MẠNG LƯỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
VỀ THỰC THI LÂM LUẬT, QUẢN TRỊ RỪNG VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN
(VNGO-FLEGT)
Đánh giá Tác động của Hiệp định Đối tác Tự
nguyện (VPA) tới Sinh kế tại Việt Nam
Tác giả: Phan Triều Giang, Trần Nam Thắng, Dương Thị Liên,
Nguyễn Kim Trọng and Lý Văn Trọng
Hà Nội, Tháng 3, 2015
1
LỜI CẢM ƠN
Báo cáo này được tổng hợp từ 6 nghiên cứu về Đánh giá tác động tiềm tàng sinh kế
(LIA) được thực hiện trong hai năm 2013 và 2014 trong đó 3 nghiên cứu được triển khai vào
năm 2013 và 3 nghiên cứu còn lại từ năm 2014 .
Các nghiên cứu LIA được đồng tài trợ bởi Chương trình Quản trị rừng, Thị trường và
Khí hậu (FGMC) của Bộ Phát triển Quốc tế (DFID) Vương Quốc Anh do Forest Trends quản
lý, và Chương trình FLEGT EU-FAO của Tổ chức Lương Nông Liên Hợp Quốc (FAO).
FERN cũng hỗ trợ các nghiên cứu và phối hợp chặt chẽ với Forest Trends. Thay mặt Ban điều
hành mạng lưới VNGO-FLEGT, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến DFID, FAO, Forest Trends và
FERN đã hỗ trợ nghiên cứu này.
Mạng lưới cũng muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Tiến sĩ Michael Richards đã hỗ trợ
biên tập và đóng góp ý kiến cho báo cáo này, Tiến sĩ Mary Hobley, ông Edwin Shanks và ông
Rudi Kohnert đã hỗ trợ về kỹ thuật cho nhóm nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu, cũng
như bà Phạm Thị Bích Ngọc với vai trò điều phối quan trọng trong các nghiên cứu và đóng
góp vào báo cáo này.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn đội ngũ nghiên cứu và các cơ quan chính quyền
đã cung cấp nhân viên tham gia vào nghiên cứu, bao gồm: Trung tâm Phát triển Nông thôn
Bền vững (SRD), Trung tâm Phát triển Nông thôn miền Trung Việt Nam (CRD), Trung tâm
Nghiên cứu Lâm nghiệp và Đất ngập nước (ForWet), Trung tâm Con người và Thiên nhiên
(PanNature), Viện Nghiên cứu về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (FSMI), Trung
tâm Môi trường và Phát triển cộng đồng (CECoD), Trung tâm Tư vấn và Nghiên cứu Quản lý
tài nguyên (CORENARM ), Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng, Trung tâm Khoa học Nghiên
cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ ở vùng Tây Bắc (CARTEN), Hợp tác xã Phát triển
nông thôn Thanh Hóa (CRD) và Trung tâm Phát triển Cộng đồng và thích ứng biến đổi khí
hậu Tây Nguyên (CHCC).
Chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến sĩ Nguyễn Phú Hùng, Tiến sĩ Đoàn
Diễm, ông Nguyễn Hữu Dũng, ông Trần Văn Triễn và tiến sĩ Nicholas Wilson đã có những ý
kiến đóng góp rất quan trọng để cải thiện các báo cáo.
Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn tất cả các bên liên quan, đặc biệt là các đại diện của
các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, các cơ quan địa phương, cá nhân, tổ chức đã cung cấp
thông tin và hỗ trợ cho các mạng lưới các thành viên trong quá trình thực hiện và hoàn thành
báo cáo này.
Mặc dù có những nỗ lực nghiên cứu và sự đóng góp của tất cả các các nhân, tổ chức
và đối tác, do đây là phương pháp nghiên cứu mới, báo cáo sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu
sót trong quá trình nghiên cứu và soạn thảo. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi từ
độc giả để tiếp tục cải thiện báo cáo.
Trân trọng cảm ơn,
Vu Thi Bich Hop
Chủ tịch Ủy ban Điều hành mạng lưới VNGO- FLEGT Giám đốc Điều hành SRD
2
Trân trọng cảm ơn:
Nghiên cứu được tài trợ bởi Bộ Phát triển Quốc tế Anh Quốc.Tuy nhiên các quan điểm
được trình bày không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của Bộ Phát triển
Quốc tế Anh Quốc.
MỤC LỤC
1. Giới thiệu chung ................................................................................................................... 13
2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 16
3.Phân tích các nhóm đối tượng liên quan và cây vấn đề ........................................................ 18
3.1 Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng ............................................................................... 18
3.1.1 Thông tin chung ......................................................................................... 18
3.1.2 Đặc điểm chính về sinh kế của nhóm hộ ................................................... 19
3.1.3 Trở ngại và vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng.............................. 21
3.2 Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng............................................................................ 23
3.2.1 Thông tin chung ......................................................................................... 23
3.2.2 Đặc điểm chính về sinh kế hộ gia đình ...................................................... 23
3.2.3 Trở ngại và vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng .......................... 24
3.3 Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng ........................................................ 27
3.3.1 Thông tin chung ......................................................................................... 27
3.3.2. Đặc điểm sinh kế nhóm hộ ........................................................................ 27
3.3.3 Trở ngại và vấn đề của hộ dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng ................. 28
3.4 Nhóm hộ trồng rừng không hoặc chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) ............................................................................................................................ 30
3.4.1 Thông tin chung ......................................................................................... 30
3.4.2 Đặc điểm sinh kế nhóm hộ ......................................................................... 30
3
3.4.3 Trở ngại và vấn đề của nhóm hộ trồng rừng chưa hay không có
GCNQSDĐ ..................................................................................................................... 31
4. Sự ảnh hưởng của hiệp định VPA tới sinh kế của nhóm hộ dễ bị ảnh hưởng...................... 33
4.1 Nhóm hộ sản xuất đồ nội thất (gỗ) ......................................................................... 33
4.2
Hộ chế biến gỗ rừng trồng .................................................................................. 35
4.3 Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng ........................................................ 38
4.4 Nhóm hộ trồng rừng chưa hoặc không có GCNQSDĐ .......................................... 40
5. Chiến lược để giảm thiểu tác động tiêu cực và tăng lợi ích ................................................. 42
5.1 Nhóm hộ sản xuất đồ nội thất ................................................................................. 42
5.2 Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng............................................................................ 45
5.3 Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng ........................................................ 48
5.4 Nhóm hộ gia đình trồng rừng không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ...... 51
6. Kết luận và khuyến nghị ....................................................................................................... 54
6.1 Kết luận .................................................................................................................. 54
6.1.1 Nhóm hộ sản xuất đồ nội thất .................................................................... 54
6.1.2 Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng ............................................................... 54
6.1.3 Nhóm hộ người dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng ................................. 55
6.1.4 Nhóm hộ trồng rừng không sở hữu GCNQSDĐ........................................ 55
6.2 Khuyến nghị và đề xuất .......................................................................................... 55
6.2.1 Vấn đề an toàn xã hội ................................................................................. 55
6.2.2. Vấn đề pháp lý .......................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 58
CÁC TỔ CHỨC CÁ NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU ......................................... 60
4
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 1. Hội thảo được tổ chức trong năm 2013-2014 ............................................................. 17
Bảng 2. Tác động tiềm tàng của Hiệp định VPA đối với các hộ sản xuất đồ gỗ ..................... 34
Bảng 3. Tác động tiềm tàng của Hiệp định VPA đối với các hộ chế biến gỗ rừng trồng ........ 37
Bảng 4: Tác động tiềm tàngcủa Hiệp định VPA tới nhóm hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống
dựa vào rừng ............................................................................................................................. 39
Bảng 5. Những tác động tiềm năng của Hiệp định VPA tới nhóm hộ trồng rừng không có
GCNQSDĐ ............................................................................................................................... 41
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 1. Địa bàn thực hiện nghiện cứu LIA .............................................................................. 15
Hình 2. Cây vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng (làng Đồng Ky, khu vực đồng bằng
sông Hồng) ............................................................................................................................... 22
Hình 3. Cây vấn đề Nhóm hộ chế biễn gỗ rừng trồng .............................................................. 26
Hình 4. Cây vấn đề nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng ................................. 29
Hình 5. Các vấn đề phải đối mặt bởi nhóm hộ trồng rừng chưa hoặc không có GCNQSDĐ .. 32
Hình 6. Cây giải pháp cho nhóm hộ sản xuất đồ nội thất......................................................... 44
Hình 7. Cây giải pháp cho các hộ chế biến gỗ rừng trồng ....................................................... 47
Hình8. Cây giải pháp cho các hộ gia đình dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng ............. 50
Hình 9. Cây Giải pháp cho người trồng rừng nhưng không sở hữu GCNQSD ....................... 53
5
Các chữ viết tắt
UBND
Ủy ban Nhân dân
CSOs
Các Tổ chức Dân sự xã hội
EU
Liên minh Châu Âu
FLEGT
Chương trình Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản
FPD
Cục kiểm lâm
LD
Định nghĩa gỗ hợp pháp
LIA
Đánh giá tiềm tàng tác động sinh kế
LURC
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
NTFPs
Lâm sản ngoài gỗ
TCA
Kênh phân tích chuyển tải
TLAS
Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp
VAT
Thuế Giá trị Gia tang
VNGO-FLEGT
Mạng lưới các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về Thực thi lâm luật,
Quản trị rừng và Thương mại Lâm sản
VPA
Hiệp định Đối tác Tự nguyện
6
TÓM TẮT
Báo cáo này tổng hợp các kết quả của các nghiên cứu Tác động tiềm tàng tại Việt Nam của
Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA) đến các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và các hộ gia
đình sử dụng phương pháp đánh giá tác động sinh kế (LIA). Việt Nam đang trong giai đoạn
đàm phán cuối cùng tiến tới ký kết Hiệp định VPA với Liên minh châu Âu (EU) như một
phần của Kế hoạch thực hiện chương trình FLEGT (Thực thi Luật Lâm luật, Quản trị rừng và
Thương mại Lâm sản). Khi Hiệp định VPA được ký kết, nó sẽ ảnh hưởng đến tất cả các bên
tham gia vào việc khai thác, vận chuyển, chế biến và tiêu thụ gỗ, bao gồm các hộ gia đình
tham gia sản xuất gỗ và sinh sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên rừng.
