ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH VĂN BẰNG 2 CHÍNH QUY
LỚP THƯƠNG MẠI K16
Chuyên đê
“ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
VÀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI, VÍ DỤ MINH HỌA”
Nhóm trình bày
1. Hoàng Nam Long
Trình bày
2. Lê Võ Minh Thư
Thành viên
3. Võ Hoàng Việt
Thành viên
4. Lê Thị Phúc
Thành viên
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 06 năm 2015
MỤC LỤC
I – TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
CỦA VIỆT NAM THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG NĂM 2012.
1. Đánh giá chung
2. Một số nhóm hàng xuất khẩu chính
3. Một số nhóm hàng nhập khẩu chính
II – RÀO CẢN THƯƠNG MẠI & VÍ DỤ MINH HỌA
1. Rào cản thương mại
1.1 Hàng rào thuế quan
1.2 Hàng rào phi thuế quan
2. Các giải pháp vượt qua rào cản thương mại
3. Ví dụ minh họa
3.1 Sử dụng hàng rào phi thuế quan: Mặt hàng thủy sản
3.2
Sử dụng hàng rào thuế quan : Mặt hàng giày mũ da
I- TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA CỦA
VIỆT NAM THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG NĂM 2012
1.
Đánh giá chung
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2012 đạt gần 19,92 tỷ USD, tăng 11,2%. Trong đó,
xuất khẩu đạt kim ngạch gần 9,7 tỷ USD, tăng 8,2% và nhập khẩu là 10,22 tỷ USD,
tăng 14,1% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 5/2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước
đạt 87,29 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: xuất khẩu đạt
43,38 tỷ USD, tăng 24,4% và nhập khẩu là 43,91 tỷ USD, tăng 5,7%. Kết quả này đã
đưa cán cân thương mại của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm thâm hụt 535 triệu
USD, xấp xỉ 1,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 tháng qua là 46,3 tỷ USD, chiếm 53% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong đó, xuất khẩu là 23,57 tỷ USD, tăng 43,3%
và nhập khẩu là 22,73 tỷ USD, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm trước.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất
5 tháng/2011 và 5 tháng/2012
Biểu đồ 2: Kim ngạch nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất
5 tháng/2011 và 5 tháng/2012
2.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính
Hàng dệt may: trong tháng 5/2012 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 1,24 tỷ USD,
tăng mạnh 20,7% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
của cả nước trong 5 tháng/2012 lên 5,46 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam với kim
ngạch đạt trên 2,79 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước và chiếm hơn 51%
tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam trong 5 tháng qua sang thị trường EU là 844 triệu USD, giảm 1,4%; tiếp
theo là Nhật Bản 722 triệu USD, tăng 24,2% và Hàn Quốc: 337 triệu USD, tăng
27,3% so với cùng kỳ năm 2011.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính 5
tháng/2012 so với 5 tháng/2011
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Giày dép: trong tháng 5/2012 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 724 triệu USD, tăng
mạnh 24,3% so với tháng trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả
nước trong 5 tháng/2012 là 2,79 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước.
EU là thị trường lớn nhất nhập khẩu hàng giày dép của Việt Nam trong 5 tháng
qua với trị giá đạt hơn 1 tỷ USD, tăng 7,5%; tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ đạt 860
triệu USD, tăng 20,9%; Trung Quốc: 130 triệu USD, tăng 53%; Nhật Bản: 126 triệu
USD, tăng 20,8% so với 5 tháng năm 2011.
Điện thoại các loại & linh kiện: trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng
5/2012 là 769 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại các
loại & linh kiện 5 tháng/2012 lên 3,79 tỷ USD, tăng tới 130% so với cùng kỳ năm
trước.
Các đối tác chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 5 tháng/2012 là:
EU với 1,77 tỷ USD, tăng 152,2%; Ảrập Xê út: 329 triệu USD, tăng 292%; Nga: 203
triệu USD, tăng 50,9%; Hồng Kông: 172 triệu USD; tăng 16,9% so với cùng kỳ năm
trước.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi
tính, sản phẩm điện tử & linh kiện trong tháng là 609 triệu USD, nâng tổng kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng/2012 lên 2,77 tỷ USD, tăng 86,3% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 729 triệu USD, tăng
142%; EU đạt 452 triệu USD, tăng 78%; Hoa Kỳ đạt 345 triệu USD, tăng 80%,... so
với cùng kỳ năm 2011.
Gạo: trong tháng, lượng gạo xuất khẩu đạt 737 nghìn tấn, giảm 15,5% so với
tháng trước. Tính đến hết tháng 5/2012 lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt
2,93 triệu tấn, giảm 12,9% và kim ngạch là 1,36 tỷ USD giảm 17,9% so với cùng kỳ
năm 2011.
Biểu đồ 2: Lượng, trị giá xuất khẩu gạo 5 tháng/2012 so với 5 tháng/2011
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Các thị trường chính nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 5 tháng qua bao
gồm: Trung Quốc: 880 nghìn tấn, tăng 360%; Malaixia: 306 nghìn tấn, tăng 16,8%;
Inđônêxia: 274 nghìn tấn, giảm 60%; Philippine: 245 nghìn tấn, giảm 47%; Bờ Biển
Ngà: 145 nghìn tấn, tăng 195% so với cùng kỳ năm trước,...
