SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được, đất đai còn là một trong những bộ phận lãnh thổ
quốc gia. Với tầm quan trọng đó, đất đai là yếu tố không thể thiếu của môi trường
sống, phân bố dân cư, phát triển công nghiệp, dịch vụ, văn hóa, an ninh quốc phòng.
Luật đất đai năm 2003 qui định 13 nội dung QLNN về đất đai. Mười ba nội
dung này có mối quan hệ hữu cơ với nhau và là một chu trình khép kín. Đăng ký - cấp
GCNQSDĐ là một nội dung quan trọng trong QLNN về đất đai. GCNQSDĐ là chứng
thư pháp lý xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất để sử dụng lâu
dài nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản và có hiệu quả.
Bắc Bình là một huyện duyên hải Nam Trung Bộ, là huyện miền núi nằm ở phía
Bắc tỉnh Bình Thuận. Cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tuy
nhiên, việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào
mục đích nông nghiệp theo Nghị Định 64/CP còn chậm do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người sử dụng
đất, nhất là nhu cầu về GCNQSDĐ để thực hiện các quyền giao dịch là hết sức bức
xúc.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác QLNN về đất đai là nhiệm vụ hết sức phức
tạp và nặng nề. Để quản lý tốt đất đai ngành địa chính huyện, cần hoàn thiện bộ hồ sơ
địa chính ban đầu làm cơ sở cho việc quản lý và cập nhật biến động đất đai. Do đó,
công tác đăng ký – cấp GCNQSDĐ là khâu quan trọng đối với việc QLNN về đất đai.
Xuất phát từ tình hình thực tế và tầm quan trọng của đất đai, được sự phân công
của bộ môn QLĐĐ - Tài Nguyên Và Môi Trường, Trường Đại Học Nông Lâm Thành
Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi thực hiện đề tài: “ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CẤP
GCNQSDĐ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BẮC BÌNH - TỈNH BÌNH
THUẬN”.
I.2. Mục Đích
- Đề tài nghiên cứu, đánh giá kết quả đạt được về công tác đo đạc, lập BĐĐC
và kê khai đăng ký - cấp GCNQSDĐ nông nghiệp. Phân tích những thuận lợi và khó
khăn ảnh hưởng đến quá trình đăng ký - cấp GCNQSDĐ nông nghiệp. Tìm ra những
nguyên nhân khắc phục những hạn chế, đề xuất hướng giải quyết để ngày càng hoàn
thiện và góp phần đẩy nhanh tiến độ đăng ký - cấp GCNQSDĐ nông nghiệp.
I.3. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu các vấn đề về quy trình, tiến độ cấp GCNQSDĐ nông nghiệp
cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Bắc Bình và các yếu tố ảnh hưởng đến
công tác cấp GCNQSDĐ nông nghiệp.
I.4. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu trong thời gian 3 tháng từ ngày 25/11/2011-24/01/2012.
Trang 1
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
- Giới hạn nội dung nghiên cứu của đề tài: đánh giá điều kiện tự nhiện, kinh tếxã hội, tình hình quản lý sử dụng đất và kết quả cấp GCNQSDĐ nông nghiệp trên địa
bàn huyện.
Trang 2
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
PHẦN II: KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
II.1. Khái quát chung về sở hữu và sử dụng đất trong pháp luật về đất đai
II.1.1. Sở hữu và sử dụng đất trong giai đoạn trước Hiến Pháp 1980
Trước Cách Mạng Tháng Tám, dưới chế độ của chính quyền thực dân phong
kiến ruộng đất nước ta tồn tại các hình thức sở hữu tư nhân là chủ yếu (sở hữu ruộng đất
của địa chủ, một phần nhỏ của nông dân), sở hữu tập thể (sở hữu ruộng đất của cộng
đồng làng xã, tôn giáo), ngoài ra còn có sở hữu ruộng đất của Nhà nước thực dân phong
kiến chủ yếu đối với đất hoang hóa và các hệ thống công trình công cộng.
Ngay sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa ra đời đã ban hành các chính sách quy định việc chia ruộng đất của
thực dân phong kiến cho nông dân và xác lập sở hữu ruộng đất cho nông dân.
Hiếp pháp 1946 đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thông qua
trong đó quy định tại Điều 12 nguyên tắc “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam
được bảo đảm”. Vì vậy, sở hữu cộng đồng làng xã cơ bản bị xóa bỏ, thay vào đó là
ruộng đất của nông dân như mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Năm 1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, đã khẳng định tại Điều 1
nguyên tắc “thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của chủ nghĩa thực dân và đế quốc, xóa
bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ để xác lập chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất do chính quyền cách mạng chia cho nông dân mà người được chia ruộng đất
không phải trả cho địa chủ hay chính quyền bất cứ một khoản nào. Vì vậy, trong giai
đoạn này sở hữu tư nhân về ruộng đất là chủ yếu, người được chia ruộng đất có quyền
của chủ sở hữu như chia, cầm cố, bán.... ruộng đất” (Điều 31).
Hiến pháp 1959 ban hành thay thế Hiến pháp 1946, theo quy định tại Điều 11
thì đất đai có 3 hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân (đồng nghĩa với sở hữu Nhà nước),
sở hữu HTX (đồng nghĩa với sở hữu tập thể) và sở hữu của người lao động riêng lẻ,
nhà tư sản dân tộc (đồng nghĩa với sở hữu tư nhân); đất có hầm mỏ, sông ngòi, cây
rừng, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp Luật quy định thì thuộc sở hữu Nhà nước.
Vì vậy, cho đến trước ngày 18/12/1980 (ngày thông qua Hiến pháp 1980), miền Bắc
vẫn tồn tại 3 hình thức sở hữu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân
trong đó sở hữu tập thể là chủ yếu có ưu thế hơn, bởi vì giai đoạn này phong trào HTX
diễn ra mạnh mẽ trên hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề; sở hữu tư nhân rất ít vì số
lượng người lao động riêng lẻ không nhiều và chỉ tập trung vào đất ở do được để thừa
kế nhà gắn liền với đất.
Trong giai đoạn này, miền Nam chưa được giải phóng, chế độ ruộng đất do chế
độ ngụy quyền quy định, chủ yếu thực hiện theo Luật cải cách điền địa của chính
quyền Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu với hai hình thức sở hữu là sở hữu Nhà
nước và tư nhân. Ở những vùng giải phóng, ruộng đất của nông dân được cách mạng
chia khi giành độc lập thì vẫn thuộc sở hữu tư nhân của nông dân. Những nơi chính
quyền ngụy quyền lấy lại đất của nông dân để chia lại nhưng không đồng đều (theo
Luật cải cách điền địa) và xác lập sở hữu tư nhân cho địa chủ, tư sản, ruộng đất của
người lao động còn rất ít.
Trang 3
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Sau chiến thắng 30/4/1975 giải phóng miền Nam, đất nước hoàn toàn thống nhất,
Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành Nghị định 01/NĐ/75
ngày 05/3/1975 để xác nhận và bảo hộ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân của người lao
động trên cơ sở hiện trạng ruộng đất đang sử dụng; đồng thời có điều chỉnh hạn mức
ruộng đất của những người lao động có nhiều ruộng đất hơn mức trung bình nhằm đảm
bảo tính công bằng. Riêng ruộng đất trưng thu, tịch thu của ngụy quân, ngụy quyền, địa
chủ, tư sản, đế quốc và trưng mua của người lao động có quá nhiều ruộng đất thì chia
cho người lao động chưa có ruộng đất hoặc có nhưng rất ít để đảm bảo cuộc sống. Vì
vậy, trong giai đoạn từ 05/3/1975 đến 18/12/1980 ruộng đất miền Nam chủ yếu tồn tại 3
hình thức sở hữu Nhà nước, tập thể và tư nhân.