Các mục tiêu chính của nghiên cứu trước đây:
Đánh giá các tác động tiềm tàng của Hiệp định VPA đến các nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương
Xác định các vấn đề về an toàn xã hội và các hệ quả liên quan
Tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sinh kế
Xác định những rủi ro khi thực hiện, và các biện pháp giảm thiểu rủi ro
Các phương pháp đánh giá tác động sinh kế (LIA) bao gồm bốn giai đoạn, Giai đoạn 1: phân
tích các bên liên quan và thể chế; Giai đoạn 2: Phân tích tác động chính sách (còn gọi là phân
tích kênh truyền tải -TCA); Giai đoạn 3: Phân tích thuyết thay đổi có sự tham gia; Giai đoạn
4: Xây dựng một kế hoạch giám sát dựa trên chuỗi các chỉ số phù hợp; Giai đoạn 4 hiện chưa
được thực hiện trong các nghiên cứu LIA tại Việt Nam.
Nghiên cứu LIA tập trung vào bốn nhóm yếu thế có liên quan tại Hội thảo mạng lưới VNGOFLEGT vào tháng 3/ 2013:
Nhóm hộ chế biến đồ gỗ gia dụng
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng
Nhóm hộ trồng rừng nhưng không sở hữu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nghiên cứu điều tra xác định một số hạn chế và các vấn đề của các nhóm liên quan như sau:
Nhóm hộ sản xuất đồ gỗ gia dụng
Thiết bị kém chất lượng và thiếu diện tích xưởng sản xuất;
Thiếu các văn bản cần thiết do sự phức tạp của các thủ tục pháp lý;
Vi phạm các quy định về lao động;
Thiếu sự quản lý và kiến thức về kinh tế và kỹ năng làm việc;
Thiếu thông tin về thị trường tiềm năng;
Gặp khó khăn với các khoản vay và tài chính;
Các điều kiện làm việc kém do thực thi pháp luật kém.
7
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Thiếu nguyên liệu thô;
Các điều kiện sản xuất kém, có nguy cơ gặp tai nạn;
Các vấn đề pháp lý;
Rủi ro cao, dễ thua lỗ do thị trường và sản xuất không ổn định;
Thiếu thông tin về công nghệ sản xuất và pháp luật;
Kiến thức và kỹ năng quản lý còn kém;
Thiếu tiếp cận với nguồn vốn dài hạn.
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng
Giảm tiếp cận với các nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm cả nguy cơ bị mất đất
cao;
Hiểu biết về thị trường, cơ sở hạ tầng, vốn, và thông tin bị hạn chế;
Thiếu sự tự tin do khác biệt về văn hóa và xã hội.
Nhóm hộ rồng rừng nhưng không sở hữu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)
Thiếu thông tin và kiến thức yếu kémvề pháp luật cũng như các quy định về khai thác,
cùng với sự thiếu hiểu biết của hộ trồng rừng về việc sở hữu Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và ảnh hưởng của nó tới tính hợp pháp của gỗ sau này;
Thiếu vốn đầu tư và các nguồn thu nhập khác dẫn đến năng suất và lợi nhuận thấp;
Khó có được GCNQSDĐ do sự phối hợp yếu kém của các cơ quan quản lý địa
phương;
Nguy cơ mất đất do tình trạng pháp lý còn yếu và thâu tóm đất.
Dựa trên những hạn chế và các vấn đề được xác định của các nhóm dễ bị tổn thương, việc
phân tích tác động của chính sách sẽ làm rõ một số tác động tiêu cực tiềm tàng ảnh hưởng tới
các nhóm tham gia khi Hiệp định VPA được thực hiện:
Nhóm hộ chế biến đồ gỗ gia dụng
Chi phí sản xuất sẽ tăng do tăng giá nguyên liệu hợp pháp;
Năng suất và thu nhập của hộ gia đình giảm, mặc dù hộ gia đình có khả năng thích
nghi và có cơ sở pháp lý sẽ có lợi ích lâu dài;
Các hộ gia đình không đáp ứng đầy đủ yêu cầu về pháp lý phải đối mặt với nguy
cơ bị đóng cửa;
Quyền hạn của các cơ quan có liên quan tăng lên có thể dẫn đến chi phí giao dịch
cao hơn, ít nhất là trong ngắn hạn.
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Sự khan hiếm của nguyên liệu thô vì buôn bán gỗ trái phép đã bị loại bỏ khỏi thị
trường;
8
Giá gỗ hợp pháp sẽ tăng dẫn đến chi phí sản xuất cao và giảm thu nhập của hộ gia
đình chế biến gỗ rừng trồng;
Tiếp cận tín dụng của nhiều hộ gia đình sẽ bị hạn chế khi cơ sở sản xuất của họ
không phù hợp với quy định mới;
Tăng chi từ các loại phí và thuế phải đóng;
Các hộ chế biến gỗ không đạt tính hợp pháp sẽ bị đóng cửa, và người lao động, đặc
biệt là phụ nữ, đối mặt với nguy cơ mất việc làm;
Quyền lực của các cơ quan chính quyền địa phương tăng lên có thể gây ra nhiều
khó khăn cho các hộ gia đình;
Thiết lập và đẩy mạnh các hợp tác xã và các nhóm sở thích với mục tiêu nâng cao
năng lực sản xuất, giảm chi phí giao dịch, và tận dụng lợi thế của tính hợp pháp và
bối cảnh quản trị tốt hơn.
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng:
Nhu cầu về diện tích đất trồng rừng tăng có thể dẫn đến việc bán đất, và tăng xâm
lấn rừng để đáp ứng nhu cầu về đất nông nghiệp;
Ở những nơi việc mở rộng trồng rừng được thực hiện trên đất rừng mà người dân
tiếp cận được trước đây họ sẽ không còn được hưởng lợi từ gỗ và lâm sản ngoài
gỗ (LSNG).
Các doanh nghiệp trồng rừng tăng cơ hội việc làm ở một số địa phương
Tăng sự phụ thuộc vào việc làm phi nông nghiệp;
Tăng thẩm quyền cho lực lượng kiểm lâm, công ty lâm nghiệp và các chủ rừng
trong quản lý rừng có thể sẽ làm suy yếu các thể chế và quyền truyền thống.
