta cách giáo dục con cái hay nâng cao giá trị con
người.Mà còn ca tụng tinh thần chịu đựng gian khổ mà vẫn giữ được tinh thần nhân
nghĩa, phẩm chất cao quý của con người.

Là lành đùm lá rách.
Trong cuộc sống khó khăn vất vả, con người cần phải biết yêu thương đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau. Đó là thông điệp mà ông cha ta gửi gắm qua câu tục ngữ, với câu tục
ngữ này chúng ta nhận thấy một quan niệm đơn giản về cuộc sống giàu nghèo. Nhưng
cao hơn thế là đạo lí, là lẽ đời của con người Việt Nam. Ở đâu có hoạn nạn thì ở đó con
người cần có sự thông cảm, tương trợ lẫn nhau.
Ngoài ra, còn một số câu tục ngữ thể hiện tình nghĩa mặn mà, sâu nặng, sự khuất
phục trước lời hay, lẽ phải,…
Gừng cay muối mặn
Nói phải củ cải cũng nghe
Gừng càng già càng cay.
Như vậy, trong tục ngữ lao động sản xuất, hình ảnh ẩn dụ trong thực vật chiếm tỷ lệ
khá cao. Thông qua hình ảnh cây cối, hoa, lá,… Ông cha ta đã truyền đạt cho ta những tri
thức sâu sắc trong cách ứng xử và cách học làm người. Từ đó hiểu, cảm nhận được hết
những ý nghĩa ẩn sâu bên trong những câu tục ngữ.
3. HÌNH ẢNH ĐỒ DÙNG SINH HOẠT
Tụcngữ Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, không chỉ có hình ảnh động vật,
thực vật mà hình ảnh đồ dùng sinh hoạt cũng là hình ảnh được xuất hiện rất nhiều trong
tục ngữ Việt Nam. Bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước dẫn đến các loại đồ dùng phù
hợp phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày, hay những phương tiện đi lại hằng ngày
đã trở thành hình ảnh, chất liệu biểu tượng cho tục ngữ Việt Nam. Nhiều hình ảnh đồ
dùng sinh hoạt xuất hiện trong tục ngữ với tầng suất cao như: Hình ảnh áo có 43 lần
20


trong đó có hơn 12 lần có chứa hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh bát, chén xuất hiện hơn 40 lần
trong đó có hơn 14 lần có hình ảnh ẩn dụ. Nó chứa những triết lí sống những lời răn dạy
bổ ích cho chúng ta. Ngoài ra, còn có rất nhiều đồ dùng sinh hoạt như: thuyền, đèn, nồi,
đũa, dao, thớt, chuông, đò,…Đầu tiên là hình ảnh áo. Đây là hình ảnh được xem là biểu
trưng cho vật chất, địa vị và cả nhân phẩm của con người.

Tốt danh hơn lành áo
Áo rách phải giữ lấy tràng.
Tốt danh: có danh dự, nhân cách cao đẹp. Lành áo: ăn mặc lành lặn, chỉ sự giàu
sang, phú quý. Con người ai mà không mong muốn cuộc sống mình sẽ được giàu sang.
Thế nhưng, sống ở đời còn có một thứ quan trọng hơn đó là danh thơm tiếng tốt của
người đời. Áo lành mặc sẽ có ngày rách, giàu sang cũng có thể không bền nhưng danh
thơm tiếng tốt thì không thể nào mai một với thời gian, người có danh bao giờ cũng được
xem trọng hơn người lành áo. Đối với người Việt Nam, danh dự, thanh danh quý hơn cái
vỏ bề ngoài. Chính vì thế dù sống trong nghèo túng khó khăn ta cũng phải giữ gìn phẩm
chất của mình.
Cơm là gạo, áo là tiền.
Trong xã hội, áo còn tượng trưng cho vật chất, trong tục ngữ, cơm – gạo là thứ quý
giá nhất trong cuộc sống , áo – tiền là thứ cần thiết trong cuộc sống vì thế chúng ta cần
phải biết trân trọng và sử dụng phù hợp.
Áo mặc qua đầu.
Câu tục ngữ trên mang ý nghĩa chê trách những người tự ý làm việc không hỏi ý
kiến trước sau, những người lớn hơn mình. Bởi họ là những người đi trước giàu kinh
nghiệm vậy nên muốn thành công ta cũng nên tham khảo ý kiến của họ. Con người có
lúc cũng cần phải tự lực nhưng cũng cần hỏi ý kiến người khác.
Áo cứ chàng, làng cứ xã
Trong câu tục ngữ mang ý nghĩa chê trách những kẻ chỉ biết dựa dẫm vào người
khác. Nếu câu tục ngữ ở trên là quá tin vào bản thân thì ở câu này lại nói lên việc không ý
thức được vai trò trách nhiệm của bản thân. Qua đó ta thấy, con người có thể dựa dẫm
vào người khác nhưng không được quá phụ thuộc ỷ lại mà quên nghĩa vụ của bản thân.
Gà mượn áo công.
Trong xã hội còn rất nhiều chuyện bất công. Con người thường dựa vào thế lực của
người khác để bắt nạt mọi người. Hình ảnh “gà mượn áo công” biểu hiện được hạng
người chỉ biết mượn oai phong, quyền lực của người khác mà ức hiếp kẻ yếu. Dù mình
cũng như mọi người tất cả như một sự vay mượn không bền vững, câu tục ngữ khuyên
chúng ta phải sống đúng với chính mình đó mới là điều nên làm.