II.1.2. Sở hữu và sử dụng đất trong giai đoạn từ sau Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 đã quy định nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà
nước thống nhất QLĐĐ theo quy hoạch chung và những tập thể, cá nhân đang sử dụng
đất được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp
Luật (Điều 19, 20). Quy định này đã bãi bỏ các hình thức sở hữu tập thể và tư nhân về
đất đai trước đây, đồng thời cũng thể hiện nguyên tắc mọi tranh chấp về quyền sở hữu
đất đai từ sau ngày 18/12/1980 trở đi là bất hợp pháp và không giải quyết; tập thể, cá
nhân đang sử dụng đất (trước đây thuộc sở hữu của mình) thì từ sau ngày 29/12/1980
chỉ có quyền tiếp tục sử dụng đất đó và được hưởng kết quả lao động mang lại từ đất.
Thực tế cho thấy đất nông nghiệp, lâm nghiệp trong giai đoạn từ Hiến pháp
1980 đến năm 1988 (ban hành Luật đất đai) chủ yếu Nhà nước giao cho các tập thể
(HTX hoặc tập đoàn sản xuất). Từ sau khi có chỉ thị 100/CT-TW của ban chấp hành
Trung Ương Đảng (13/01/1981) và Nghị Quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính Trị
(05/4/1988), thì thực hiện giao khoán ruộng đất đến nhóm và người lao động.
Ngày 29/12/1987 Quốc hội đã thông qua Luật đất đai quy định cụ thể hóa Hiến
pháp 1980. Tại điều 1 của Luật đất đai quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước thống nhất quản lý, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà giao cho các nông,
lâm trường, HTX, xí nghiệp, tập đoàn sản xuất, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, gia đình, cá nhân (được gọi chung là người sử dụng đất). Việc sử
dụng đất phát sinh sau ngày 08/01/1988 có hai trường hợp là phải do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giao và đang sử dụng đất tại thời điểm này thì tiếp tục sử dụng
theo quy định của Luật đất đai. Luật đất đai nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất
đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức (điều 5).
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý
của Nhà nước mà Đại Hội Đảng lần thứ VI, VII và VIII đưa ra, đã làm cho đất đai
thực sự mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Hiến pháp 1992 thay thế Hiến pháp
1980, kế thừa nguyên tắc sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước thống nhất quản lý,
Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng; mở rộng quyền của
người sử dụng đất; người sử dụng đất không chỉ được sử dụng đất và hưởng thành quả
lao động như trước đây mà còn có quyền “chuyển quyền sử dụng đất” (Điều 17,18).
Sau đó Luật đất đai 1993 được ban hành ngày 14/7/1993 thay thế Luật đất đai 1987 cụ
thể hóa Hiến pháp 1992 gồm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế
chấp quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, quyền
của tổ chức sử dụng đất thì giao cho UBTVQH quy định (Điều 3) và UBTVQH đã ban
Trang 4
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất. Hình thức sử dụng đất do được Nhà nước “giao đất” trong Hiến
pháp 1992 được cụ thể bằng hai hình thức là Nhà nước giao đất và Nhà nước cho thuê
đất (Điều 1). Vì vậy khái niệm “sử dụng đất” được mở rộng, đặc biệt đất đai từ sau
ngày 14/10/1993 được chuyển dịch hợp pháp, khắc phục tình trạng mua bán “ngầm”
như trước đây.
Ngoài ra khái niệm sử dụng đất được mở rộng hơn bởi pháp lệnh về quyền và
nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, Pháp lệnh về
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất (ngày
14/10/1994) và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ
chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (ngày 28/7/1996) quy định
quyền của tổ chức trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất theo mục đích
sử dụng đất, theo loại đất, đối tượng sử dụng đất.
Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đất đai, đã mở rộng khái niệm người sử dụng đất có thể là người được Nhà
nước không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất hoặc
nhận quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác; đồng thời mở rộng quyền của người
sử dụng đất như thêm quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để phát huy hiệu
quả sử dụng đất phù hợp với sự phát triển kinh tế hiện nay.
Có thể thấy rằng quyền của người sử dụng đất ngày càng được mở rộng nhằm
đảm bảo sử dụng đất ngày càng có hiệu quả kinh tế.
II.2. Lịch sử đăng ký đất ở Việt Nam
II.2.1. Sơ lược về lịch sử đăng ký đất đai ở Việt Nam trước năm 1945
Đất đai là tài sản vô giá mà thiên nhiên đã ban cho loài người; nó gắn liền với
lịch sử đấu tranh sinh tồn từ ngàn đời xưa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Dưới bất kỳ một thời đại, một chế độ xã hội nào, đất đai luôn là vấn đề được
quan tâm hàng đầu của cả bộ máy Nhà nước, nhằm nắm chắc tình hình và quản lý chặt
chẽ vốn đất, hướng việc sử dụng đất đai phục vụ sát sườn quyền lợi chính trị của giai
cấp thống trị.
Ở Việt Nam, công tác đạc điền và địa điền có lịch sử từ thế kỷ thứ VI trở lại
đây. Tuy nhiên, bộ hồ sơ cũ nhất mà ngày nay còn lưu giữ lại được tại một số nơi Bắc
và Trung Bộ là hệ thống sổ địa bạ thời Gia Long (năm 1806). Ở Nam Bộ chưa tìm
thấy địa bạ thời Gia Long, mà chỉ thấy có địa bộ thời Minh Mạng.
II.2.1.1. Sổ địa bạ thời Gia Long: lập cho từng xã
Phân biệt rõ đất công điền, đất tư điền cho từng xã; trong đó ghi rõ đất đai của
ai, diện tích, tứ cận, đẳng hạn để tính thuế; theo qui định, hàng năm phải tiến hành tiểu
tu và trong vòng 5 năm phải thực hiện đại tu sổ một lần. Tuy nhiên, hệ thống sổ này do
không có bản đồ kèm theo và không dùng một đơn vị đo lường thống nhất ở các địa
phương nên việc sử dụng sổ rất khó khăn và không được tu chỉnh gì.
II.2.1.2. Sổ địa bộ triều Minh Mạng
Năm thứ 17 (năm 1836) triều Minh Mạng, triều đình cử khâm sai lo việc lập
“điền bộ”, sau đổi thành “địa bộ” tại Nam Kỳ. Hệ thống này được lập tới tận làng, xã
Trang 5
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
và đã có rất nhiều tiến bộ so với địa bạ thời Gia Long. Sổ bộ được lập trên cơ sở đạc
điền với sự có mặt chứng kiến của đầy đủ các chức việc làng, chánh tổng, tri huyện và
điền chủ.
II.2.1.3. Dưới thời Pháp thuộc
Do chính sách cai trị của thực dân, trên lãnh thổ Việt Nam đã tồn tại nhiều chế
độ điền địa khác nhau:
- Chế độ quản thủ địa bộ tại Nam Kỳ.
- Chế độ bảo tồn điền trạch, sau đổi thành quản thủ địa chánh tại Trung Kỳ.
- Chế độ bảo thủ để áp (còn gọi là để đương).
- Chế độ điền thổ theo sắc lệnh 29/3/1939 áp dụng tại Bắc Kỳ.
- Chế độ điền thổ theo sắc lệnh 21/7/1925 áp dụng tại Nam Kỳ và các nhượng
địa Pháp quốc ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng (cùng một ngày có 3 sắc lệnh áp dụng
riêng cho 3 miền Bắc, Trung, Nam Kỳ).
* Chế độ điền thổ tại Nam Kỳ
Chế độ địa bộ được bắt đầu thực hiện từ cuối thế kỷ19, ban đầu chủ yếu là kế
thừa, tu chỉnh hệ thống địa bộ thời Minh Mạng. Từ năm 1911, hệ thống này bắt đầu
được cũng cố, hoàn thiện, có bản đồ giải thửa kèm theo. Nội dung sổ địa bộ phải ghi
nhận đầy đủ các văn kiện về chuyển quyền, lập quyền, sổ bộ giữ tại phòng quản thủ
địa bộ và các điền chủ được cấp trích lập địa bộ. Hệ thống này chỉ được áp dụng để
quản thủ điền địa cho dân nông thôn bản xứ; riêng đất đai của người Pháp và kiều dân
đồng hóa Pháp thì áp dụng chế độ để đương và do ty bảo thủ để đương thực hiện.