Cà phê: lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 5/2012 là hơn 203 nghìn tấn, tăng
21% so với tháng trước. Tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của nước ta trong 5
tháng qua là 904 nghìn tấn, trị giá là 1,89 tỷ USD, tăng 12,9% về lượng và tăng 8% về
trị giá so với 5 tháng/2011.
Biểu đồ 3: Lượng xuất khẩu cà phê các tháng từ năm 2010 đến tháng 5/2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Cao su: lượng cao su xuất khẩu trong tháng 5/2012 đạt 74,7 nghìn tấn, nâng tổng
lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong 5 tháng/2012 lên 342 nghìn tấn, trị
giá xuất khẩu chỉ đạt 1,04 tỷ USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu và tiêu thụ cao su của Việt Nam với
189 nghìn tấn, tăng 32,6% và chiếm tới 55% lượng cao su xuất khẩu của cả nước.
Tiếp theo là các thị trường: Malaixia: 50,5 nghìn tấn, tăng 223%; EU: 23,8 nghìn tấn,
tăng 13,9%; Hàn Quốc: 15,3 nghìn tấn, tăng 31,3%; Đài Loan: 14,7 nghìn tấn, tăng
59,1%;…
Sắn và sản phẩm sắn: lượng xuất khẩu trong tháng 5/2012 là hơn 514 nghìn tấn,
nâng tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của nước ta trong 5 tháng qua lên 2,36
triệu tấn, trị giá là 694 triệu USD, tăng 51,6% về lượng và tăng 27% về trị giá so với 5
tháng/2011.
Trung Quốc là đối tác chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 5
tháng/2012 với 2,12 triệu tấn, tăng 43,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 90%
lượng xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn của cả nước. Tiếp theo là các thị trường: Hàn
Quốc: 96 nghìn tấn, Inđônêxia: 49 nghìn tấn, Đài Loan: 33 nghìn tấn, Philippin: 25
nghìn tấn.
Dầu thô: lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là 705 nghìn tấn, tăng 7,6%, trị giá
là 642 triệu USD, giảm 1,2% so với tháng 4/2012. Tính đến hết tháng 5/2012, lượng
dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 3,07 triệu tấn, giảm 9% và kim ngạch đạt 2,96 tỷ
USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Dầu thô của nước ta 5 tháng/2012 chủ yếu được xuất khẩu sang Nhật Bản với gần
1,28 triệu tấn, tăng 118%; sang Malaysia: 464 nghìn tấn, tăng 6,6%; sang Trung
Quốc: 426 nghìn tấn, tăng 48% sang Ôxtrâylia: 407 nghìn tấn, giảm 34,9%; sang Hoa
Kỳ: 112 nghìn tấn, giảm 32,8%… sovới 5 tháng/2011.
Than đá: trong tháng lượng than đá xuất khẩu của cả nước là 1,68 triệu tấn, nâng
tổng lượng than đá xuất khẩu trong 5 tháng/2012 lên 6,14 triệu tấn, giảm 9,8%. Trị giá
xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng là 531 triệu USD, giảm 18,7%, tương ứng
giảm 122 triệu USD so với cùng kỳ năm trước.
Trong 5 tháng qua, lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam sang các thị trường
chính đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: xuất khẩu sang Trung Quốc là 4,87
triệu tấn, giảm 5%; sang Hàn Quốc: 497 nghìn tấn, giảm 29,6%; sang Nhật Bản: 419
nghìn tấn, giảm 33,8% so với cùng kỳ năm trước.
3.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này
trong tháng là hơn 1,53 tỷ USD, tăng 16,9% so với tháng trước. Tính đến hết 5
tháng/2012, tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này là 6,28 tỷ USD, tăng 4,3% so
với cùng kỳ năm 2011; trong đó khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhập khẩu 3,26 tỷ USD, tăng 35,9% và khối các doanh nghiệp trong nước nhập
khẩu 3,02 tỷ USD, giảm 15,5%.
Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu từ các thị trường: Trung Quốc:
1,98 tỷ USD, giảm 1,8%; Nhật Bản: 1,24 tỷ USD, tăng 14,8%; Hàn Quốc: 666 triệu
USD, tăng 47,7%; Đức: 350 triệu USD, tăng 9,6%; Đài Loan: 340 triệu USD, giảm
3%; Hoa Kỳ: 320 triệu USD, giảm 3%;… so với 5 tháng/2011.
Điện thoại các loại & linh kiện: trong tháng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là
389 triệu USD, tăng 38,4% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 5/2012, trị giá nhập
khẩu điện thoại các loại và linh kiện vào Việt Nam là 1,59 tỷ USD, tăng 88% so với
cùng kỳ năm 2011.