Áo dài chớ ngại quần thưa.
Cuộc sống này không gì là hoàn hảo. Vì thế mà đừng vì một chút thiếu sót mà
buông tay. Bởi xung quanh còn nhiều cái tốt đẹp hơn đang chờ chúng ta. Ông cha ta
21


khuyên ta rằng không nên nhìn đời một cách phiến diện, một chiều mà hãy nhìn đời một
cách đa chiều. Bởi xung quanh những thiếu sót sẽ có những điều tốt đẹp hơn.
Áo buông chùng, quần đóng gót
Áo buông chùng, quần lá tọa.
Áo, quần cũng thể hiện được tính cách của con người, ăn mặc phù hợp, chỉnh chu là
một người kỷ tính, ăn mặc theo cảm hứng là những người không quan tâm đến bề ngoài
đôi khi mọi người gọi đó là “ẩu”. Trong hai câu tục ngữ trên, hình ảnh áo biểu hiện cho
cách ăn mặc của người đàn ông trong chế độ cũ. Đó là cách ăn mặc cẩu thả và không phù
hợp với công việc. Qua hai câu tục ngữ này ông cha ta phê phán cách ăn mặc của người
đàn ông, đồng thời khuyên chúng ta nên ăn mặc gọn gàng, phù hợp với hoàn cảnh. Bởi
qua cách ăn mặc có thể đánh giá một con người.
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
Ngoài sự phê phán, chê trách ông cha ta cũng ca ngợi sự khéo léo trong việc nữ
công gia chánh của người phụ nữ, cũng như khéo léo trong cách ứng xử của người phụ
nữ Việt Nam.
Tiếp theo có thể nhắc đến là hình ảnh bát, chén đây là hình ảnh quá quen thuộc với
mỗi chúng ta, nó phục vụ hàng ngày cho chúng ta trong bữa ăn nhưng khi xuất hiện trong
tục ngữ nó mang những ý nghĩa nhất định có khen, có chê.
Chọc bát cơm, đơm bát cháo
Ngồi mát ăn bát đầy
Một nút lạt, một bát cơm.
Trong tục ngữ có câu “có làm thì mới có ăn” sống ở đời muốn có được cái ăn thì
con người phải làm việc. Công sức bỏ ra bao nhiêu thì thành quả nhận được cũng thế ấy.
Còn ở đây trong ba câu tục ngữ trên cho ta thấy sự chê trách những kẻ chỉ biết ăn mà

không biết làm, làm ít mà ăn nhiều. Câu tục ngữ này muốn khuyên chúng ta không nên
trông chờ vào người khác để mình được làm ít mà hưởng nhiều.
Bát mồ hôi đổi bát cơm.
Công lao động của con người là rất quý báo. Bởi họ phải bỏ biết bao mồ hôi công
sức mới có được cái ăn. Câu tục ngữ “bát mồ hôi đổi bát cơm” phản ánh sự cực khổ của
người dân trong cuộc chiến tranh để sinh tồn, vất vả, khó khăn muôn trùng.
Ăn đời ở kiếp chi đây, coi nhau như bát nước đầy thì hơn
Nghĩa vợ chồng là tình nghĩa trăm năm, ăn đời ở kiếp với nhau vì thế mà chúng ta
nên quý trọng nhau. Bởi khi tình nghĩa có sâu đậm đến đâu mà sự tôn trọng không còn
nữa thì cũng như bát nước đầy bị đổ đi vậy, sẽ khó có thể trở lại như xưa được. Câu tục
ngữ khuyên chúng ta nên biết cách tôn trọng nhau, giữ gìn tình nghĩa bởi không quý
trọng nó sẽ có ngày chúng ta phải hối hận.
Bát đũa còn có khi chạm nhau
Chồng bát còn có khi xô.
22