Từ năm 1925, chính phủ Pháp chủ trương thiết lập một chế độ bảo thủ điền thổ
thống nhất theo sắc lệnh 1925 (được gọi là chế độ điền thổ) thay thế hai chế độ song
hành trước đây là chế độ địa bộ và chế độ để đương. Sắc lệnh này được triển khai áp
dụng dần trên lãnh thổ Nam Kỳ. Nét nổi bật của chế độ này là: bản đồ giải thửa được đo
đạc chính xác; sổ điền thổ thể hiện mỗi trang sổ cho một lô đất của mỗi chủ đất, trong
đó ghi rõ: diện tích sắc đất, nơi tọa lạc, giáp ranh, biến động tăng giảm của lô đất, tên
chủ sử dụng, điều liên quan đến quyền sử dụng; cầm cố và để đương.
* Chế độ quản thủ địa chánh tại Trung Kỳ
Được bắt đầu thực hiện từ năm 1930 theo Nghị định 1358 của Tòa khâm sứ
Trung Kỳ (lúc này được gọi là công tác bảo tồn điền trạch). Đến năm 1939 đổi thành
quản thủ địa chánh theo Nghị định số 3138 ngày 14/10/1939. Tài liệu theo chế độ này
gồm có bản đồ giải thửa, sổ địa bộ, sổ điền chủ bộ và tài chủ bộ.
* Chế độ điền thổ và quản thủ địa chính tại Bắc Kỳ
Công tác đạc điền bắt đầu thực hiện từ năm 1889, giai đoạn 1889 đến 1920 chủ
yếu thực hiện đo đạc lập bản đồ bao đạc nhằm mục đích thu thuế. Từ sau năm 1920,
nhà cầm quyền bắt đầu có chủ trương đo đạc chính xác, lập sổ bộ để thực hiện quản
thủ địa chính. Do đặc thù đất đai ở Bắc Bộ manh mún nên bộ máy chính quyền lúc đó
đã cho triển khai song song cùng lúc hai hình thức: hình thức đo đạc chính xác, hình
thức đo đạc lập lược đồ đơn giản 1/1000 và lập sổ sách để tạm thời QLĐĐ.
Trang 6
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
II.2.2. Công tác đăng ký đất đai ở các tỉnh phía nam dưới chế độ Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam
Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt, miền Nam đặt dưới ách cai trị của chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa; các tỉnh phía Nam vẫn kế thừa tồn tại 3 chế độ quản thủ
điền địa trước đây.
- Tân chế độ điền thổ theo sắc lệnh 1925
- Chế độ quản thủ địa bộ tại những địa phương ở Nam Kỳ đã hình thành trước
năm 1925.
- Chế độ quản thủ địa chính áp dụng ở một số địa phương thuộc Trung Kỳ.
Tuy nhiên từ năm 1962, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã có sắc lệnh 124 –
CTNT triển khai công tác kiến điền và quản thủ điền địa tại những địa phương chưa
thực hiện sắc lệnh 1925.
II.2.2.1. Tân chế độ điền thổ
Được đánh giá là chặt chẽ có hiệu quả nhất thời Pháp thuộc và vẫn được ưu tiên
triển khai mạnh để thay thế dần cho tất cả các hình thức quản thủ khác. Nhưng đến
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, chế độ này chỉ thực hiện trên diện
tích khoảng 1 triệu ha (chủ yếu tập trung tại Đồng Bằng Sông Cửu Long).
II.2.2.2. Chế độ quản thủ điền địa
Được coi là một giải pháp tình huống tạm thời để đáp ứng bức bách yêu cầu
QLĐĐ phù hợp với điều kiện lúc đó.
Thực hiện chế độ này, phương pháp đo đạc rất đơn giản để các xã có thể tự đo
vẽ lược đồ song phải tuân theo một trình tự pháp lý chặt chẽ.
Sau hơn 10 năm thực hiện, chế độ quản thủ điền địa này đã được thiết lập trên
hầu hết lãnh thổ miền Nam thuộc chính quyền Sài Gòn kiểm soát .
Đánh giá chung về các hệ thống hồ sơ đất đai của các chế độ trước
Bất kỳ một chế độ xã hội nào, việc đăng ký đất đai, thiết lập hồ sơ địa chính đều
hết sức cần thiết và bức bách, mục tiêu chủ yếu là nắm tình hình sử dụng đất phục vụ
cho việc thu thuế đất: bên cạnh đó tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho chủ đất.
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có thể áp dụng nhiều chế độ quản lý hồ sơ khác nhau để
vừa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh vừa tính tới mục tiêu lâu dài xây dựng hệ thống
hồ sơ địa chính thống nhất. Tuy nhiên, trong mọi chế độ quản lý, mọi hệ thống hồ sơ
thiết lập thì việc xác định chuẩn xác quyền sở hữu của các chủ đất luôn được coi trọng,
yêu cầu pháp lý của hệ thống hồ sơ ngày càng chặt chẽ.
Hồ sơ dưới các chế độ nhìn chung đều có nhiều chủng loại, luôn bao gồm hai
nhóm tài liệu: nhóm lập theo thứ tự thửa và nhóm lập theo thứ tự chủ sử dụng đất để
tra cứu, hướng chung các hệ thống hồ sơ ngày càng nhiều tài liệu. Điều đó phản ánh
lịch sử sử dụng đất phức tạp và tình trạng sử dụng đất ngày càng manh mún ở Việt
Nam.
II.2.3. Công tác đăng ký đất đai dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Trang 7
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
II.2.3.1. Từ sau Cách Mạng Tháng Tám thành công đến năm 1979
Sau Cách Mạng Tháng Tám thành công, đặc biệt là sau cải cách ruộng đất 1957
chính quyền tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo. Tiếp đó vào đầu năm
1960, hưởng ứng phong trào hợp tác hóa sản xuất của Đảng và Chính phủ phát động,
đại bộ phận nông dân với nhiệt huyết cách mạng, luôn tin tưởng vào Đảng đã đóng
góp đại bộ phận ruộng đất canh tác vào HTX. Do vậy, hiện trạng ruộng đất đã có
nhiều thay đổi. Tuy nhiên, do điều kiện rất khó khăn thiếu thốn, hệ thống hồ sơ các
chế độ trước để lại đã không hiệu quả được và không thể sử dụng được nữa.
Trong suốt những năm sau đó đến năm 1980, trong hoàn cảnh chiến tranh kéo
dài, tổ chức ngành địa chính các cấp thường xuyên không ổn định và đặc biệt là Nhà
nước vẫn chưa có văn bản pháp lý nào làm cơ sở nên công tác đăng ký đất đai, lập hồ
sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ vẫn chưa được triển khai. Hoạt động chủ yếu của
ngành trong giai đoạn này là tổ chức các cuộc điều tra nhanh về đất đai để giúp Nhà
nước nắm chắc diện tích phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất Nhà nước, xây dựng các
HTX và tập đoàn sản xuất. Hệ thống tài liệu đất đai trong giai đoạn này chủ yếu gồm
hai loại: bản đồ giải thửa và sổ mục kê kiêm thống kê ruộng đất, thông tin về tên người
sử dụng đất trên sổ sách chỉ phản ánh theo hiện trạng không truy cứu đến cơ sở pháp
lý và lịch sử sử dụng đất.
II.2.3.2. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1988
Từ sau năm 1980 công tác đăng ký đất đai mới bắt đầu được Nhà nước quan
tâm và tổ chức thực hiện theo QĐ 201–CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ và
chỉ thị 299–TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện yêu cầu này,
Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ban hành QĐ 56/ĐKTK ngày 05/11/1981 quy định thủ
tục đăng ký thống kê ruộng đất.