Việt Nam nhập khẩu điện thoại các loại & linh kiện trong 5 tháng qua chủ yếu từ
thị trường Trung Quốc với 1,1 tỷ USD, tăng 106% và chiếm 69% tổng kim ngạch
nhập khẩu nhóm hàng này. Tiếp theo là Hàn Quốc: 379 triệu USD, tăng 50%;… so
với cùng kỳ năm trước.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: kim ngạch nhập khẩu nhóm mặt
hàng này trong tháng đạt 1,14 tỷ USD, tăng 38,5% so với tháng 4/2012. Tính đến hết
tháng 5/2012, cả nước nhập khẩu gần 4,6 tỷ USD nhóm hàng này, tăng mạnh 95,7%
so với 5 tháng/2011; trong đó nhập khẩu của khu vực các doanh nghiệp FDI là gần
4,03 tỷ USD, tăng 117% và nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước là gần
571 triệu USD, tăng 7,4%.
Trung Quốc là thị trường cung cấp lớn nhất nhóm hàng này cho Việt Nam với
kim ngạch đạt 1,14 tỷ USD, tăng 45%. Tiếp theo là các thị trường: Hàn Quốc: 1,08 tỷ
USD, tăng 72,2%; Nhật Bản: 621 triệu USD, tăng 79%; Hoa Kỳ: 438 triệu USD, tăng
6,8 lần và Singapore: 379 triệu USD, tăng 5,4 lần; … so với cùng kỳ năm 2011.
Nguyên vật liệu cho ngành dệt may da giày: kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng
này trong tháng đạt 1,21 tỷ USD, tăng 13,8% so với tháng 4/2012. Tính đến hết tháng
5/2012, tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 4,93 tỷ USD, giảm 5,9%; trong
đó, kim ngạch nhập khẩu vải là 2,76 tỷ USD, giảm 1,3%; nguyên phụ liệu: 1,23 tỷ
USD, tăng 0,5%; xơ, sợi: 574 triệu USD, giảm 14,3%; bông: 365 triệu USD, giảm
33% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 5 tháng qua, Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu từ các thị
trường: Trung Quốc: 1,67 tỷ USD, tăng nhẹ 0,6%; Hàn Quốc: 846 triệu USD, giảm
3%; Đài Loan: 835 triệu USD, giảm 6,8%; Nhật Bản: 318 triệu USD, tăng 23,6%;
Hồng Kông: 235 triệu USD, giảm 10%; … so với cùng kỳ năm 2011.
Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng 5/2012, cả nước nhập khẩu 207
triệu USD nhóm hàng thức ăn gia súc & nguyên liệu, tăng 41,5% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 5/2012, tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước là 812
triệu USD, giảm 16,9% so với cùng kỳ năm 2011; trong đó nhập khẩu khô dầu đậu
tương đạt 358 triệu USD, giảm 34% so với 5 tháng/2011.
Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc & nguyên liệu chủ yếu từ các thị
trường: Ấn Độ: 172 triệu USD, giảm 48%; Achentina: 126 triệu USD, giảm 7,5%;
Hoa Kỳ: 107 triệu USD, tăng 5,9%; Brazil: 76 triệu USD, giảm 19,5%; … so với 5
tháng/2011.
- Ngô: lượng ngô nhập khẩu trong tháng là gần 172 nghìn tấn, trị giá đạt gần 53
triệu USD, tăng 20,1% về lượng và tăng 13,6% về trị giá so với tháng trước; nâng
tổng lượng nhập khẩu trong 5 tháng/2012 lên gần 724 nghìn tấn, trị giá là 224 triệu
USD, tăng 29,9% về lượng và tăng 27,6% về trị giá so với 5 tháng/2011.
Biều đồ 4: Trị giá nhập khẩu các nhóm hàng ngô, đậu tương, thức ăn gia súc
trong 5 tháng/2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
- Đậu tương: Lượng đậu tương nhập khẩu trong tháng 5/2012 đạt gần 162 nghìn
tấn, trị giá đạt 97,6 triệu USD, tăng 88,4% về lượng và tăng 97,5% về trị giá so với
tháng 4/2012. Tính đến hết tháng 5/2012, cả nước đã nhập khẩu 598,6 nghìn tấn đậu
tương, trị giá là hơn 333 triệu USD, tăng 168,6% về lượng và tăng 163,1% về trị giá
so với 5 tháng/2011.
Xăng dầu các loại: trong tháng, lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước là gần
837 nghìn tấn, trị giá đạt 810 triệu USD, giảm 6,5% về lượng và giảm 12,2% về trị giá
so với tháng 4/2012. Tính đến hết 5 tháng/2012, tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của
cả nước là gần 3,83 triệu tấn, giảm 25,9% với trị giá là hơn 3,86 tỷ USD, giảm 16,6%
(tương ứng với giảm 768 triệu USD về số tuyệt đối) so với cùng kỳ năm 2011.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 5 tháng qua chủ yếu có
xuất xứ từ: Singapore với 1,66 triệu tấn, giảm 31,2%; tiếp theo là Trung Quốc: 546
nghìn tấn, tăng 8,3%; Đài Loan: 502 nghìn tấn, giảm 36%; Hàn Quốc: 442 nghìn tấn,
giảm 16%; Thái Lan: 250 nghìn tấn, tăng 2,2%; Cô oét: 202 nghìn tấn, giảm 31,3%;…
so với 5 tháng/2011.