Nhóm hộ rồng rừng không sở hữu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât
Giá bán gỗ hợp pháp sẽ tăng, nhưng gỗ được trồng trên đất không có GCNQSDĐ
sẽ giảm giá dẫn đến giảm thu nhập của nhóm này;
Các chi phí giao dịch sẽ cao hơn (bao gồm cả tiền đút lót) để hợp pháp hóa gỗ
trồng trên đất không có GCNQSDĐ;
Giảm việc làm khi các hộ trồng rừng không có GCNQSDĐ ngừng sản xuất, đặc
biệt là ảnh hưởng đến lao động nữ do đây là nhóm lao động chính cho các công
việc này;
Tăng sự không công bằng về đất đai do nguy cơ cao về mất đất ( do tính pháp lý về
quyền sở hữu đất yếu);
Tiếp cận hạn chế của các hộ gia đình không có GCNQSDĐ đến vay vốn, khuyến
lâm và các dịch vụ nông nghiệp khác sẽ tiếp tục;
Trong trung hạn và dài hạn, việc cấp GCNQSDĐ nên được tiếp tục hoàn thiện để
đảm bảo cho thị trường và sản xuất ổn định hơn;
9
Thẩm quyền của chính quyền tăng lên và việc thực thi nghiêm ngặt các yêu cầu về
pháp lý có thể sẽ tăng tính yếu thế của người trồng rừng không GCNQSDĐ.
Để các tác động tiêu cực tiềm tàng của Hiệp định VPA có thể được giảm thiểu và tăng các tác
động tích cực, một chuỗi “cây giải pháp "đã được phát triển cho mỗi nhóm liên quan thông
qua phương pháp tiếp cận bằng cách sử dụng "thuyết thay đổi có sự tham gia”. Điều này giúp
xác định các kết quả quan trọng hay các chiến lược để mỗi nhóm dễ bị tổn thương có thể tránh
hoặc giảm thiểu những tác động bất lợi hoặc có thể được hưởng lợi từ việc ký kết Hiệp định
VPA1:
Nhóm hộ chế biến đồ gỗ gia dụng
Chiến lược 1: Cải thiện thị trường cho các sản phẩm đồ gỗ
Chiến lược 2: Nâng cao năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý và nhu cầu thị
trường
Chiến lược 3: Các quy định thực tế hơn được phát triển và áp dụng
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Chiến lược 1: Ổn định thị trường cho gỗ chế biến (ván bóc, gỗ dăm, ván nhân tạo, vv)
Chiến lược 2: Ổn định các nguồn nguyên liệu
Chiến lược 3: Sản xuất đáp ứng theo yêu cầu pháp lý
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng:
Chiến lược 1: Bảo đảm thu nhập từ tài nguyên rừng
Chiến lược 2: Cải thiện sinh kế nông nghiệp
Chiến lược 3: Phát triển các lựa chọn sinh kế khác
Nhóm hộ trồng rừng không sở hữu Giấy chứng nhận sở hữu đất
Chiến lược 1: Đảm bảo quyền sở hữu đất rừng, cung cấp một cơ sở cho đầu tư dài hạn
Chiến lược 2: Tăng năng suất rừng trồng
Chiến lược 3: Các quy định về buôn bán gỗ trồng trên đất chưa có GCNQSDĐ được công
nhận và hiện thực hóa
Các nghiên cứu LIA chỉ ra rằng việc áp dụng Hiệp định VPA có thể dẫn đến một loạt các tác
động tích cực và tiêu cực đến các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Để giảm các tác động tiêu
cực và rủi ro, cũng như thúc đẩy lợi ích xã hội, nhiều cách can thiệp và các hoạt động khác
nhau cần thiết được thực hiện ở cấp quốc gia và địa phương:
Vấn đề pháp lý (Hành động cấp quốc gia)
i.
Thay đổi hoặc đơn giản hóa các quy định để các điều luật phù hợp hơn với điều
kiện tại các địa phương, đặc biệt là đơn giản hóa hay sửa các quy định đối với các
hộ gia đình chế biến gỗ và ở các làng nghề gỗ thủ công, cũng như đối với các loại
Nói cách khác những kết quả/ chiến lược này bao gồm giả thuyết thay đổi cho mỗi nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương nhằm giảm mức độ tổn thương đối với các các tác động tiêu cực
1
10
gỗ trồng trên đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng. Sẽ hiệu quả hơn nếu
các loại gỗ trồng được coi như “hàng hóa thông thường” và không có yêu cầu đặc
biệt để có thể mua bán vận chuyển ngoại trừ xác nhận nguồn gốc gỗ trồng;
ii.
Nhận biết và luật hóa phù hợp luật tục để quyền tiếp cận truyền thống của người
dân sống phụ thuộc vào rừng được tôn trọng.
iii.
Xây dựng một lộ trình để những người trồng rừng trên đất không có GCNQSDĐ
đăng ký GCNQSDĐ
iv.
Xây dựng lộ trình và cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các hộ gia đình sản
xuất đồ gỗ gia dụng và các hộ gia đình chế biến gỗ rừng trồng để thích ứng với các
yêu cầu pháp lý mới.
v.
Thiết lập một cơ sở dữ liệu về việc tuân thủ pháp luật của các hộ gia đình để giám
sát tốt hơn.
vi.
Thiết lập một hệ thống giám sát hiệu quả cho Hiệp định VPA.
vii.
Thiết lập cơ chế tiếp cận thông tin để tất cả các bên liên quan để có thể truy cập
các thông tin cần thiết.
viii.
Xây dựng một chương trình và chính sách để cho phép hộ gia đình dễ bị tổn
thương có được tín dụng dài hạn và các điều khoản thuận lợi.
Vấn đề an toàn xã hội (hành động tại địa phương và cấp quốc gia)
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
i.
Thành lập các hợp tác xã hoặc tổ sản xuất
ii.
Tiến hành đào tạo để tăng cường năng lực của các hộ gia đình chế biến.
iii.
Cải thiện hệ thống thông tin thị trường.
iv.
Tăng cường tiếp cận của các hộ gia đình nhiều hơn với các nguồn nguyên liệu hợp
pháp và ổn định.
v.
Vận động các nguồn tài chính để cung cấp tín dụng cho đầu tư dài hạn hoặc công
nghệ.
vi.
Thiết lập các vùng sản xuất đủ lớn , đặc biệt là cho các làng nghề sản xuất đồ gỗ.
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
i.
Thành lập các hợp tác xã hoặc tổ sản xuất.
ii.
Cải thiện hệ thống thông tin thị trường, như các cơ hội thị trường mới.
iii.
Hỗ trợ quy hoạch rừng trồng
iv.
Cân bằng năng lực nguồn cung gỗ và năng lực xử lý gỗ thông qua điều tiết việc cấp
giấy phép cho các cơ sở chế biến và lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
v.
Tiến hành đào tạo để tăng cường năng lực của chủ xưởng chế biến gỗ và người lao
động
11
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng:
i.
Tăng sản lượng lâm sản ngoài gỗ bằng cách thử nghiệm các mô hình trồng và quản lý
lâm sản ngoài gỗ.
ii.
Công nhận và kết hợp kiến thức bản địa vào đào tạo khuyến nông và lâm nghiệp như
một phương tiện thúc đẩy quản lý bền vững LSNG.
iii.
Phân bổ / đảm bảo tiếp cận rừng và đất nông nghiệp cho các cộng đồng, dòng tộc hoặc
các nhóm hộ thích hợp.
iv.
Tiến hành đào tạo để nâng cao kiến thức và thực hành quản lý nông nghiệp và lâm sản
ngoài gỗ.
v.
Cung cấp đào tạo nghề và ngôn ngữ phổ thông để giúp tăng cơ hội việc làm; sử dụng
ngôn ngữ bản địa để chuyển tải nội dung trong các tập huấn càng nhiều càng tốt.
vi.
Thiết lập và cải thiện hệ thống thông tin về thị trường.
vii.
Cải thiện đường giao thông, thị trường và hạ tầng kinh doanh.
Nhóm hộ trồng rừng không sở hữu Giấy chứng nhận sở hữu đất
i.
Nâng cao năng suất trồng rừng, chất lượng gỗ của hộ gia đình và giá bán bằng chất
lượng giống tốt hơn, kỹ thuật trồng và thu hoạch phù hợp, và đào tạo quản lý, tiếp cận
tín dụng với lãi suất thấp dài hạn.
ii.
Đẩy nhanh quá trình cấp GCNQSDD, ví dụ, bằng cách đào tạo cho cán bộ địa chính và
cán bộ lâm nghiệp, quản lý tốt hơn quy trình, tuyên truyền tầm quan trọng của
GCNQSDĐ, và có chế độ khuyến khích đối với cán bộ dựa trên kết quả công việc.
iii.
Tập huấn cho người trồng rừng trên đất không có GCNQSDĐ về tầm quan trọng của
việc sở hữu các GCNQSDĐ và gỗ hợp pháp.
iv.