Trong cuộc sống vợ chồng dù có hòa thuận đến đâu thì cũng có những lúc cãi vã,
mâu thuẫn. Nếu biết cách hòa giải thì những va chạm ấy như là một mùi, vị được thêm
vào tình yêu để họ yêu nhau hơn, nhưng nếu không biết cách tháo gỡ có thể sẽ dẫn đến
đổ bể. Câu tục ngữ có ý nghĩa là: Trong cuộc sống vợ chồng đôi khi sẽ có những cãi vã
nhưng hãy tháo gỡ nút thắt một cách khóe léo để có thể cảm thấy hiểu và yêu nhau nhiều
hơn.
Ăn bớt bát nói bớt lời.
Đây là một lời khuyên răn bổ ích về ý tứ vẻ đẹp nết na của con người “ăn bớt bát”
ám chỉ không nên quá tham ăn, “nói bớt lời” có nghĩa là không nên nói nhiều. Tóm lại,
câu tục ngữ bày có ý nghĩa là không nên ăn quá nhiều và nói quá nhiều. Câu tục ngữ còn
khuyên chúng ta rằng nên giữ gìn ý tứ, nết na, ăn từ tốn và phải biết lựa lời nói.
Ăn ở như bát nước đầy.
Câu tục ngữ nói đến những người ăn ở tử tế, đối xử tốt với người khác. Câu tục ngữ

phản ánh cách đối xử hậu hỉnh, tử tế của con người.
Sống về mồ mả, chăng ai sống vì cả bát cơm.
Thông qua hình ảnh bát, tục ngữ phản ánh một khía cạnh khác về đời sống con
người. Đó là mê tín, tín ngưỡng, họ cho rằng phong thủy, nơi đặt mồ mả cha mẹ cũng ảnh
hưởng đến đời sống con cái, câu tục ngữ trên đã phản ảnh phần nào sự mê tín của người
Việt Nam về vấn đề phong thủy.
Thuyền là hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong ca dao và thơ cổ. Trong ca dao:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Còn trong tục ngữ:
Thuyền nan chở đá, thuyền lá chở sắt.
Thuyền nan là thuyền được làm bằng tre đan phết sơn, thuyền lá là thuyền mành. Ở
đây, câu tục ngữ có ý nghĩa: mỗi người tùy vào khả năng phải gánh vác trách nhiệm nặng
nề về của mình.
Lớn thuyền lớn sóng.
Mỗi công việc đều có những khó khăn riêng, việc làm càng lớn thì khó khăn càng
cao, rủi ro càng lớn. Câu tục ngữ “lớn thuyền lớn sóng” nhắc nhở chúng ta phải ý thức
trách nhiệm của bản thân đối với công việc, phải chấp nhận đối đầu với những thử thách,
có như thế mới gặt hái được thành công.
Thuyền đua thì lái cũng đua.
Bắt chước người khác cũng là một điều hay, nhưng phải biết bắt chước những cái
tốt, phải sáng tạo cái mới cho mình, không nên chỉ biết làm giống hệt người khác mà
không có chính kiến riêng cho bản thân. Đó là một điều cần phải khắc phục. Câu tục ngữ
phê phán những người không có chính kiến, chỉ biết làm theo người khác.

23


Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt Nam và được nhắc đến nhiều trong ca
dao với sự khoắc khoải trong tình yêu, với ngọn lửa tình luôn bừng sáng của cô gái trong