- Ôtô nguyên chiếc: lượng ô tô nhập khẩu trong tháng 5/2012 là 2,43 nghìn chiếc,
tăng 10,9% so với tháng trước với trị giá nhập khẩu là 53,7 triệu USD, tăng 20,4%.
Tính đến hết tháng 5/2012, tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập về là 11,9 nghìn chiếc,
giảm 55% với trị giá là 235 triệu USD, giảm 53,6% so với cùng kỳ năm 2011.
Biểu đồ 6: Lượng nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại năm 2011 và 5
tháng/2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính cung cấp ô tô nguyên chiếc sang thị trường
Việt Nam với hơn 5,6 nghìn chiếc, giảm 51,8% và chiếm 47% tổng lượng ô tô nguyên
chiếc nhập khẩu của cả nước. Tiếp theo là Thái Lan: 1,8 nghìn chiếc, giảm 17,6%;
Trung Quốc: 1,53 nghìn chiếc, giảm 45,7%; Ấn Độ: 963 chiếc, tăng 15,2%; … so với
5 tháng/2011.
II – RÀO CẢN THƯƠNG MẠI & VÍ DỤ MINH HỌA
1. Rào cản thương mại
Đó là những biện pháp cản trở dòng chảy của hàng hóa xuất khẩu, vì thế chúng là
“rào cản”. Rào cản thương mại là thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu. Đó
cũng là nỗi lo của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Xét về tính chất, có thể chia các biện pháp này thành hai nhóm:
Thứ nhất: là nhóm các biện pháp áp đặt thường xuyên đối với hàng hóa nhập
khẩu từ các thành viên WTO và không mang tính trừng phạt, bao gồm các yêu cầu kỹ
thuật (nhãn mác, chất lượng, đóng gói...) hay các đòi hỏi về điều kiện vệ sinh dịch tễ
hoặc có thể hiểu là: những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương
mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học hoặc bình đẳng. Hàng rào phi thuế
quan thường được áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Hình thức của hàng rào phi thuế
quan rất phong phú, gồm: Các biện pháp hạn chế định lượng, các biện pháp tương
đương thuế quan, các rào cản kỹ thuật, các biện pháp liên quan đến đầu tư nước ngoài,
các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (hàng
rào phi thuế quan ).
Thứ hai: là nhóm các biện pháp áp đặt mang tính trừng phạt, đối với một nhóm
hàng hóa cụ thể từ một số thành viên WTO nhất định bao gồm biện pháp bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ hoặc có thể hiều : một loại thuế đánh vào hàng mậu dịch, phi
mậu dịch khi hàng hóa đi qua khu vực hải quan của một nước Hiện nay, khi hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì các quốc gia tìm cách giảm dần và tiến tới xóa
bỏ hàng rào thuế quan (hàng rào thuế quan)
2. Các giải pháp vượt qua rào cản thương mại:
Đối với “rào cản kỹ thuật” như các yêu cầu kỹ thuật hay các điều kiện về vệ
sinh dịch tễ mà mỗi thành viên WTO tự đặt ra, cách duy nhất vượt rào an toàn là
biết đầy đủ, thực hiện đúng và thường xuyên các yêu cầu này.
Đối với những rào cản mang tính trừng phạt như thuế chống bán phá giá, thuế
chống trợ cấp hay biện pháp tự vệ bằng hạn ngạch hoặc cấm nhập khẩu, dù mang
tính vụ việc, nhưng lại đòi hỏi một phương thức đối phó thường trực.
Giải pháp khả quan nhất là đa dạng hóa thị trường, hạn chế sự phát triển quá nóng
xuất khẩu vào một thị trường và thường xuyên theo dõi động thái của ngành sản xuất
nội địa thị trường nhập khẩu. Rõ ràng, rào cản thương mại là những công cụ đang và
sẽ được duy trì trong thực tiễn thương mại quốc tế. Một mặt, các Doanh nghiệp Việt
Nam cần chuẩn bị tốt để vượt qua những rào cản này. Mặc khác, Chính phủ cần vận
dụng linh hoạt và hợp lý các biện pháp rào cản được phép nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng của các ngành sản xuất trong nước
3.Ví dụ minh họa các biện pháp sử dụng rào cản thương mại:
3.1 Sử dụng rào cản phi thuế quan:
Thủy sản Việt Nam và Khánh hòa đối mặt với rào cản thương mại
Từ đầu năm 2007 đến nay, xuất khẩu thủy sản của nước ta gặp nhiều khó khăn và có
sự đảo chiều về cơ cấu thị phần:
Các nước dựng rào cản kỹ thuật an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP);
Theo báo cáo VASEP, đến cuối tháng 6/2007, ta xuất sang Nhật 6.000 lô hàng
thủy sản, nhưng có đến 94 lô bị phát hiện dự lượng kháng sinh (chiếm 1,6%), trong
đó Khánh Hòa có 6 lô;
Theo Bộ Thủy sản: 2006 thị phần xuất khẩu sang Nhật là 800 triệu USD
(chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu), tiếp đến là EU, Hoa Kỳ, nhưng 6 tháng
đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật tụt xuống chiếm 17% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Do hàng rào VSATTP nên kim ngạch xuất khẩu giảm 10%, vào
Nhật giảm 8% so với cùng kỳ 2006.