Xây dựng cơ chế quản lý tranh chấp đất đai và giải quyết với sự hướng dẫn rõ ràng và
thiết thực.
12
1. Giới thiệu chung
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán để tiến tới ký kết
Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) với Liên minh châu Âu (EU) như là một phần của Kế
hoạch hành động Thực thi Lâm Luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản (FLEGT), nhằm
mục đích bảo đảm thương mại gỗ hợp pháp và quản trị rừng hiệu quả. Báo cáo này nhằm cung
cấp một bản tóm tắt phương pháp, những kết quả và khuyến nghị chính của nghiên cứu “Đánh
giá tác động tiềm tàng của VPA đến sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương (LIA)” trong năm
2013-2014 đã được VNGO-FLEGT2 thực hiện với sự hỗ trợ từ Tổ chức Forest Trends.
Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA) và các tiến trình thông quá quá trình xây dựng có
khả năng mang lại những cải cách chính sách vì người nghèo và có thể dẫn đến việc trao
quyền cho các nhóm cộng đồng dễ bị tổn thương. Với việc thực thi VPA, ngành sản xuất gỗ
và công nghiệp chế biến gỗ phải thích ứng với những thay đổi của nhu cầu thị trường và các
quy định xuất khẩu, và một kế hoạch hành động đảm bảo tính hợp pháp của gỗ là yêu cầu
được Việt Nam đưa ra. Kế hoạch hành động này phải tập trung vào nâng cao nhận thức, rà
soát và bổ sung pháp luật, khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu gỗ có giấy phép, phát triển
và thực thi một hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ, và tăng cường hợp tác quốc tế với các
nước xuất khẩu gỗ như Lào và Cam-pu-chia và với các thị trường ở các nước EU.
Tuy nhiên các quá trình hình thành và hợp pháp hoá, cùng với việc thực thi nghiêm ngặt của
pháp luật và các quy định cũng có thể có tác động tiêu cực đến sinh kế của người sống phụ
thuộc vào rừng được xem là "bất hợp pháp" (Kaimowitz 2009). Quá trình ký kết và thực hiện
Hiệp định VPA sẽ không tránh khỏi có người thắng người thua, và có thể sẽ là một loạt các
hiệu ứng xã hội hoặc công bằng, tích cực và tiêu cực.
Những rủi ro sinh kế của việc thực thi VPA được ghi nhận trong các tuyên bố chính sách
FLEGT. Kế hoạch Hành động FLEGT (Ủy ban châu Âu 2003) đã nhấn mạnh rằng “thách
thức là đảm bảo các hành động giải quyết vấn đề khai thác gỗ bất hợp pháp, đặc biệt là tăng
cường thực thi pháp luật, không nhằm vào các nhóm yếu thế, như người nghèo tại nông thôn,
trong khi những tầng lớp quyền lực không bị ảnh hưởng”. Những rủi ro này được nhận thấy
trong thỏa thuận VPA dưới hình thức của các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội mà các bên
ký kết cam kết hiểu, theo dõi, và giảm thiểu bất kỳ các tác động nghiêm trọng của VPA vào
cộng đồng địa phương hoặc các bên liên quan khác.
Hai thành phần chủ yếu của VPA là Định nghĩa gỗ hợp pháp (LD) và Hệ thống đảm bảo tính
hợp pháp của gỗ (TLAS), vì những nỗ lực này nhằm hệ thống hóa các luật và các quy định
của quốc gia sản xuất gỗ về gỗ hợp pháp cũng như quản trị, theo hướng cho phép việc kiểm
tra thực tế và các quyết định về gỗ và sản phẩm gỗ hợp pháp. Các sản phẩm gỗ được coi là
hợp pháp nếu họ đáp ứng được các quy định trong LD và TLAS. Khi Hiệp định VPA được
thực hiện, yêu cầu về gỗ hợp pháp cũng sẽ được áp dụng cho các sản phẩm được bán tại thị
trường trong nước, điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thực thể tham gia vào việc khai
2
Được thành lập vào năm 2002, bao gồm 40 thành viên ( tính đến tháng 1/2015) được dẫn đầu bởi Tổ
chức Phát triển Nông thôn Bên vững (SRD, Hà Nội)
13
thác gỗ, vận chuyển, chế biến và kinh doanh gỗ và sản phẩm gỗ. Nếu không đáp ứng được các
yêu cầu này các hộ gia đình tham gia vào thị trường trong nước hoặc xuất khẩu sẽ bị ảnh
hưởng.
Để hiểu hơn về những tác động của Hiệp định VPA, Mạng VNGO-FLEGT (xem Phụ lục 1)
đã nghiên cứu các tác động tiềm tàng của Hiệp định VPA tới các nhóm hộ dễ bị tổn thương
tiềm năng3 bằng cách thực hiện một Đánh giá tác động sinh kế (LIA). Ở Việt Nam, nghiên
cứu LIA đã được thực hiện ex-ante – tức là trước khi VPA được hoàn thiện và ký kết, với mục
đích góp ý cho Hiệp định. LIA đóng góp đáng kể vào việc xây dựng các điều khoản trong
Hiệp định VPA, bao gồm cả việc xác định các vấn đề quan trọng về an toàn xã hội và các tác
động tiềm năng, như các tác động tiêu cực tiềm tàng và làm thế nào để giảm thiểu chúng,
cũng như các phương pháp nâng cao kết quả sinh kế. Một mục tiêu quan trọng thứ hai của
LIA là để giúp xây dựng năng lực của các tổ chức xã hội dân sự (CSO) để có thể tham gia góp
ý trong đàm phán và thực hiện các VPA và tiến hành các công việc liên quan tới LIA.
Báo cáo này tổng hợp các nghiên cứu4 đã được thực hiện trên các miền Bắc, Trung và miền
Nam của Việt Nam (Thái Nguyên, Yên Bái, Hòa Bình, Phú Thọ, Đồng Bằng sông Hồng,
Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Đồng Nai, xem hình 1). Các nghiên cứu
này được thực hiện từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 9 năm 2014 tập trung vào bốn nhóm liên
quan dễ bị tổn thương, được xác định và ưu tiên tại Hội thảo VNGO-FLEGT tại thành phố Hồ
Chí Minh tháng 3 năm 2013 gồm:
Nhóm hộ chế biến đồ gỗ gia dụng
Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Nhóm hộ dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng
Nhóm hộ trồng rừng không sở hữu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Mặc dù VPA sẽ có những tác động có lợi cho xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị trường EU
và các thị trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ và Úc, cũng như cải thiện việc quản trị rừng,
các nghiên cứu cho thấy quá trình hình thành và hợp pháp hoá của Hiệp định VPA, kết hợp
với việc thực thi nghiêm ngặt pháp luật và các quy định, cũng có nguy cơ tác động tiêu cực
đến các hộ gia đình tham gia vào chuỗi sản xuất gỗ và cung cấp sản phẩm gỗ.
Có một số lượng lớn có công ty hộ gia đình đơn lẻ tham gia vào tất cả các hoạt động buôn bán gỗ tại
Việt Nam do đó cụm từ “các hộ gia đình” được sử dụng theo nghĩa tổng quan dành cho các công ty nhỏ được xác
định là đối tượng của báo cáo, cũng như cho Bản dự thảo Thuật ngữ Kĩ thuật của VPA.