tình yêu đó là hình ảnh đèn.
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.
Còn trong tục ngữ:
Có trăng quên đèn
Có trăng phụ đèn.
Được trống phụ đèn, có đèn phụ trăng
Hình ảnh đèn hiện hữu chỉ sự vô tình, vô nghĩa không thủy chung. Đây là câu tục
ngữ dùng để chê trách những kẻ vô tình, vô nghĩa, khuyên chúng ta sống ở đời phải có
lòng chung thủy, bởi có như thế ta mới có thể tìm được hạnh phúc cho bản thân.
Đèn trời soi xét
Đèn soi ngọn cỏ.
Trong xã hội, người dân, những người thấp kém thường chịu nhiều oan ức, chính vì
thế mà họ mong mỏi được tỏ bày ý nghĩ của mình. Câu tục ngữ thể hiện lời kêu oan của
người dân trước những người có quyền lực tối cao trong xã hội nhằm bày tỏ tâm tư của
họ. Câu tục ngữ đã phản ánh được phần nào bức tranh hiện thực trong xã hội.
Đèn nhà ai nấy sáng
Đèn trời soi sáng bốn phương, đèn nhà tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi.
Đây như một lời khẳng khái tỏ ra bất cần đến sự can thiệp của người khác. Bởi
những người trong cuộc mới hiểu hết được sự việc, người ngoài xen vào chỉ làm cho sự
việc thêm rối tung và khó giải quyết.
Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.
Câu tục ngữ dùng để nhắc nhở mọi người chú ý đến môi trường hoàn cảnh xã hội
trong việc hoàn thành nhân cách của con người. Câu tục ngữ được đúc kết từ cuộc sống,

là bài học quý giá với mỗi chúng ta. “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” giúp ta thận
trọng hơn trong vấn đề giao tiếp. Hình ảnh nồi cũng được tục ngữ phản ánh rõ nét.
Nồi nào úp vung nấy
Nồi đồng lại úp vung đồng
24


Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo.
Nồi là một vật dụng gần gũi với người Việt Nam, trong tục ngữ nồi tượng trưng cho
tình cảm và sự tương xứng của các cặp vợ chồng, chỉ có những cặp vợ chồng cùng tính
với nhau hiểu nhau mới có thể có cuộc sống hạnh phúc, ngược lại “nồi tròn vung méo úp
sao cho vừa”. Nếu đã không hợp nhau dù có gượng ép mấy cũng không có cuộc sống vui
vẽ. Đây là ý nghĩa đáng quý cho những cặp vợ chồng.
Ăn trong nồi, ngồi trong hướng
Câu tục ngữ chứa đựng những lời khuyên hữu ích trong việc giữ gìn ý tứ và cách
đối xử trong xã hội. Đũa là hình ảnh quen thuộc với mỗi người. Đến với tục ngữ hình ảnh
đũa chứa đựng nhiều ý nghĩa.
Vợ chồng như đũa có đôi.
Hình ảnh đũa được đưa vào tục ngữ một cách độc đáo nhằm nói lên sự hòa thuận,
gắn bó của những cặp vợ chồng, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi trong xã hội.
Bẻ đũa chắng bẻ được cả nắm.
Với tinh thần đoàn kết, các dân tộc anh em trong cả nước, toàn thể nhân dân ở hai
miền Nam Bắc đã kề vai sát cánh bên nhau, giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, gian nguy.
Đó là sức mạnh vĩ đại được tạo nên từ sự đoàn kết của mỗi cá nhân trong cộng đồng để
tạo nên sức mạnh thời đại. Câu tục ngữ cũng có ý khuyên chúng ta rằng muốn làm việc gì
hoặc vượt qua việc khó thì phải chia nhỏ nó ra để dễ dàng tháo gỡ chúng.
Quơ đũa cả nắm.
Với câu tục ngữ này, ông cha ta có phần chê trách những kẻ đần độn và nêu lên sự
cần thiết phải biết đâu là xấu, đâu là tốt, không nên nói tất cả, gom chung lại làm một, bởi
như thế sẽ gây ảnh hưởng đến người khác. Dao cũng được thể hiện trong tục ngữ với

những lời nhắc nhở của ông cha ta.
Dao sắc chằng chặt được đuôi
Dao chém đằng dọng.
Dao là một vật dụng quen thuộc với mỗi chúng ta ngoài công dụng cắt, thái,… trong
cuộc sống đời thường. Trong tục ngữ dao được thể hiện như một lời nhắc nhở lẫn nhau
rằng: Anh em người thân trong gia đình dù có giận dỗi, ghét nhau thì cũng không nên làm
hại nhau. Đây là lời răn dạy mà ông cha ta đã để lại cho chúng ta.
Giết người không dao
Lỗ miệng thì nói nam mô, trong lòng lại đựng ba bồ dao găm.
Ông cha ta phê phán những kẻ giả dối, bằng mặt không bằng lòng, ngoài miệng lúc
nào cũng tốt nhưng trong lòng lại nghĩ đến điều xấu, muốn hại người khác. Qua hai câu
tục ngữ ta rút ra được bài học cho bản thân đó là không nên sống hai mặt và làm hại
người khác. Đò là phương tiện không thể thiếu của người dân ta ngày xưa.

25


×