Danh sách các doanh nghiệp XKTS Việt Nam sang Nhật bị phát hiện nhiễm chất
kháng sinh trong các lô hàng thủy sản ngày một dài ra (theo báo cáo của Cục Quản lý
chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQAVED), mà nguyên nhân: Nuôi
trồng (tôm, cá basa) không theo quy hoạch; giống không đảm bảo chất lượng; môi
trường ngày càng ô nhiễm; việc sử dụng thuốc, thức ăn thủy sản hiện không kiểm soát
được; ý thức và sự hiểu biết của người nuôi còn hạn chế; tranh mua, tranh bán nguyên
liệu; một số doanh nghiệp còn sử dụng hóa chất, kháng sinh bị cấm để vệ sinh, sát
trùng chân tay, bảo hộ lao động.
Theo Sở Thủy sản Khánh Hòa: Vấn đề dư lượng kháng sinh trong sản phẩm xuất
khẩu thủy sản đã trở thành vấn đề bức xúc hiện nay.
Tổ chức lại sản xuất - yêu cầu bức bách:
Theo nhận định của các chuyên gia, để
đáp ứng 4 “luật chơi” trên, việc tổ chức lại sản xuất là yêu cầu bức bách, trong đó
GAP – Chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ khâu chuẩn bị sản xuất
đến trước và sau khi thu hoạch, kể cả các yêu tố liên quan khác như môi trường, thuốc
bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi người lao động là khó
khăn nhất. Các nước trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng về ATVSTP như EU
có EuroGAP, Australia có Fresh Care, khối Asean có AseanGAP …nhằm hạn chế
lượng hàng nhập khẩu nào đó.
Chỉ có tổ chức cho nông, ngư dân sản xuất hợp lý mới có thể đáp ứng 4 luật chơi
của WTO như đã trình bày ở trên: Số lượng hàng lớn; chất lượng; giá thành rẻ;
VSATTP.
3.2 Sử dụng hàng rào thuế quan
Ngày 16/03/2011, Ủy ban Châu Âu ra thông báo chính thức chấm dứt lệnh áp
thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu giày mũ da của Việt Nam và Trung
Quốc. Theo đó, thuế chống bán phá giá áp đặt lên các sản phẩm giày mũ da có xuất xứ
từ Việt Nam và Trung Quốc sẽ được dỡ bỏ kể từ ngày 01/04/2011.
Ngày 30/05/2005, Liên đoàn sản xuất giày dép Châu Âu (CEC), đại diện cho các
nhà sản xuất chiếm 40% tổng sản lượng giày mũ da của Châu Âu, đã nộp đơn lên Ủy
ban châu Âu yêu cầu cơ quan này tiền hành điều tra chống bán phá giá đối với sản
phẩm giày mũ da của Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 07/07/2005, Ủy ban Châu Âu ra thông báo chính thức khởi xướng vụ điều
tra trên Công báo của Liên minh Châu Âu theo đó các sản phẩm giày mũ da có xuất
xứ từ Việt Nam và Trung Quốc được nhập khẩu vào EC sẽ bị điều tra chống bán phá
giá.
Phạm vi sản phẩm bị điêu tra:
Giày có mũ da hoặc cấu tạo từ da, được thiết kế phục vụ cho các hoạt động thể
thao, có mã sản phẩm: 64032000, 64033000, 64035111, 64035115, 64035119,
64035191, 64035195, 64035199, 64035911, 64035931, 64035935, 64035939,
64035991, 64035995, 64035999, 64039111, 64039113, 64039116, 64039118,
64039191, 64039193, 64039196, 64039198, 64039911, 64039931, 64039933,
64039936, 64039938, 64039991, 64039993, 64039996, 64039998, và 64051000.
Việc điều tra được thực hiện dựa trên các số liệu phát sinh trong “giai đoạn điêu
tra” – thường là khoảng 6 tháng (theo Điêu 6.1 Quy tắc vê chống bán phá giá của
EC). Trên thực tế, “giai đoạn điều tra” thường được ấn định là 12 tháng liền trước thời
điểm Thông báo điều tra. Trong vụ việc này, giai đoạn điều tra được xác định theo
năm tài khóa từ ngày 01/04/2004 đến ngày 31/03/2005.
Do số lượng các nhà sản xuất xuất khẩu của Việt Nam nêu trong đơn kiện quá lớn
(86 doanh nghiệp), Ủy ban châu Âu - cơ quan chịu trách nhiệm điều tra đã áp dụng
phương pháp chọn mẫu theo Điêu 17(1) Quy tắc vê chống bán phá giá của EC. Để
Ủy ban Châu Âu có thể đưa ra quyết định chọn nhà sản xuất nào trong nhóm được
điều tra (nhóm mẫu), các nhà sản xuất phải tự “trình diện” những thông tin cơ bản về
tình hình xuất khẩu và hoạt động của mình trong giai đoạn điều tra (tức là từ
01/04/2004 đến 31/03/2005) trước Ủy ban Châu Âu trong vòng 15 ngày kể từ ngày
Thông báo khởi xướng điều tra.