4
Bao gồm i) VPA tác động ảnh hưởng tới cộng đồng phụ thuộc vào rừng ( Trần Nam Thắng, 20130, ii)
VPA tác động tới việc trồng rừng nhưng không có GCNQSDĐ (LURC) (Dương Thị Liên, 2013), iii) VPA tác
động ảnh hưởng tới các nhóm dễ bị tổn thương tại Yên |Bái (Nguyễn Kim Trọng, 2014), và v) VPA ảnh hưởng
tác động tới các hộ gia đình sản xuất gỗ quy mô nhỏ ( Phan Triều Giang 2013), và vi) VPA tác động ảnh hưởng
tới hộ gia đình thủ công đồ gỗ mỹ nghệ tại các làng nghề Đồng Kỵ, Hữu Bằng (Phan Triều Giang, 2014)
3
14
Hình 1. Địa bàn thực hiện nghiện cứu LIA
15
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện sử dụng phương pháp "Đánh giá tác động sinh kế (LIA)”
được phát triển bởi Forest Trends trên cơ sở kết hợp các các phương pháp rút ra từ cách tiếp
cận“Phân tích nghèo đói và tác động xã hội" của Ngân hàng Thế giới (2012), phương pháp
tiếp cận “Đánh giá Tác động nghèo đói’ của OECD (2007) và "Đánh giá tác động xã hội và đa
dạng sinh học” (Richards & Panfil 2011)5. Nghiên cứu LIA có bốn giai đoạn, trong đó chỉ có
ba đầu tiên đã được thực hiện trong các nghiên cứu tại Việt Nam (xem Hộp 1 được mô tả đầy
đủ hơn):
i)
Xác định và ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương thông qua phân tích các bên liên quan,
và phân tích thể chế để đánh giá các thuận lợi về thể chế6;
ii)
Phân tích các tác động chính sách sử dụng công cụ phân tích các kênh truyền tải
(TCA) để xác định ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các đề xuất Hiệp định VPA,
đặc biệt là các tác động đến đời sống của các nhóm dễ bị tổn thương;
iii)
Phát triển các lý thuyết của sự thay đổi và xác định các chiến lược giảm thiểu tác động
tiêu cực và nâng cao những tác động tích cực. Giai đoạn này bao gồm phân tích những
thách thức và các nguyên nhân (cây vấn đề) và cách giải quyết (cây giải pháp hoặc
chuỗi kết quả);
iv)
Xây dựng một kế hoạch giám sát với các chỉ số thích hợp cho các biện pháp giảm
thiểu tác động và tăng cường lợi ích xã hội đã được xác định trong giai đoạn (iii)7.
Hộp 1: Tổng quan về phương pháp LIA
Giai đoạn 1: Phân tích thể chế và phân tích các bên liên quan
Giai đoạn đầu tiên của nghiên cứu LIA là phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế.
Mục tiêu chính của việc phân tích các bên liên quan là để đạt được một sự hiểu biết về những
người có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Hiệp định VPA. Phân tích các bên liên quan thường
bao gồm các mô tả đặc điểm của các nhóm liên quan dễ bị tổn thương và phân tích về giới.
Phân tích kinh tế chính trị và thể chế cũng là việc rất cần thiết, và tập trung vào những tác
động có ảnh hưởng bởi VPA và các động cơ, hành vi của các nhóm liên quan, đặc biệt là các
nhóm quyền lực có thể phản đối các chiến lược quan trọng của VPA.
Giai đoạn 2: Phân tích tác động chính sách (còn gọi là phân tích kênh truyền tải -TCA)
Tác động của VPA được đánh giá thông qua các kênh truyền tải. Đây là cách mà qua đó việc
thực hiện chính sách như VPA ảnh hưởng đến các nhóm liên quan dễ bị tổn thương. Phân tích
các kênh truyền tải là một công cụ để đánh giá các tác động tiềm tàng của một chính sách
được ban hành hay việc can thiệp vào sinh kế của các nhóm liên quan. Sáu kênh truyền tải
chính thường là: cơ hội việc làm, giá cả, thuế phí và các chuyển dịch, quyền lực, tài sản, và
tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ.
Giai đoạn 3: Phân tích thuyết thay đổi có sự tham gia (phân tích giải pháp)
Lý thuyết của sự thay đổi là một giả thuyết để làm sao mà một can thiệp như VPA sẽ có thể
đạt được các mục tiêu và mục đích. Như với bất kỳ một lý thuyết nào, không có gì đảm bảo
rằng lý thuyết này sẽ đúng. Lý thuyết của sự thay đổi dựa trên một tập hợp các giả định
5
Richard M.& Hobley M, 2012
Nghiên cứu tập trung vào các điều luật và các tổ chức chính thức và phi chính thức có khả năng tác động ảnh
hưởng tới các nhóm dễ bị tổn thương.
7
Vì đây là phân tích cũ và VPA vẫn còn chưa hoàn thiện, do đó còn quá sớm để phát triển hệ thống giám sát.
6
16
nguyên nhânvà kết quả đáng tin cậy được những người đề xuất hy vọng sẽ được trở thành
hiện thực. Lý thuyết có sự tham gia phân tích sự thay đổi với sự tham gia của các thành viên
hội thảo, được chia thành các nhóm làm việc đại diện cho các nhóm dễ bị tổn thương và các
bên liên quan khác nhau nhằm phát triển hiểu biết về nguyên nhân và hậu quả của các vấn đề
chính hoặc các thách thức gây ra tính dễ bị tổn thương dưới dạng "cây vấn đề". Và sau đó phát
triển 'cây giải pháp' hoặc chuỗi kết quả cho các vấn đề và từ đó một bộ các biện pháp giảm
thiểu rủi ro và tăng cường lợi ích có thể được xác định.
Giai đoạn 4: Phát triển một kế hoạch giám sát với một tập hợp các chỉ số thích hợp
Phát triển một kế hoạch giám sát việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu và tăng cường lợi
ích được xác định trong giai đoạn 3 đòi hỏi việc xác định các chỉ số phù hợp. Các chỉ số được
xác định trên cơ sở của các mục tiêu SMART (cụ thể, đo đếm được, có thể đạt được, có liên
quan, Giới hạn thời gian) đươc lấy ra từ các kết quả quan trọng trong chuỗi kết quả hoặc cây
giải pháp. Kế hoạch giám sát vạch ra những dữ liệu cần thiết, và làm thế nào để thu thập dữ
liệu cho mỗi chỉ số.
Mười một hội thảo đã được tổ chức, trong đó có ba hội thảo tập trung vào Phương pháp LIA
nghiên cứu phân tích bốn nhóm liên quan, và tám hội thảo phân tích các nhóm liên quan cụ
thể thuộc địa phương như trong Bảng 1. Hầu hết các hội thảo có 25-30 người tham gia, đại
diện cho nhóm người chịu ảnh hưởng (cả nam và nữ), đại diện chính quyền địa phương và các
bên liên quan khác. Trước hội thảo khu vực, các quy định pháp lý trong TLAS liên quan đến
các nhóm dễ bị tổn thương đã được cung cấp cho những người tham gia để cho họ có cơ sở để
so sánh và phân tích.
Bảng 1. Hội thảo được tổ chức trong năm 2013-2014
Ngày
22-26/3, 2013
Địa điểm
Thành phố
Hồ Chí Minh
Các bên tham gia
Thành viênmạng lưới VNGOFLEGT
24-26/9, 2013
Huế
18-20/11, 2013
Vĩnh Phúc
19-20/4, 2014
Hà Nội
3-4/6, 2014
Đồng Kỵ
Mạng lưới VNGO-FLEGT và 3
nhóm dễ bị tổn thương chịu tác
động
Mạng lưới VNGO-FLEGT và 3
nhóm dễ bị tổn thương chịu tác
động (tuy nhiên thiếu vài đại diện)
Bốn nhóm hộ dễ bị tỏn thương (từ
Đồng Kỵ, Hữu Bằng, Thái
Nguyên, Yên Bái)
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
3-4/6, 2014
Hữu Bằng
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
25-27/6, 2014
Đồng Kỵ
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
30/6- 2/7, 2014
Hữu Bằng
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
5-7/8, 2014
Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
22-23/6, 2014
Ba Vì, Hà
Nội
Yên Bái
16-18/8, 2014
Yên Bái
28-29/6, 2014
Thái Nguyên
7-9/8, 2014
Thái Nguyên
Nhóm hộ trồng và chế biến gỗ rừng
trồng
Nhóm hộ trồng và chế biến gỗ rừng
trồng
Nhóm hộ trồng và chế biến gỗ rừng
trồng
Nhóm hộ trồng và chế biến gỗ rừng
trồng
17
Giai đoạn thực hiện LIA
Tập huấn phương pháp LIA,
Phân tích các bên, Phân tích vấn
đề
Phân tích tác động chính sách
(TCA)
Phân tích giải pháp
Tập huấn phương pháp LIA,
Phân tích các bên, Phân tích vấn
đề
Giới thiệu phương pháp LIA,
Phân tích các bên tham gia
Giới thiệu phương pháp LIA,
Phân tích các bên tham gia
Phân tích tác động chính sách
(TCA)
Phân tích tác động chính sách
(TCA)
Phân tích giải pháp
Phân tích tác động chính sách
(TCA)
Phân tích giải pháp
Phân tích tác động chính sách
(TCA)
Phân tích giải pháp
3.Phân tích các nhóm đối tượng liên quan và cây vấn đề
3.1 Nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
3.1.1 Thông tin chung
Hộ gia đình chế biến gỗ là một nhóm quan trọng vì đây là một nhóm lớn và sản xuất các sản
phẩm gỗ truyền thống, đặc biệt là ở các khu vực ven đô trên cả nước. Họ thường là các hộ gia
đình hoặc doanh nghiệp nhỏ nằm rải rác hoặc tập trung ở các làng nghề như trong khu vực
đồng bằng sông Hồng gần Hà Nội.