Theo quyết định này, việc đăng ký đất có một trình tự khá chặt chẽ; việc xét
duyệt đăng ký đất phải do hội đồng đăng ký thống kê ruộng đất của xã thực hiện; kết
quả xét đơn của xã phải được UBND huyện duyệt mới được đăng ký, cấp giấy chứng
nhận; hệ thống hồ sơ đăng ký đất quy định khá đầy đủ và chi tiết (gồm 14 loại mẫu),
đáp ứng được yêu cầu QLNN về đất đai trong thời kỳ đó.
Việc triển khai chỉ thị 299–TTg kéo dài từ năm 1981 đến cuối 1988 mới thực
hiện được khoảng 6500 xã. Kết quả đạt được ở các xã còn rất nhiều hạn chế: các khu
dân cư nông thôn còn đo bao và để dân tự kê khai không xác định được vị trí sử dụng
cụ thể trên bản đồ, hồ sơ. Việc xét duyệt xác định quyền sử dụng đất hợp pháp của
người kê khai đăng ký gần như không được thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm
túc, các trường hợp vi phạm Luật đất đai không được xử lý và vẫn được vào sổ. Vì
vậy, hệ thống sổ sách đăng ký đất thiết lập giai đoạn này vẫn chỉ mang tính chất điều
tra, phản ánh nguyên HTSDĐ, tình trạng sai sót nhầm lẫn trong thiết lập các hồ sơ
chiếm tỷ lệ khá cao (>10%, có nơi >30%). Việc cấp GCNQSDĐ giai đoạn này chưa
được thực hiện.
II.2.3.3. Từ khi có Luật đất đai 1988 đến nay
Sau Luật đất đai 1988, đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ đã trở thành một nhiệm
vụ bắt buộc và hết sức bức thiết làm cơ sở để tổ chức thi hành Luật đất đai. Xuất phát
từ yêu cầu đó, để kế thừa và phát huy kết quả kiểm tra đo đạc và đăng ký đất đai theo
Trang 8
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
chỉ thị 299–TTg(1980), TCĐC đã ban hành quyết định số 201/QĐ -ĐKTK ngày
14/7/1989 v/v cấp GCNQSDĐ và thông tư số 302/TT-ĐKTK ngày 28/10/1989 hướng
dẫn thực hiện quyết định này. Với việc ban hành các văn bản này đã tạo ra sự chuyển
biến lớn về chất trong thực hiện đăng ký đất đai và được tổ chức triển khai đồng loạt
trên phạm vi cả nước bắt đầu từ năm 1990.
Tuy nhiên trong thực tiễn triển khai: do hoàn cảnh chất lượng hệ thống hồ sơ đã
thiết lập theo chỉ thị 299/TTg có quá nhiều tồn tại; hệ thống chính sách đất đai lại đang
trong quá trình đổi mới; việc thực hiện chủ trương giao khoán ruộng đất theo chỉ thị
100 TW, tiếp đến là giao khoán ổn định lâu dài theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị
đã bước đầu đạt được một số thắng lợi, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và
đang được các địa phương trong cả nước hưởng ứng mạnh mẽ, tạo ra sự thay đổi lớn
về hiện trạng đất đai. Tuy vậy, chủ trương này đến giữa năm 1993 vẫn chưa được thể
chế hoá bằng pháp luật.
Sau Luật đất đai 1993: Thành công của việc thực hiện Nghị Quyết 10 của Bộ
Chính Trị khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở vững chắc
cho sự ra đời của Luật đất đai 1993 với những thay đổi lớn, ruộng đất được giao ổn
định lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân; đất đai có giá trị; người sử dụng đất được
hưởng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất…
Sau đó ngày 27/9/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định số 64/CP quy định v/v giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp.
Ngay sau Luật Đất đai 1993 được ban hành. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, và các bộ đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật, pháp lệnh,
nghị định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư để triển khai công tác quản lý nhà nước về đất
đai.
Thành công của việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khẳng định đường
lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước tạo cơ sở vững chắc cho sự ra đời của Luật Đất
đai 1993 với những thay đổi lớn: ruộng đất được giao ổn định lâu dài cho hộ gia đình
cá nhân, đất đai có giá trị, người sử dụng đất được hưởng các quyền: chuyển đổi,
chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp…. Với những thay đổi đó yêu cầu và nhiệm vụ hoàn
thành cấp giấy chứng nhận ngày càng trở nên cấp bách. Nhận thức được điều này
chính quyền các cấp bắt đầu coi trọng và tập trung chỉ đạo công tác cấp GCNQSDĐ,
triển khai rộng trên phạm vi cả nước.
Luật Đất đai 2003 ra đời là một bước ngoặc trong công tác quản lý Nhà nước về
đất đai. Thể hiện quan điểm đổi mới về công tác quản lý, đặc biệt là cải cách thủ tục
hành chính về đất đai, công tác đo đạc, công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính,
cấp GCNQSDĐ được quy định cụ thể bằng các điều luật.
Ngày nay công tác đăng ký và cấp GCNQSDĐ rất được Đảng và Nhà nước quan
tâm triển khai đến cấp cơ sở, đặc biệt đối với những nơi chưa được thực hiện hết công
tác đăng ký cấp giấy trước đây. Đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ trở thành một
trong 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai (Luật Đất đai 2003) ngày 26 tháng 11
năm 2003 và Nghị định 181 ngày 29 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành Luật đất
đai 2003.
II.3. Một số khái niệm
Trang 9
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
- Đất đai: đất đai bao hàm cả các yếu tố về đất và các yếu tố tự nhiện khác có
ảnh hưởng đến khả năng sử dụng hay chất lượng đất đai. Đất đai cần thiết cho bất kỳ
hoạt động nào của con người.
- Đăng ký đất: là một thủ tục hành chính bắt buộc đối với mỗi người sử dụng
đất nhằm xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, là
cơ sở pháp lý để Nhà nước nắm chắc và quản lý chặt chẽ toàn bộ tài nguyên đất đai ,
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
- Đăng ký quyền sử dụng đất: là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp phá đối
với mỗi thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: là giấy chứng nhận do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư, cải tạo nâng cao hiệu quả sử dụng đất và
thực hiện các quyền, nghĩa vụ sử dụng đất theo pháp luật.
- Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn
định: là việc Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho người đó.
- Thửa đất: là phần diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới xác định trên thựa
địa hoặc được mô tả trên hồ sơ.
- Bản đồ hành chính: là bản đổ thể hiện ranh giới các đơn vị hành chính kèm
theo địa danh và một số yếu tố chính về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Bản đồ địa chính: là bản đồ thể hiện thể hiện các thửa đất và các yếu tố địa lý
có liên quan, lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xác nhận.
- Sổ địa chính: là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi
người sử dụng đất và các thông tin về sử dụng đất của người đó.
- Sổ mục kê đất đai: là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi
các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó.
- Sổ theo dõi biến động đất đai: là sổ được lập để theo dõi các trường hợp có
thay đổi trong sử dụng đất gồm thay đổi kích thước và hình dạng thửa đất, người sử
dụng đất, mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
- Hồ sơ địa chính: là hệ thống tài liệu số liệu, bản đồ, sổ sách,…. chứa dựng
những thông tin cần thiết về mặt tự nhiên, kinh tế xã hội, pháp luật của đất đai được
thiết lập trong quá trình đo đạc, lập bản đồ địa chính, đăng ký ban đầu, đăng ký biến
động đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tài liệu của hồ sơ đại chính bao gồm:
+ Bản đồ địa chính
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
+ Sổ địa chính
+ Sổ mục kê đất đai
Trang 10
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
+ Sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
+ Sổ theo dõi biến động đất đai
II.4. Cơ sở pháp lý
- Luật Đất đai năm 1993 ngày 14/07/1993
- Văn bản số 647/CV-ĐC của Tổng cục Địa chính ngày 31/05/1995 về việc
hướng dẫn một số vấn đề xử lý khi thực hiện Nghị định 60/CP của Chính Phủ ngày
05/07/1994.
- Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/03/1998 của Tổng Cục Địa Chính về
hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ.
- Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng Cục Địa Chính
về hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ.
- Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003.
- Nghị định số 181/NĐ-CP, ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003.
- Thông tư số 30/2004/TT - BTNMT, ngày 01 tháng 11 năm 2004 về việc hướng
dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dung đất.
- Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên-Môi trường ban hành quy định về GCNQSDĐ.
- Thông tư số 115/2000/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài Chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính Phủ về thu
tiền sử dụng đất.
- Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/07/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành quy định về GCNQSDĐ.
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về
việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, thủ tục bồi thường, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiều nại về đất đai.
- Nghị định 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Chỉ thị số 39 CT/TU ngày 24/3/2005 của Thường Vụ Tỉnh Ủy “ v/v tiếp tục cấp
GCNQSDĐ ruộng đất và giải quyết tình hình tranh chấp ruộng đất.
- Hướng dẫn số 341/UB-BT ngày 06/4/2005 của UBND Tỉnh Bình Thuận hướng
dẫn thực hiện chỉ thị số 39 của Ban Thường Vụ Tỉnh Ủy “v/v tiếp tục cấp GCNQSD
ruộng đất và giải quyết tình hình tranh chấp ruộng đất”.
- Chỉ thị số 12/2008/CT-CTUBBT ngày 04/4/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh
Bình Thuận “v/v đẩy mạnh và hoàn thành việc giao đất, cấp GCNQSDĐ nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh”.
- Chỉ thị số 51/2008/ CT - CTUB ngày 04/9/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình
Thuận “v/v tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp GCNQSDĐ nông nghiệp”.
Trang 11
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
- Công văn số 248/ CV -ĐC -ĐKTK ngày 27/11/2009 của Sở Địa Chính tỉnh
Bình Thuận “v/v tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cấp GCNQSDĐ nông nghiệp”.
- Chỉ thị số 23/2009/CT-CTUBBT ngày 13/6/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh
Bình Thuận “v/v đẩy nhanh tiến độ cấp GCNQSDĐ nông nghiệp”.
Ngoài ra UBND huyện Bắc Bình cũng ban hành các văn bản hướng dẫn cho
công tác đăng ký - cấp GCNQSDĐ phù hợp với tình hình thực tế của huyện nhà.
- Công văn số 125/CV-UB ngày 24/5/2009 của UBND huyện Bắc Bình “v/v
chấn chỉnh việc xét cấp GCNQSDĐ”.
- Chỉ thị số 06/CT-UB ngày 02/3/2010 của UBND huyện Bắc Bình “v/v giải
quyết GCNQSDĐ còn tồn đọng ở các xã, thị trấn”.
II.5. Ý nghĩa của việc cấp GCNQSDĐ
Việc cấp GCNQSDĐ là dấu hiệu kết thúc quá trình đăng ký quyền sử dụng đất
hợp pháp nhằm đồng thời đạt hai mục tiêu cơ bản:
- Xây dựng hệ thống hồ sơ đầy đủ về các mặt: tự nhiên, kinh tế, xã hội... của đất
đai làm cơ sở để Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả, bảo vệ
lợi ích chính đáng của người sử dụng đất và nắm chắc nguồn tài nguyên đất đai.
- Người sử dụng đất yên tâm khai thác tài nguyên đất đai theo pháp luật, được
hưởng quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
II.5.1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác nhận mối quan hệ giữa Nhà nước
với người sử dụng đất
Với Hiến pháp năm 1980, Nhà nước đã xác lập quyền sở hữu và quyền quản lý
của mình đối với đất đai trên toàn quốc. Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ đất đai ở
nước ta, có đầy đủ 3 quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai. Việc định
đoạt đất đai đòi hỏi Nhà nước phải tính toán thận trọng vì đất đai có tầm quan trọng
đặc biệt, là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ
quyền quốc gia và liên quan chặt chẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước nên
không thể định đoạt như những tài sản thông thường khác. Nhà nước không trực tiếp
sử dụng mà giao cho những chủ thể khác sử dụng ổn định lâu dài.
Thông qua quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp GCNQSDĐ Nhà nước thực
hiện quyền định đoạt của mình đối với đất đai. Quyền sử dụng đất của những chủ thể
sử dụng đất không phải là vĩnh viễn, trọn vẹn mà phụ thuộc vào quyết định của Nhà
nước, bị giới hạn bởi không gian, thời gian, mục đích sử dụng.
Trong mối quan hệ giữa người sử dụng đất với Nhà nước, Nhà nước là chủ thể sở
hữu đất đai, đồng thời là chủ thể QLĐĐ. Còn người sử dụng đất là chủ thể sử dụng đất
trong phạm vi, giới hạn Nhà nước cho phép. Sau khi người sử dụng đất được cấp
GCNQSDĐ, mối quan hệ này mới chính thức được pháp luật thừa nhận và được bảo
vệ bằng những công cụ cưỡng chế của Nhà nước. Người sử dụng đất phải thực hiện
những nghĩa vụ đối với Nhà nước, đồng thời được hưởng những quyền nhất định theo
quy định pháp luật. Mọi biến động về đất đai đều phải được Nhà nước cho phép thông
qua thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và đăng ký biến động về đất đai. Những biến
động này phải được thể hiện trên GCNQSDĐ thì mới được Nhà nước bảo hộ bằng
pháp luật. Các chủ thể sử dụng đất không thể thông qua những giao dịch dân sự thông
Trang 12
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
thường để làm phát sinh quyền sử dụng đất hợp pháp nếu chưa được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất và cấp GCNQSDĐ.
II.5.2. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho
người sử dụng đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạo điều kiện để người sử dụng đất có thể
thực hiện những quyền khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp GCNQSDĐ giúp
cho người sử dụng đất yên tâm khai thác mọi tiềm năng của đất đai, sử dụng có hiệu
quả nhất mảnh đất được giao, đồng thời góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người sử dụng đất khi có tranh chấp. Mặt khác, trong quá trình tổ chức thực hiện việc
cấp GCNQSDĐ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ kịp thời phát hiện và xử lý
những vi phạm, những khiếu nại của người có liên quan nhằm kịp thời bảo vệ quyền
lợi của người sử dụng đất.
II.5.3. Cấp GCNQSDĐ là một hoạt động QLNN đối với đất đai
Việc cấp GCNQSDĐ giúp Nhà nước nắm được nguồn tài nguyên đất, điều tiết
được giá đất, quản lý được nguồn tài nguyên đất, nhất là có thể cân bằng mức đất đai
của từng cá nhân, tránh trường hợp người có nhiều đất, người có quá ít đất. Việc cấp
GCNQSDĐ giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nắm được đầy đủ và chính xác về
diện tích, loại đất, mục đích sử dụng đối với từng thửa đất. Từ đó, Nhà nước có cơ sở
thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch chung, bảo đảm mỗi tấc đất đều
được sử dụng hợp pháp và mang lại hiệu quả cao. GCNQSDĐ là công cụ hữu hiệu để
Nhà nước có thể quản lý đối tượng sử dụng đất, điều chỉnh các quan hệ đất đai trên
thực tế.
Quá trình xem xét, cấp GCNQSDĐ và phản ảnh những biến động về đất đai
trong GCNQSDĐ là quá trình nâng cao giác ngộ pháp luật của người sử dụng đất và
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ QLNN về đất đai. Hoạt động cấp GCNQSDĐ cùng những
hoạt động đo đạc, đánh giá đất, phân hạng đất, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…
vừa mang tính chất pháp lý, vừa là những biện pháp nghiệp vụ để đưa công tác QLĐĐ
vào trật tự pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất.