Việc điều tra trên thực tế chỉ được tiến hành với các bị đơn bắt buộc này, về 2
nhóm vấn đề (i) hành vi bán phá giá của họ và (ii) thiệt hại gây ra đối với ngành sản
xuất nội địa Hoa Kỳ. Kết quả điều tra sẽ được sử dụng để xác định có áp dụng biện
pháp chống bán phá giá hay không, ở mức nào đối với các bị đơn bắt buộc và các bị
đơn khác không được lựa chọn điều tra.
Quy chế nền kinh tế thị trường và lựa chọn quốc gia thay thế
Theo quy định của EU, trong điều tra chống bán phá giá, Việt Nam chưa được
công nhận là nền kinh tế thị trường (MET), do vậy, giá thông thường trong tính toán
biên độ phá giá sẽ được xây dựng dựa trên những thông tin, số liệu của sản phẩm
tương tự với sản phẩm bị điều tra tại một nước thứ ba (quốc gia thay thế) có nền kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, Ủy ban châu Âu có thể cho từng doanh nghiệp bị đơn được
hưởng quy chế MET nếu đáp ứng được các tiêu chí quy định. Trong vụ việc này,
không doanh nghiệp Việt Nam nào chứng minh được với Ủy ban châu Âu rằng mình
thỏa mãn các tiêu chí để được hưởng MET. Do đó, Braxin được EC lựa chọn làm
quốc gia thay thế để xác định biên độ phá giá của doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một
bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi Braxin hoàn toàn khác Việt Nam ở
mức độ phát triển kinh tế xã hội, chi phí lao động, giá thành các nhân tố sản xuất và
do đó khiến cho kết quả tính toán thiếu sát thực với tình hình thực tế của doanh
nghiệp.
Các tiêu chí MET cho doanh nghiệp
Việc ra quyết định của doanh nghiệp liên quan tới giá, chi phí, các yêu tố đầu
vào có được thực hiện dựa trên quan hệ cung cấp, không có sự can thiệp của Nhà
nước;
Doanh nghiệp có hệ thống sổ sách kế toán rõ ràng, được kiểm toán độc lập theo
các tiêu chuẩn kế toán quốc tế và được sử dụng thống nhất cho tất cả các mục đích;
Không có sự bóp méo đáng kể từ hệ thống cũ của nền kinh tế phi thị trường;
Tính pháp lý và ổn định của pháp luật về sở hữu và phá sản;
Đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi theo tỷ giá thị trường.
Điều tra về việc bán phá giá được tiến hành bằng việc xác định và sau đó là so
sánh giá bán sang EU (gọi là giá xuất khẩu) với giá thông thường của sản phẩm, từ đó
xác định biên độ phá giá cho từng doanh nghiệp bị đơn. Theo tính toán của Ủy ban
châu Âu, tất cả các doanh nghiệp này đều có biên độ phá giá dương (có bán phá giá)
và ở mức tương đối cao.
Điêu tra vê thiệt hại, mối quan hệ nhân quả và lợi ích Cộng đồng:
Song song với việc điều tra về phá giá, Ủy ban châu Âu tiến hành điều tra xem
ngành sản xuất của EC có chịu thiệt hại đáng kể do hành vi bán phá giá hay không,
cũng như những tác động nếu áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với lợi ích
cộng đồng EC ra sao. Theo cơ quan điều tra EC, mặc dù có sự tăng nhẹ trong tiêu
dùng sản phẩm giày mũ da trong giai đoạn điều tra (tăng 1%), ngành sản xuất nội địa
đã không được hưởng lợi từ con số gia tăng ít ỏi này, sản lượng sản xuất trong nội địa
EU giảm hơn 30% trong giai đoạn này. Cùng với đó, theo kết luận của cơ quan điều
tra, ngành này cũng chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về doanh số (giảm 33 % tương
đương với 60 triệu Euro từ năm 2001 đến 2005), tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng cao (27
nghìn lao động mất việc làm, tăng 33% kể từ năm 2001 đến 2005). Trong khi đó, theo
cơ quan này kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam trong giai đoạn này lại
có sự tăng trưởng rõ rệt. Cơ quan điều tra kết luận thiệt hại nói trên của ngành sản
xuất nội địa của EU là do hàng Việt Nam và Trung Quốc bán phá giá gây ra.
Ngoài ra, Ủy ban châu Âu còn tiến hành tính toán biên độ thiệt hại (dựa trên việc
so sánh giá bán thực tế của sản phẩm bị điều tra với một mức giá “không gây thiệt
hại” mà cơ quan này tính toán). Theo quy định, nếu kết thúc điều tra, một lệnh thuế
chống bán phá giá được áp dụng thì mức thuế chống bán phá giá sẽ bằng biên độ phá
giá hoặc biên độ thiệt hại, tùy vào loại biện độ nào có giá trị thấp hơn. Đây là quy định
khá đặc biệt, riêng có của EU và về cơ bản là có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu
bị điều tra.