Theo Tổng cục Thống kê (2013), đã có 3.221 doanh nghiệp sử dụng hơn 280.000 lao động,
trong đó 119.000 là nữ. Khoảng 1.400 công ty có dưới 10 lao động và 1000 doanh nghiệp có
10-49 lao động. Tuy nhiên, sẽ có sự thay đổi số lượng đáng kể nếu tính đến số hộ gia đình
chế biến gỗ không đăng ký hiện tại không có số liệu chính thức. Theo ông Tô Xuân Phúc
(2012), có khoảng 20.000 hộ với 300.000 lao động và 302 làng nghề rừng trong cả nước.
Hộ gia đình chế biến gỗ chế biến khoảng 1 triệu mét khối (m3) gỗ mỗi năm. Trong đó, khoảng
35-40% được sử dụng ở các làng, khoảng 40% trong các khu công nghiệp, và khoảng 20% là
các hộ gia đình quy mô nhỏ (Tô Xuân Phúc, 2012). Khối lượng sử dụng của hộ gia đình chế
biến gỗ thay đổi từ dưới 10 đến hàng trăm mét khối mỗi năm. Một hộ gia đình có 2-3 nhân
công thường sử dụng khoảng 10-20 m3 gỗ mỗi năm.
Thu nhập của nhóm này rất khác nhau nhưng nói chung là ở trên mức trung bình. Thu nhập
của người lao động làm nghề mộc dao động từ 2-4,5 triệu đồng (khoảng US $ 100-220) mỗi
tháng, trong khi một chủ cơ sở điển hình có thể có thu nhập từ 10 đến 13 triệu đồng (khoảng
US $ 500-600) mỗi tháng. Ở làng nghề Đồng Kỵ và Hữu Bằng thuộc khu vực đồng bằng sông
Hồng, thu nhập của chủ sở hữu cao hơn nhiều do có quy mô kinh doanh lớn.
Hộ gia đình chế biến gỗ được giám sát bởi Ủy Ban Nhân Dân (UBND) Phường/Xã và những
cơ quan này cũng phải được kiểm tra và / hoặc cấp phép bởi một loạt các cơ quan như Phòng
Kinh tế huyện, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Cục Thuế, Hạt Kiểm Lâm, cảnh sát môi
trường, phòng cháy và chữa cháy Cục Cảnh sát, và cảnh sát kinh tế. Tuy nhiên, nhìnchung, sự
giám sát các hộ gia đình chế biến gỗ khá lỏng lẻo và không có hoặc sự phối hợp giữa các cơ
quan không chặt chẽ.
Nền tảng pháp lý của các hộ gia đình khác nhau tùy thuộc vào mức độ sản xuất. Trong khi các
công ty và các hộ sản xuất lớn có giấy phép kinh doanh, hầu hết các hộ gia đình không có giấy
phép hoặc chỉ có một giấy chứng nhận của chính quyền địa phương. Tại làng nghề Đồng Kỵ,
trong khi “các hộ gia đình sản xuất hoàn thiện” 8 có giấy phép, và hàng ngàn hộ gia đình có
quy mô nhỏ hơn chỉ sản xuất gia công một phần chi tiết của một sản phẩm hoàn chỉnh không
có giấy phép hoặc giấy chứng nhận.
Để tránh nguy cơ bị xác định là bất hợp pháp, nhiều hộ gia đình xây dựng mối quan hệ đặc
biệt với những người có ảnh hưởng, chẳng hạn như các nhà cung cấp gỗ, các quan chức có
trách nhiệm, nhân viên và các chủ nợ. Những mối quan hệ không chính thức giúp các doanh
8
Các hộ gia đình ‘sản xuất hoàn thiện’ có nghĩa là những hộ gia đình sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh
18
nghiệp tránh được nhiều quy định và hạn chế. Một phần do các yêu cầu pháp lý không rõ ràng
và phức tạp, nhiều cơ sở sản xuất nhỏ thực hiện sản xuất trong điều kiện khó khăn hoặc lén
lút. Ở một số nơi, các hộ thường khóa cửa và hoạt động bên trong, hoặc xây dựng nhà xưởng
có mái che đằng sau nhà để tránh sự kiểm tra của các cơ quan chính quyền.
3.1.2 Đặc điểm chính về sinh kế của nhóm hộ
Chủ các hộ gia đình sản xuất đồ gỗ gia dụng thường là những người có tay nghề cao. Họ đảm
nhiệm tất cả các công đoạn sản xuất và phối hợp kiểm tra từng giai đoạn. Phần lớn các hộ gia
đình sản xuất có khả năng tự hoàn thiện các sản phẩm. Ở các làng nghề, do quy mô sản xuất
lớn, việc ký hợp đồng gia công với các hộ gia đình sản xuất nhỏ thường được thực hiện để sản
xuất các chi tiết.
Hầu hết gỗ được sử dụng bởi nhóm hộ này đều có giá trị cao9. Nguồn nguyên liệu cho chế
biến gỗ của các hộ gia đình chế biến đồ gỗ gia dụng là khá phức tạp. Tại các khu vực xa xôi,
hầu hết gỗ được mua từ người khai thác gỗ bất hợp pháp và thương lái, thường là với giá thấp
hoặc bằng 1/2 giá thị trường ở các khu vực gần các nguồn gỗ. Hầu hết các hộ gia đình quy mô
nhỏ không có hồ sơ thu mua gỗ. Tại các làng nghề, gỗ được mua từ các công ty kinh doanh gỗ
với giấy phép kinh doanh và vận chuyển. Tuy nhiên, tính hợp pháp thật sự của các công ty
này là không chắc chắn10.
Gỗ được nhập khẩu chủ yếu từ các nước Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Campuchia,
Malaysia, Indonesia, và Myanmar, đa phần qua ngả Lào, hoặc vận chuyển bằng đường biển
qua cảng Hải Phòng. Ngoài ra, nhiều hộ gia đình sử dụng gỗ từ các nguồn không xác định, gỗ
pallet, gỗ trái phép và gỗ bị tịch thu bán đấu giá bởi kiểm lâm. Gỗ rừng trồng được nhập khẩu
cũng được sử dụng rộng rãi, bao gồm cả Sapele, sồi, tần bì, và óc chó từ Nga, Mỹ, Pháp, Đan
Mạch, Bỉ, cũng như cây keo trồng trong nước từ Hòa Bình, Tuyên Quang, Nghệ An ở miền
Bắc Việt Nam, và Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam.
Các hộ gia đình chế biến đồ gỗ có sản phẩm rất đa dạng bao gồm: bàn, ghế, sofa, tủ thờ, tủ,
giường, nội thất văn phòng, kệ, tay vịn cầu thang, cột trụ cầu thang, sàn gỗ, tấm ốp trần nhà,
tường và các sản phẩm trang trí nội thất, một số hộ gia đình cũng bán gỗ xẻ. Hầu hết các hộ
chế biến gỗ sản xuất cho thị trường nội địa, bán trực tiếp cho các khách hàng cá nhân, công ty
và cửa hàng ở các tỉnh khác hoặc các khu vực xung quanh.
Tại các làng nghề miền Bắc, người ta ước tính rằng khoảng 83% các sản phẩm được tiêu thụ ở
Việt Nam và phần còn lại được xuất khẩu sang Trung Quốc (Forest Trends 2012). Tuy nhiên
tại làng nghề Đồng Kỵ ở khu vực đồng bằng sông Hồng, khoảng 65% sản lượng được xuất
khẩu sang Trung Quốc. Trong đó khoảng 25% là các dạng sản phẩm chưa hoàn thiện11 và
40% là gỗ xẻ. Trong số 35% được tiêu thụ trong nước, khoảng 30% là thành phẩm và 5% là
gỗ xẻ.
Ví dụ như huong (Pterocarpusmacrocarpus), trac (Dalbergiacochinchinensis), cam lai (Dalbergiaoliveii), mun
(Diospyros sp.), Gụ (Sindoramaritima), cam xe(Xyliaxylocarpa), chieu lieu (Terminaliachebula), lim
(Erythrophloeumfordii) and cho chi (Parashoreachinensis).