II.5.4. Việc cấp GCNQSDĐ góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội
Đất đai là một vấn đề mang nhiều yếu tố xã hội vì vậy phân bố ruộng đất phải đi
đôi với phân bố lực lượng lao động. Cấp GCNQSDĐ căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất của Nhà nước để đảm bảo sử dụng đất hợp pháp, hợp lý, tiết kiệm, đạt
hiệu quả cao, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, phân công lại lao
động và tăng thu cho người dân. Hiện nay, lao động ở nông thôn đang dư thừa, ngành
nghề chưa phát triển, ruộng đất canh tác là nguồn sinh sống của đại bộ phận nhân dân.
Diện tích canh tác này đang ngày càng giảm dần do công trình xây dựng ngày càng
nhiều, còn dân số ngày càng tăng. Thực tế đó làm cho số người không có việc làm,
sống nghèo khổ vì không có ruộng đất ngày càng nhiều và sẽ là nhân tố gây nên sự
không ổn định trong xã hội. Ngoài ra, trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh và phân
hóa giàu nghèo là điều không tránh khỏi. Nhà nước đã có biện pháp tích cực để khắc
phục hậu quả trên thông qua việc giao đất nông nghiệp cho người dân sử dụng đất ổn
định, lâu dài.
Trang 13
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Trong sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý đang diễn ra trên khắp đất nước và trên
mọi lĩnh vực, trước hết là trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, việc cấp
GCNQSDĐ thực sự đảm bảo quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị
cơ sở, tạo ra một khí thế mới giúp cho người sử dụng đất yên tâm, phấn khởi đầu tư,
khai thác mọi tiềm năng và sử dụng có hiệu quả nhất mảnh đất họ được giao. Việc cấp
GCNQSDĐ còn là một giải pháp phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam để phát
huy cao độ năng lực nội sinh, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài bên cạnh hàng loạt
những chủ trương và chính sách hấp dẫn. UBND các cấp với phạm vi, trách nhiệm của
mình phải đảm bảo các điều kiện và thực sự tạo ra những điều kiện để cấp GCNQSDĐ
nhằm đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện quản lý, sử dụng đất có hiệu quả, người
sử dụng đất sẽ an tâm và tin tưởng vào những chủ trương, chính sách của Nhà nước.
II.6. Vị trí vai trò của đăng ký đất
II.6.1. Đăng ký đất đai là một nội dung nhiệm vụ quan trọng có quan hệ hữu cơ với
các nội dung nhiệm vụ QLĐĐ khác; biểu hiện của mối quan hệ đó là:
Lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ không chỉ là mục tiêu sản phẩm trực tiếp
của quá trình đăng ký mà còn là mục tiêu phấn đấu của toàn bộ các nội dung nhiệm vụ
QLNN về đất đai: vì để thiết lập được hệ thống hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ với
đầy đủ các thông tin cần thiết theo yêu cầu QLĐĐ đòi hỏi phải triển khai đồng bộ các
văn bản chính sách đất đai, đo đạc lập BĐĐC, QHSDĐ; thanh tra xử lý vi phạm và
giải quyết tranh chấp đất đai.
Đăng ký đất là điều kiện đảm bảo các nội dung nhiệm vụ QLĐĐ nhằm đưa công
tác QLNN về đất đai vào nề nếp thường xuyên và đảm bảo cho đất đai được sử dụng
các qui định, qui trình, qui phạm về QLNN về đất đai
hợp lý,Xây
tiếtdựng
kiệm chính
và có sách
hiệu và
quả.
II.6.2. Đăng ký đất là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai
Dưới chế độ XHCN đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản
lý nhằm đảm bảo việc sử dụng đất một cách đầy đủ, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả
Giao cá
đấtnhân.
cho
Qui
hoạch,
cao Điều
nhất. tra
Nhàđonước chỉ giao
quyền
sử kế
dụng đất choPhân
các tổhạng
chức, hộ gia đình,
định giá
đất thực hiện nghĩa
thuê đất
hoạchquyền
SDĐ lợi và có trách
Người sử
nhiệm
vụ sử
đạcdụng đất được hưởng
dụng đất theo các quy định của pháp luật.
II.6.3. Đăng ký đất là điều kiện đảm bảo để Nhà nước nắm chắc và quản lý chặt
chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ
XácĐối
địnhtượng
vị trí, QLĐĐ
hình là toàn
Xác
giá phạm Xác
địnhthổ
quyền
bộđịnh
diện tích các Xác
loại định
đất trong
vi lãnh
của
và tên
đích
sử lý chặt chẽ
trị( đối
hạngvới
vàđất đai thì hợp
cácthể,
cấpdiện
hànhtích
chính.
Nhà nướcmục
muốn
quản
trướcpháp
hết của
phải
chủcác
sử thông
dụng tin về tình hình
dụng
giá của
đất) QLĐĐ.
người sử dụng
nắm chắc
đất đai theo yêu cầu
Sơ đồ 2.1: Vị trí của đăng ký đất đai trong hoạt động QLNN về đất
Đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ
Thanh tra việc quản
lý sử dụng đất
Trang
14 tranh
Giải
quyết
chấp
Thống kê kiểm kê
đất đai
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
đai.
CHUẨN BỊ
Thành
lập
HĐĐK
HOÀN
THÀNH
ĐIỀU TRA
ĐO ĐẠC
Thu
thập,
đánh
giá tài
liệu
Xây
dựng
kế
hoạch
Chuẩn
bị vật
tư kinh
phí
Khai thác
tài liệu
hiện có
Chỉnh lý
bổ sung
Tổ chức
lực
lượng
tập
huấn
Tổ chức
đo đạc
thời gian
Soát xét tên
chủ, loại đất
Tuyên
truyền
Chủ sử
dụng tự
đo
Sao in
bản đồ
Lập hồ sơ đăng ký của chủ sử dụng
TỔ CHỨC KÊ
KHAI ĐĂNG KÝ
Xét đơn đăng ký tại xã và thành lập hồ sơ trình
cấp có thẩm quyền duyệt
XÉT
DUYỆT
ĐƠN
ĐĂNG
KÝ
Sơ đồ 2.2 : Quy trình đăng ký đất đai ban đầu
Kiểm tra thẩm định của cơ quan địa chính
UBND tỉnh, huyện phê duyệt việc cấp GCN và
xử lý vi phạm
THỰC HIỆN
QUYẾT ĐỊNH
CỦA UBND
CẤP THẨM
QUYỀN
Lập hồ sơ địa
chính và phân
cấp quản lý
Trang
Giao GCN thu
lệ phí địa chính.
15Thu nộp giấy tờ
nguồn gốc đất
Thực hiện xử lý
các vi phạm
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Trang 16
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
PHẦN III:
NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ QUY TRÌNH THỰC HIỆN
III.1. Đánh giá tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Bắc
Bình có tác động đến tình hình cấp GCNQSDĐ nông nghiệp
III.1.1. Địa lý hành chính huyện Bắc Bình (sau năm 1975 đến nay)
Sau ngày 30/4/1975 hòa bình lập lại, đến tháng 4/1976, Chính phủ Nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa lập huyện Bắc Bình gồm các huyện: Hòa Đa, Phan Lý
Chàm, Tuy Phong, Hải Ninh nhập lại thuộc tỉnh Thuận Hải quản lý.
Tháng 6/1983, Quốc hội Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam chia huyện Bắc
Bình thành hai huyện: Bắc Bình và Tuy Phong. Huyện Tuy Phong nhận thêm các xã
Chí Công, Hòa Minh và thị trấn Phan Rí Cửa (thuộc Hòa Đa cũ). Huyện Bắc Bình
gồm huyện Phan Lý Chàm, Hải Ninh và các xã còn lại thuộc Hòa Đa cũ và nhận thêm
xã Hồng Phong (thuộc huyện Hàm Thuận Bắc).
Tháng 6/1986, Quốc hội Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam lập xã Bình An,
tháng 7/1994 Quốc hội lập thêm xã Phan Tiến và công nhận xã Chợ Lầu thành thị trấn.
Tháng 01/1991 huyện Bắc Bình dời trụ sở làm việc từ xã Hải Ninh về thị trấn Chợ
Lầu. Thị trấn Chợ Lầu trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh
quốc phòng của huyện.