Quyết định áp thuế chống bán phá giá tạm thời
Từ kết luận sơ bộ khẳng định có hành vi bán phá giá và gây ra thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất giầy mũ da nội địa của EC, ngày 23/03/2006, Ủy ban châu Âu
thông báo quyết định áp thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm giày mũ da
của Việt Nam và Trung Quốc với biên độ phá giá:
Quốc gia
Từ 07/04/2006
đến 01/06/2006
Từ
Từ
Từ
02/06/2006 đến 14/07/2006 đến 15/09/2006 trở
13/07/2006
14/09/2006
đi
Trung Quốc
4.8 %
9.7 %
14.5 %
19.4 %
Việt Nam
4.2 %
8.4 %
12.6 %
16.8 %
Quyết định áp thuế chống bán phá giá chính thức
Ngày 05/10/2006, Ủy ban châu Âu ra thông báo quyết định áp thuế chống bán phá
giá chính thức đối với sản phẩm giày mũ da nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc
với mức thuế suất áp dụng đối với hàng giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam là 10%
(trong khi đó mức áp dụng với hàng Trung Quốc là 16.8%). Mức thuế chống bán phá
giá này được xem là xác định theo biên độ thiệt hại, được áp dụng chung cho tất cả
các doanh nghiệp (không phân biệt doanh nghiệp được điều tra hay không được điều
tra). Quyết định có hiệu lực trong vòng 2 năm kể từ ngày ra Thông báo áp dụng biện
pháp chống bán phá giá (thay vì 5 năm như thông thường ở EC).
Việc bị áp thuế chống bán phá giá là một bất lợi lớn cho sản phẩm giầy mũ da
Việt Nam tại EU. Mặc dù vậy, nhiều chuyên gia cũng cho rằng trong vụ việc này Việt
Nam đã “thắng lợi” trong việc đạt được mức thuế cạnh tranh hơn Trung Quốc và vận
động EC lần đầu tiên chấp nhận thời hạn áp thuế ngắn hơn thông thường.
Rà soát thuế chống bán phá giá
Theo quy định, trước khi hết thời hạn áp thuế chống bán phá giá chính thức,
ngành sản xuất nội địa của EC có quyền nộp đơn yêu cầu điều tra để gia hạn tiếp lệnh
này. Trường hợp không có yêu cầu gì thì lệnh áp thuế tự động chấm dứt khi hết thời
hạn.
Trong vụ việc này, trước khi hết hạn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với giầy
mũ da Việt Nam, ngày 30/06/2008, Liên đoàn sản xuất giầy dép châu Âu đã đệ đơn
yêu cầu Ủy ban châu Âu tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá áp đặt với giày mũ
da nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Chấp nhận yêu cầu này, Ủy ban châu Âu
đã tiến hành điều tra rà soát để xác định xem việc chấm dứt thuế có khả năng dẫn đến
sự tái diễn của hiện tượng bán phá giá không. Số liệu điều tra được lấy từ các lô hàng
xuất khẩu sang EU trong giai đoạn rà soát từ 01/07/2007 đến 30/06/2008.
Ngày 22/12/2009, Ủy ban châu Âu ra thông báo tiếp tục gia hạn lệnh áp thuế
chống bán phá giá thêm 15 tháng, kể từ ngày này.
Kết thúc thời hạn 15 tháng, do không có đơn yêu cầu rà soát lại nào từ phía ngành
sản xuất nội địa, lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với giầy mũ da của Việt Nam và
Trung Quốc tại EU đã tự động chấm dứt.
Những bài học giá trị từ vụ kiện:
Trong các vụ kiện chống bán phá giá, mặc dù khó có thể tìm thấy động cơ thực sự
đằng sau quyết định khởi kiện của nguyên đơn, các chuyên gia vẫn cho rằng một yếu
tố quan trọng là sự gia tăng mạnh mẽ của lượng hàng nhập khẩu vào một nước khiến
ngành sản xuất nội địa lo lắng. Tuy nhiên, trong vụ kiện này, số liệu thống kê lượng
hàng giầy dép nhập khẩu vào EU có mã HS 640399, 640391, 640359 và 640351 cho
thấy trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2005, Trung Quốc nhập khẩu vào EU tăng
đột biến, trong khi lượng hàng nhập khẩu từ Việt Nam có tăng nhưng không đáng kể
(Xem Biểu đồ) và với tình hình đó, thật khó có thể nói hàng Việt Nam có nguy cơ
tiềm tàng gây hại cho sản xuất giầy mũ da EU.
Biểu đồ 1: Thị phần trong xuất khẩu giầy dép của EU
Nguồn: Dự án Mutrap III
Vậy tại sao EU lại kiện hàng Việt Nam thay vì chỉ kiện Trung Quốc (nước có sự
gia tăng đột biến trong nhập khẩu sản phẩm liên quan vào EU)? Trên thực tế, phân
tích của nhiều chuyên gia cho rằng sở dĩ Việt Nam bị kiện là do EU lo ngại nếu chỉ
kiện Trung Quốc và áp dụng biện pháp thuế với hàng giầy mũ da nước này, rất có thể
dòng vốn đầu tư cho ngành sản xuất này sẽ di chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam
để lẩn tránh thuế chống bán phá giá. Và để giải quyết mối quan ngại này, thay vì điều
tra chống bán phá giá đối với riêng Trung Quốc, EC quyết định tiến hành điều tra
chống bán phá giá với cả các sản phẩm của Việt Nam.