9
Thông tin thêm về các hoạt động của công ty buôn bán gỗ có thể tìm thấy tại EIA (2014), và theo đường link
/>10
11
Các sản phẩm chưa hoàn thành sẽ được lắp ráp, sơn màu và được hoàn thiện tại Trung Quốc
19
Quy mô của các cơ sở sản xuất và các thiết bị có khác nhau đáng kể. Hầu hết các cơ sở sản
xuất đầu tư tối thiểu cho nhà xưởng và công nghệ. Diện tích nhà xưởng là thường 100-200m2
với những máy móc cơ bản. Công cụ thường được sử dụng bao gồm cưa, máy bào, máy thổi
sơn, máy cưa vòng lớn, v.v.
Rất ít hộ gia đình ghi lại các thông tin đầu vào, đầu ra, và doanh thu của họ. Thường là không
có giấy tờ giao dịch, như hoá đơn GTGT hoặc chứng từ, bảng kê lâm sản và biên bản đóng
dấu búa kiểm lâm (đối với gỗ quy định). Điều này xảy ra vì yêu cầu của khách hàng và giám
sát của các cơ quan về tính hợp pháp cho đồ gỗ chưa mạnh và chưa chặt chẽ. Nhiều hộ gia
đình có đăng ký chỉ phải trả một khoản thuế cố định mỗi tháng và mua hóa đơn của Cục Thuế
khi cần thiết. Hầu hết các hộ gia đình không cung cấp hóa đơn cho khách hàng. Theo một báo
cáo về các làng nghề phía Bắc, 30- 78% số hộ gia đình bán sản phẩm của mình mà không có
hồ sơ sản phẩm hoặc hoá đơn (Forest Trends, 2012).
Các hộ gia đình có trách nhiệm báo cáo định kỳ gỗ nhập vào và sản xuất cho Kiểm lâm địa
phương, hoặc khi gỗ về đến tại xưởng. Gỗ từ rừng tự nhiên phải được báo cáo ngay lập tức.
Tuy nhiên, trong thực tế các hộ gia đình hầu như không báo cáo và cán bộ kiểm lâm cũng
không thường xuyên kiểm tra.
Vấn đề môi trường như chống ô nhiễm và phòng chống cháy nổ là các vấn đề cấp bách, đặc
biệt là nếu các hộ gia đình chế biến gỗ đang nằm trong khu vực dân cư như các làng nghề.
Nhưng thường các khu công nghiệp cho sản xuất gỗ thường thiếu hoặc không phù hợp do
phát triển các dự án bất động sản và thiếu sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Các hộ gia
đình nhận thức được tình trạng ô nhiễm và cố gắng để quản lý chúng. Tuy vậy, vấn đề môi
trường, phòng cháy, chữa cháy và xử lý chất thải được thực hiện theo cách không có kế
hoạch, không được chuẩn bị, phản ứng tùy thuộc vào sự cấp bách của vấn đề, thiết bị, và
hoàn cảnh sẵn có tại địa phương. Phần lớn các hộ gia đình không nhận được sự hướng dẫn và
đào tạo vì vậy yêu cầu về thủ các quy định bảo vệ môi trường là rất khó thực hiện.
Hộ gia đình sản xuất nhỏ thường sử dụng từ 2-10 công nhân tùy theo mùa. Quan hệ giữa chủ
và người làm công thường không chính thức hóa. Hầu hết người lao động, bao gồm cả những
công nhân, được trả lương hàng tuần và không có hợp đồng, bảo hiểm lao động hay bảo hiểm
xã hội. Do mối quan hệ làm việc không chính thức, công nhân phải chấp nhận rủi ro khi xảy
ra tai nạn. Trong mùa thấp điểm, nhiều lao động không có tay nghề thường bị sa thải. Hợp
đồng miệng được sử dụng thông dụng bởi cả chủ xưởng và nhân công vì tính linh hoạt của
hình thức thuê lao động này. Công nhân có thể chuyển nơi làm việc khi có cơ hội nhận lương
cao hơn, trong khi chủ xưởng có thể lựa chọn người phù hợp.
Ngoại trừ các cơ sở sản xuất lớn hơn ở các làng nghề thuộc đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ lao
động nữ rất thấp ở các hộ sản xuất đồ gỗ. Phân công vai trò lao động theo truyền thống, phụ
nữ đảm nhận công việc đơn giản, chẳng hạn như chà nhám, hoặc công việc chi tiết nhẹ hơn
như chạm khắc, mặc dù gần như tất cả các công việc vẽ mẫu là do đàn ông. Tuy nhiên trong
các hộ gia đình có hoạt động kinh doanh, phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong việc buôn
bán sản phẩm.
Trong khi tiền lương của người lao động nam là 200,000-250,000 đồng ($ 10-12) mỗi ngày,
phụ nữ làm các công việc nhẹ hơn chỉ nhận được 80,000-150,000 đồng ($ 4-8) mỗi ngày.
20
Không có vấn đề đặt ra trong hội thảo các bên liên quan về vai trò giới, mặc dù rõ ràng là sức
khỏe của phụ nữ và trẻ em có thể bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm.
3.1.3 Trở ngại và vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng
Trở ngại chính và các vấn đề của nhóm hộ sản xuất đồ gỗ gia dụng trong cây vấn đề (Hình 1)
được xây dựng tại hội thảo các bên liên quan có sự tham gia bao gồm:
Công cụ sản xuất thô sơ và diện tích/khu vực cơ sở sản xuất chưa phù hợp.
Các thủ tục pháp lý phức tạp và thiếu các văn bản đầy đủ để đáp ứng các yêu cầu pháp
lý. Hầu hết các hộ sản xuất không có giấy phép kinh doanh, hồ sơ gỗ hợp pháp12 hay
hoá đơn cho các sản phẩm.
Không đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ và vệ sinh môi trường.
Vi phạm các quy định lao động, không có hợp đồng lao động với người lao động, một
phần là do tính thời vụ của công việc.
Thiếu kĩ năng quản lý và kiến thức thị trường. Hầu hết các hộ gia đình trong nhóm
không có kĩ năng quản lý cơ bản.
Thiếu thông tin thị trường và kiến thức về gỗ hợp pháp để đáp ứng theo yêu cầu của
thị trường.
Gặp khó khan trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư.
Các nhà quản lý bị động hoặc tiêu cực, đặc biệt là chính quyền địa phương.
Các vấn đề không được lắng nghe từ các quan chức năng có trách nhiệm do thiếu sự
kết nối với các tổ chức xã hội dân sự (CSO) và các phương tiện truyền thông.
12
Hồ sơ gỗ hợp pháp bao gồm các văn bản pháp lý bắt buộc ( theo thông tư số 01/2012/ TTBNNPTNT)
21
Hình 2. Cây vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ gia dụng (làng Đồng Ky, khu vực đồng
bằng sông Hồng)
Vấn đề cốt lõi
Thiếu văn bản pháp
luật
Vấn đề trực tiếp
Thiếu sáng tạo
Kiến thức
kinh tế kém
và không có
kỹ năng quản
lý
Kỹ năng sản
xuất kém
Quảng cáo kém
Thiết kế
kém
Khả năng
cạnh tranh
thị trường
kém
Vấn đề trung gian
Khả năng
thích ứng
yếu và tốc độ
bán chậm
Quản lý kinh doanh kém
Chi phí cho gỗ cao
Các khoản vay lãi
Chi phí sản
xuất cao
Chi phí đầu tư cho công
nghệ mới
Thiếu hỗ
trợ từ các
cơ quan
quản lý địa
phương
trong giao
đất
Đất sản
xuất giao
cho các dự
án
Các kênh
thông tin
của EU bị
hạn chế
Các thủ tục
luật pháp phức
tạp
Thiếu đầu tư và
công nghệ
Khu
vực sản
xuất
nhỏ
Thiếu thông tin
thị trường EU
Thủ tục pháp
lý lỗi thời
Đơn đặt hàng giảm
từ các hộ gia đình
sản xuất và khách
hàng
Chi phí đất
cao
Các thiết kế chưa
phù hợp với thị
trường EU
Quy định theo dõi
chặt chẽ
Công nghệ chế biến gỗ
lỗi thời
Thiếu đất sản xuất
22
Lĩnh vực công
nghệ không phù
hợp và sản xuất
Hộ gia đình sản
xuất đồ nội thất
làm giảm sản
lượng hoặc mất
sinh kế
3.2 Nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
3.2.1 Thông tin chung
Đây là nhóm đóng vai trò quan trọng cả về số lượng lớn các hộ gia đình cũng như vai trò của
nhóm trong ngành công nghiệp gỗ. Các công ty chế biến gỗ phát triển nhanh chóng ở miền
Bắc Việt Nam từ giữa những năm 2000, sau một thập kỷ phát triển trồng rừng. Hộ gia đình
chế biến gỗ tập trung chủ yếu dọc theo các tuyến đường chính quanh khu vực trồng rừng, đặc
biệt là ở các tỉnh đông bắc, các tỉnh ven biển phía Bắc và phía Nam.
Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 3 triệu ha rừng trồng (chủ yếu là keo và bạch đàn), trong đó
78% (2.270.000 ha) là rừng sản xuất, sản xuất 17 triệu m3 mỗi năm. Một nửa trong số này
được là nguyên liệu đầu vào của các hộ gia đình chế biến gỗ rừng trồng trong chuỗi cung ứng
(Trần Lê Huy và Tô Xuân Phúc năm 2013). Tính đến năm 2013, Việt Nam có khoảng 4.000
doanh nghiệp và hộ cá thể chế biến gỗ sử dụng khoảng 117.000 lao động, trong đó khoảng
40% là nữ. Trong số các doanh nghiệp này, khoảng 46% có dưới 10 lao động và 40% có từ
10-49 lao động (Tổng cục Thống kê, 2013).
Hầu hết các hộ chế biến gỗ rừng trồng tương đối khá giả, thường học hết cấp hai. Ở miền Bắc
Việt Nam, tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong nhóm này khá cao. Tùy thuộc vào khu vực, thu
nhập có nguồn gốc từ chế biến gỗ của họ chiếm khoảng 50-70% tổng thu nhập của hộ gia
đình.
Tương tự với các nhóm chế biến đồ gỗ gia dụng, hộ gia đình chế biến gỗ rừng trồng nằm dưới
sự giám sát của Uỷ ban nhân dân địa phương và các ban ngành có liên quan, đặc biệt là chi
cục kiểm lâm . Tỷ lệ các hộ chế biến gỗ rừng trồng có đăng ký là trên 80% trong khi các cơ sở
sản xuất nhỏ và theo mùa vụ thường không đăng ký. Hầu hết các hộ gia đình đăng ký nộp
thuế cố định (200,000-500,000 đồng ($ 10-25) / tháng) và thuế môn bài (1.000.000 đồng (50
USD) / năm).
3.2.2 Đặc điểm chính về sinh kế hộ gia đình
Chủ các cơ sở chế biến gỗ rừng trồng không tham gia vào các công đoạn chế biến trực tiếp,
mà đảm nhiệm các nhiệm vụ như quản lý, tìm nguồn cung ứng đầu vào và tiếp thị. Vật liệu
đầu vào chủ yếu là từ rừng trồng gần đó như keo, bạch đàn, bồ đề. Cơ sở sản xuất thường có
diện tích khoảng từ 500-1000 mét vuông. Để phơi ván bóc, họ cũng cần vài ngàn mét vuông,
hoặc xung quanh nhà hoặc trên các bãi đất trống gần đó, các tấm ván bóc thường được phơi
bên cạnh đường chính.
Tính trung bình một cơ sở sản xuất có từ 5-10 lao động thường xuyên, chủ yếu là nam giới, để
quản lý máy móc. Họ cũng thuê thêm nhiều lao động theo thời vụ, nhất là phụ nữ và trẻ em,
để phơi sản phẩm như ván lạng, ván bócb. Nhiều người trong số đó là những người thân hoặc
hàng xóm. Vì lý do này, việc cung cấp những lợi ích cần thiết về mặt pháp lý như hợp đồng
lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn và bảo hộ lao động13 không được coi trọng ở các
cơ sở sản xuất. Ở nhiều vùng, lao động thời vụ được trả lương theo ngày.
Hộ gia đình chế biến gỗ rừng trồng (đặc biệt là ở miền Bắc) thường sử dụng dụng cụ đơn
giản, bao gồm một hoặc hai máy chế biến ván gỗ, cưa và một vài máy móc khác được chế tạo
13
Tại tỉnh Thái Nguyên, có khoảng 90% người lao động không có hợp đồng lao động
23
tại địa phương hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc. Việc sử dụng các máy móc kém chất lượng
không đảm bảo an toàn lao động và thất thoát khoảng 30% lượng gỗ sau chế biến. Một hộ gia
đình chế biến gỗ điển hình chế biến khoảng 1,100-1,200 m3 gỗ trong mùa khô từ tháng Tám
đến tháng Giêng, và thu được một khoản lãi ròng khoảng 200-300 triệu đồng ($ 10.00015.000)14.
Các sản phẩm chính là những gỗ thanh, gỗ ván lạng, ván bóc và dăm gỗ được bán cho các
nhà máy giấy, nhà máy gỗ công nghiệp, hay nhà máy chế biến dăm gỗ (đối với các hộ ở các
tỉnh ven biển và phía Nam) hoặc cho các khách hàng từ Trung Quốc (các hộ ở các tỉnh miền
Đông Bắc). Các cơ sở chế biến gỗ lớn thường có xe tải và có thể vận chuyển sản phẩm trực
tiếp cho các nhà máy, trong khi hầu hết các cơ sở nhỏ dựa vào người trung gian để bán sản
phẩm cho thị trường Trung Quốc.
Hầu hết các chủ cơ sở sản xuất đều nhận thức được các yêu cầu của pháp luật về tính hợp
pháp gỗ, phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường và an toàn lao động. Tuy nhiên họ không
hoàn toàn tuân thủ, đặc biệt là vấn đề liên quan tới tính hợp pháp của gỗ và điều kiện sản xuất,
do các yếu tố như sự phức tạp của pháp luật, việc thực thi pháp luật yếu và chi phí cao. Hồ sơ
về nguồn gỗ hoặc sản phẩm được sản xuất chỉ được cung cấp nếu người mua yêu cầu - các chi
phí này được coi là trách nhiệm của người mua. Đối với các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ và
những người ở vùng sâu vùng xa, ít tiếp cận với thông tin về các yêu cầu pháp lý thì sự tuân
thủ pháp luật là thấp hơn.
3.2.3 Trở ngại và vấn đề của nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng
Các trở ngại chính của nhóm hộ chế biến gỗ rừng trồng sẽ được miêu tả hầu hết ở cây vấn đề
(Hình 2), chúng được xây dựng từ hội thảo các nhóm bị ảnh hưởng bao gồm:
Ngày càng thiếu hụt nguyên liệu gỗ đầu vào. Sự phát triển của các nhà máy chế biến
và khu vực trồng rừng đang trong tình trạng mất cân bằng ở cấp quốc gia cũng như
cấp địa phương, dẫn tới sự cạnh tranh mạnh mẽ về nguyên liệu đầu vào và sự thiếu hụt
nguồn cung. Tại cấp địa phương, sự yếu kém của việc thực thi pháp luật dẫn đến cạnh
tranh quyết liệt giữa những hộ gia đình có đăng kí và không đăng kí. Vấn đề nguồn
nguyên liệu cũng là kết quả của mối quan hệ lỏng lẻo giữa các hộ gia đình chế biến gỗ
và chủ rừng ở địa phương, năng suất rừng thấp và việc thiếu hụt vốn để mua gỗ.15
Hầu hết các hộ gia đình có điều kiện sản xuất, điều kiện vật chất và chấp hành thủ tục
pháp lý kém. Hầu hết đều vi phạm pháp luật như không sở hữu đăng kí kinh doanh,
thiếu hợp đồng lao động, bảo hiểm và bảo vệ môi trường, phòng tránh cháy nổ, v.v.
Điều này dẫn đến nguy cơ cao về thiệt hại vật chất do tai nạn, phạt vạ, và thị trường
không ổn định.
Thông tin, kiến thức về công nghệ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, và năng lực tài
chính, v.v yếu kém.
Tháng 7 2014, cây keo nguyên liệu có giá là 1.2 triệu đồng một m3 và của sản phẩm (gỗ ván bóc) là 2.1 triệu
đồng một m3
15
Tại Yên Bình, tỉnh Yên Bái phía bắc Việt Nam chỉ có một số ít các hộ gia đình có khả năng đầy đủ để
hoạt động trong khi tại Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, có khoảng 60% nguyên liệu thô phải nhập từ các huyện
khác hoặc các tỉnh khác.
14
24
Không tiếp cận được với nguồn vốn đầu tư dài hạn.
Vấn đề thị trường liên quan đến năng lực sản xuất thấp, sự mất cân bằng giữa nguồn
cung và nhu cầu phần nào liên quan đến cơ chế quản lý yếu kém của các cơ quan có
thẩm quyền, và thiếu sự hợp tác và đối thoại giữa các hộ gia đình chế biến gỗ.
25