Năm 1995, huyện được Quốc hội công nhận là huyện miền núi thuộc tỉnh Bình
Thuận. Huyện có 16 xã và 1 thị trấn trong đó 14 xã có người dân tộc thiểu số cư trú và
sinh sống. Tổng diện tích theo ranh giới hành chính được Chính phủ phê duyệt theo
chỉ thị 364/CT năm 1995 là 182.533,20 ha.
Bảng 4.1: Diện tích huyện Bắc Bình phân theo đơn vị hành chính
STT
Xã, Thị trấn
Diện tích (ha)
Tỷ lệ %
1
Thị trấn Chợ Lầu
3.255,50
1,78
2
Xã Phan Rí Thành
2.288,00
1,25
3
Xã Lương Sơn
14.005,50
7,67
4
Xã Hồng Thái
7.071,20
3,87
5
Xã Hải Ninh
4.615,00
2,53
6
Xã Phan Hòa
7.405,00
4,06
7
Xã Phan Hiệp
1.997,00
1,09
8
Xã Phan Thanh
2.898,00
1,59
9
Xã Bình An
12.640,50
6,92
10
Xã Bình Tân
7.221,00
3,95
11
Xã Sông Lũy
14.801,00
8,10
Trang 17
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
12
Xã Hòa Thắng
19.420,50
10,64
13
Xã Hồng Phong
89.79,00
4,92
14
Xã Phan Điền
11.255,00
6,17
15
Xã Phan Lâm
39.270,00
21,51
16
Xã Phan Sơn
17.850,00
9,78
17
Xã Phan Tiến
7.561,00
4,14
182.533,20
100,00
Toàn huyện
(Nguồn: Phòng thống kê)
III.1.2. Tổng quan về điều kiện tự nhiên
III.1.2.1. Vị trí địa lý
Bắc Bình là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bình Thuận.
Huyện lỵ đặt ở Thị trấn Chợ Lầu cách Thành phố Phan Thiết 68 km về phía Đông
Bắc. Huyện có Quốc Lộ 1A đi qua với chiều dài 37 km và đường sắt Bắc Nam đi qua
với chiều dài 40 km,có bờ biển dài 38 km.
* Tọa độ địa lý
+ Từ 108o 06 / 30” đến 408o 37/ 34” kinh độ Đông.
+ Từ 10o 58/ 27” đến 11o 31/ 38” vĩ độ Bắc.
* Ranh giới hành chính
+ Phía Bắc: giáp tỉnh Lâm Đồng
+ Phía Tây, Tây Bắc: giáp tỉnh Lâm Đồng
+ Phía Tây và Tây Nam: giáp huyện Hàm Thuận Bắc
+ Phía Đông và Đông Bắc: giáp huyện Tuy Phong
+ Phía Đông và Đông nam: giáp Biển Đông
+ Phía Nam và Tây Nam: giáp Biển Đông và Thành phố Phan Thiết
Bắc Bình nằm cách xa trung tâm kinh tế lớn như Thành phố Hồ Chí Minh (270
km), Nha Trang (200 km)… và nằm ngoài vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ và
Nam Trung Bộ nên việc giao lưu văn hóa, kinh tế bị hạn chế và chưa tạo được sự hấp
dẫn đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Việc tiếp nhận và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất và
đời sống cũng chưa kịp thời. Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỷ 21 khi dự án khôi
phục Quốc Lộ 1A hoàn thành, đường sắt xuyên Việt được nâng cấp thì việc giao lưu
của Bắc Bình với các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước được thuận lợi hơn, giúp
cho kinh tế Bắc Bình sớm hội nhập với kinh tế khu vực và cả nước.
III.1.2.2. Địa hình
Trang 18
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Địa hình Bắc Bình khá phức tạp với vùng đồng bằng nhỏ hẹp nằm ở giữa các dãy
núi phía Bắc, Tây Bắc và các cồn cát, đồi cát ở phía Nam tạo thành lòng chảo. Địa hình
nghiêng dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam, thấp dần về vùng đồng bằng ven Sông Lũy,
Sông Mao. Có thể chia địa hình Bắc Bình thành 3 dạng chính như sau:
+ Dạng núi và núi cao: có độ cao từ 600 - 1000 m, diện tích khoảng 88.790 ha,
chiếm 48,64% tổng diện tích tự nhiên.
+ Dạng trung du và đồng bằng: độ cao 30 - 120 m, diện tích khoảng 58.768 ha,
chiếm 32,20% diện tích tự nhiên.
+ Dạng cồn cát ven biển: diện tích khoảng 34.975 ha chiếm 19,16% diện tích tự
nhiên.
Địa hình của huyện bị chia cắt phức tạp, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống
nhất là trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông, thủy lợi, mạng
lưới điện, thông tin liên lạc giữa các vùng trong huyện và bên ngoài. Nhưng địa hình
phức tạp, đa dạng cũng là yếu tố tạo nên sự đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp và
hình thành các hồ chứa nước để làm thủy lợi, thủy điện.
III.1.2.3. Khí hậu
Huyện Bắc Bình mang đặc điểm chung của khí hậu vùng Đông Nam Bộ là khí
hậu nhiệt đới gió mùa có nền nhiệt độ cao điều hòa trong năm. Mỗi năm chia làm hai
mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Thời tiết ít có những biến động, không có mùa đông lạnh. Tuy nhiên, do vị trí của
huyện nằm ở sườn Đông và Đông Nam dãy Trường Sơn, không thuận lợi đón gió mùa
Đông Bắc và Tây Nam để gây mưa nên Bắc Bình là một trong những huyện có lượng
mưa thấp nhất tỉnh Bình Thuận và Việt Nam.
+ Lượng mưa bình quân hàng năm: 744 mm/năm, số ngày mưa 77 ngày/năm.
+ Lượng bốc hơi 1350 - 1400 mm/năm (gấp đôi lượng mưa).
+ Ánh sáng: số giờ nắng 2800 - 2900 giờ/năm.
+ Nhiệt độ không khí trung bình 26,9o C.
+ Độ ẩm không khí 70 - 80%.
+ Gió: hướng gió thịnh hành vào mùa mưa là gió thổi từ Đông Nam về Tây
Bắc, vào mùa khô gió thổi từ Đông Bắc về Tây Nam. Gió khô nóng xuất hiện vào các
tháng 3 và 4; 7 và 8 khoảng 45 đến 48 ngày.
Khí hậu của huyện Bắc Bình có những đặc điểm khác biệt so với đặc trưng
chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa đó là khô, nóng, nắng nhiều, mưa ít, ít có sương
muối, sương mù và bão xuất hiện với tầng suất thấp. Cần nghiên cứu bố trí cây trồng,
vật nuôi sao cho phù hợp với đặc điểm khí hậu trong vùng.
III.1.2.4. Tài nguyên biển hồ
Bắc Bình có 38 km bờ biển và ngư trường rộng, trữ lượng cá lớn thuận lợi đánh
bắt khai thác gần với phương tiện vừa và nhỏ.
Đập, hồ, bàu lớn của huyện hiện trạng có 3 cái: hồ Cà Giây có diện tích 624,50
ha, Bàu Trắng 2 bàu (Bàu trên, Bàu dưới) có diện tích 90 ha.
Trang 19
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
III.1.2.5. Tài nguyên đất
Huyện có 5 nhóm đất chính, trong đó: đất xám có diện tích cao nhất chiếm
50,74%, đất xói mòn trơ sỏi đá chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,26%.