Điều này, nếu quả đúng như vậy, sẽ là một bài học kinh nghiệm quý giá cho hàng
hóa Việt Nam: Rằng một vụ kiện chống bán phá giá có thể xảy đến với hàng hóa Việt
Nam không phải vì chính hàng hóa Việt Nam bán phá giá mà vì mối đe dọa từ những
nước láng giềng có sản phẩm tương tự Việt Nam xuất sang cùng một thị trường. Hiện
tượng “domino” (hay còn gọi là “kiện chùm”) trong việc kiện chống bán phá giá đang
ngày càng phổ biến trên thế giới và các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt lưu ý vấn
đề này để phòng tránh và có phương thức đối phó khi không thể tránh khỏi.
Chủ động đối phó với vụ kiện:
Lần đầu tiên bị kiện một vụ lớn, ở một thị trường lớn như EU, ngành giầy dép
Việt Nam cũng như các doanh nghiệp liên quan ban đầu đã không khỏi lúng túng.
Trên thực tế, việc theo đuổi một vụ kiện chống bán phá giá đòi hỏi rất nhiều thời gian,
công sức để có thể xử lý một khối lượng công việc không nhỏ trong tuân thủ các quy
định pháp lý, thu thập thông tin chứng minh, đảm bảo đúng, đầy đủ, kịp thời những tài
liệu, số liệu, thông tin thực tế. Doanh nghiệp cũng như Hiệp hội lại chưa có hiểu biết
đầy đủ cũng như sẵn sàng những điều kiện liên quan. Vì vậy những đối phó ban đầu
được đánh giá là còn chậm chạp và thiếu hiệu quả.
Rất may là vụ việc sau đó đã được tập trung xử lý với sự hỗ trợ hợp tác từ nhiều
phía, đặc biệt là các đơn vị liên quan. Những biện pháp phù hợp đã nhanh chóng được
thực hiện.và đã đạt những hiệu quả tích cực.
Thuê luật sư tư vấn:
Trong một vụ kiện chống bán phá giá, việc xây dựng một chiến lược kháng kiện,
chuẩn bị đầy đủ các lập luận, chứng cứ hợp lý và tham gia các thủ tục tố tụng có ảnh
hưởng mang tính quyết định đến kết quả điều tra. Vì vậy, khi tham gia vào vụ việc,
đặc biệt với tư cách là bị đơn, thì việc thuê luật sư tư vấn để có thể tuân thủ đầy đủ
những quy định của pháp luật, thủ tục hành chính vốn rất phức tạp và đồ sộ của nước
khởi kiện. là rất cần thiết.
Hơn ai hết, luật sư tư vấn am hiểu và thông thạo các thủ tục, quy tắc trong điều
tra, sẽ đưa ra những tư vấn cho doanh nghiệp nhằm giảm áp lực tham gia theo kiện,
giảm rủi ro cho doanh nghiệp. Trong vụ kiện này, việc lựa chọn được một công ty luật
tại Bỉ thực sự có năng lực, uy tín và kinh nghiệm đã đóng góp phần quan trọng vào
những kết quả tích cực của vụ kiện này.
Vận động các bên có chung lợi ích:
Sẽ không phải là quá lời khi nói rằng một trong những điểm sáng mang lại kết quả
tích cực trong những giai đoạn khác nhau của vụ kiện cũng như việc chấm dứt lệnh áp
thuế là những nỗ lực vận động của Hiệp hội Da giầy và Chính phủ Việt Nam nhằm
tăng cường tiếng nói ủng hộ Việt Nam tại các diễn đàn và thiết chế có liên quan của
EU.
Cần lưu ý rằng, EU là một liên minh với 27 thành viên và việc ra các quyết định
liên quan đến việc áp thuế chống bán phá giá trong EU đòi hỏi lá phiếu của đa số các
quốc gia thành viên. Vì vậy việc vận động, tìm kiếm sự ủng hộ ở các quốc gia thành
viên EU có ý nghĩa quan trọng bên cạnh những nỗ lực chứng minh chi tiết trong quá
trình điều tra. Ngoài ra, khác với các quy định về pháp luật chống bán phá giá của các
quốc gia khác, một trong bốn điều kiện xem xét trong quá trình ra quyết định áp thuế
chống bán phá giá là “việc áp thuế không mâu thuẫn với lợi ích Cộng đồng”. Vì vậy,
vận động các nhóm lợi ích ở EU có cùng mối quan tâm với doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam (ví dụ người tiêu dung, các nhà nhập khẩu…) nhằm tạo ra làn sóng ủng hộ
tại chính EU trong quá trình xem xét “lợi ích Cộng đồng” có thể tạo ra những tác động
không nhỏ đến quyết định áp thuế cuối cùng.