Bảng 4.2: Cơ cấu các nhóm đất
STT
Nhóm
Diện tích (ha)
Tỷ lệ %
1
Đất xám
92.610,81
50,74
2
Đất cát
45.429,20
24,92
3
Đất đỏ vàng
25.957,75
14,22
4
Đất phù sản xuất
16.654,44
0,91,
5
Đất xói mòn trơ sỏi đá
496,00
0,26
6
Sông suối, ao hồ, núi đá
1.349,00
0,74
Tổng cộng
182.533,20
100,00
(Nguồn: Phòng thống kê)
III.1.2.6. Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng của huyện là 103.898,84 ha, chiếm
56,92% diện tích tự nhiên. Trong đó rừng tự nhiên chiếm diện tích 99.366,54 ha, rừng
trồng chiếm 4.532,30 ha. So sánh với các huyện trong tỉnh rừng Bắc Bình có trữ lượng
gỗ đứng thứ hai sau huyện Tánh Linh (chiếm 31,1%). Độ che phủ rừng khoảng 45%,
trong rừng không có động vật quý hiếm.
III.1.2.7. Tài nguyên khoáng sản
Bắc Bình có những khoáng sản sau: Mỏ sản xuất khoáng Imenit, quặng Zicon,
mỏ cát dùng làm thủy tinh, mỏ sét làm gạch ngói, đá Granit, cát xây dựng.
Với kết quả điều tra hiện nay thì nhìn chung khoáng sản của huyện không
nhiều, trữ lượng nhỏ, phân tán và ít có giá trị khai thác công nghiệp. Về lâu dài cần
điều tra thăm dò đánh giá kỹ và chính xác hơn trữ lượng và khả năng đưa vào khai
thác nguồn tài nguyên của huyện.
III.1.2.8. Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt hệ thống sông suối của huyện có 4 con sông chính là: Sông
Lũy, Sông Mao, Sông Cà Giây, Sông Cà Tót. Cung cấp nước chủ yếu cho sinh hoạt và
sản xuất của huyện là hệ thống Sông Lũy. Đặc điểm của các sông là ngắn dốc nên
thoát nước nhanh gây nên lũ lụt cục bộ và khô hạn vào mùa khô gây không ít khó khăn
cho sản xuất và đời sống. Ngoài ra, do ảnh hưởng của thủy triều nên vùng hạ lưu Sông
Lũy nước mặn lấn sâu vào đất liền gây ảnh hưởng đến sản xuất.
Nguồn nước ngầm của huyện rất khan hiếm, phân bố không đồng đều và nhiễm
mặn nên ít phục vụ được đời sống và sản xuất. Lưu lượng nước khai thác bình quân 1 10 m3/s đạt hiệu quả thấp trong sản xuất và sinh hoạt.
III.1.3. Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội
III.1.3.1. Tình hình phát triển kinh tế
Trang 20
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
III.1.3.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2005 – 2010 nền kinh tế huyện Bắc Bình liên tục đạt nhịp độ
tăng trưởng, tổng sản phẩm nội huyện (GDP) tăng bình quân 9,78%, GDP bình quân
đầu người 137 USD (tăng bình quân 1,91%)
III.1.3.1.2. Cơ cấu kinh tế
Đến năm 2010 cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo chiều hướng giảm dần tỷ
trọng ngành Nông - Lâm - Thủy Sản và tăng dần ngành CN - TTCN - XD ( công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng) và Dịch vụ với tỷ trọng tương ứng là
76,92% - 9,16% - 11,22%.
Bảng 4.3: Cơ cấu kinh tế theo GDP qua các năm
Đơn vị tính: %
Ngành
2005
2007
2009
2010
Nông – Lâm – Thủy Sản
86,21
80,92
79,97
76,92
CN – TTCN – XD
6,27
8,34
9,01
9,16
Thương mại – Dịch vụ
7,52
10,74
11,02
11,22
(Nguồn: Phòng thống kê)
+ Ngành nông nghiệp
Diện tích cây lâu năm phát triển tương đối 3.103 ha, sản xuất lương thực phát
triển ổn định đáp ứng nhu cầu trong huyện. Tổng sản lượng lương thực 62.454 tấn.
Diện tích canh tác và gieo trồng đều tăng, nhất là từ khi Nhà nước đầu tư hồ chứa nước
Cà Giây.
Chăn nuôi phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng làm cho giá trị sản xuất chăn
nuôi tăng bình quân 13,48%.
+ Ngành lâm nghiệp
Thông qua các chương trình 327,773, PAM và chương trình 5 triệu ha rừng đã
trồng mới được 3.658 ha rừng tập trung và 275.800 cây phân phân tán. Chủ trương giao
đất, giao rừng đa giao được trên 101.995 ha cho địa phương và nhân dân bảo vệ.
+ Ngành thủy sản
Nuôi trồng thủy sản từng bước được chú ý, năm 2010 có 14 ha tôm nước lợ với
sản lượng 42 tấn/năm.
+ Ngành công nghiệp
Sản xuất CN - TTCN được khuyến khích đầu tư mở rộng, năng lực sản xuất
tăng thêm trên các lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản, vật liệu xây dựng, sửa chữa
cơ khí, hàn tiện… và một số ngành nghề truyền thống.
Tính đến cuối năm 2008 toàn huyện có 488 cơ sở sản xuất CN – TTCN, trong
đó ngành chế biến chiếm 80%.
+ Ngành thương mại – dịch vụ
Trang 21
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Ngành thương mại - dịch vụ tăng trưởng khá, tốc độ tăng bình quân 11,09%.
Thị trường xã hội được mở rộng hàng hóa đa dạng và thông suốt, hình thành nhiều tụ
điểm thương mại dịch vụ ở các vùng tập trung dân cư, đáp ứng cơ bản yêu cầu sản
xuất và tiêu dùng xã hội.
III.1.3.1.3. Kết cấu hạ tầng
+ Giao thông
Giao thông được nâng cấp và mở rộng đến 17/17 xã, thị trấn, các vùng dân cư
tập trung. Bằng các nguồn vốn đã nâng cấp và làm mới hơn 100km đường giao thông
nông thôn và 2,7 km đường trung tâm huyện.
+ Điện
Đến cuối năm 2010 lưới điện quốc gia đã phủ đến 17/17 xã, thị trấn với 90% số
hộ sử dụng điện.
+ Thủy Lợi
Hệ thống thủy lợi nhỏ được duy tu và nâng cấp hàng năm. Đặc biệt công trình
hồ chứa nước Cà Giây được Trung Ương đầu tư 100 tỷ đồng, đã góp phần làm tăng
diện tích canh tác chủ động nước là 4000 ha.
Các công trình nước sinh hoạt được mở rộng đến nhiều địa phương và cụm dân
cư, các vùng dân cư ở một số xã khó khăn về nước sinh hoạt, đưa số hộ dân cư sử
dụng nước sinh hoạt lên hơn 64%.
+ Thông tin liên lạc
Đến cuối năm 2010 có 14/17 xã, thị trấn trang bị máy điện thoại, tỷ lệ sử dụng
điện thoại 2,03 máy/100 dân.
+ QLNN trong lĩnh vực tài chánh ngân sách
Trong giai đoạn 2005 - 2010, tốc độ thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân
2,51%. Trong khi đó tốc độ tăng chi bình quân 20,90%/năm, chủ yếu chi cho sự
nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa tăng bình quân 21,80%. Sự nghiệp kinh tế tăng bình
quân 18,50% và chi ngân sách xã tăng bình quân 24,80%. Đặc biệt trong chi đầu tư
xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng 13,43% (1,6 tỷ đồng).
III.1.3.2. Tình hình văn hóa xã hội
III.1.3.2.1. Dân số
Bảng 4.4: Diện tích, dân số, mật độ dân cư tính đến tháng 11/2009
STT
Xã, Thị trấn
Diện tích
( km2)
Dân số (Người)
Mật độ
(Người / km2)
1
Thị trấn Chợ Lầu
32,55
13.037
400
2
Xã Phan Rí Thành
22,88
12.485
545
3
Xã Lương Sơn
140,05
13.689
98
4
Xã Hồng Thái
70,72
11.952
169
5
Xã Hải Ninh
46,15
9.812
213
Trang 22
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
6
Xã Phan Hòa
74,05
7.715
208
7
Xã Phan Hiệp
19,97
4.653
233
8
Xã Phan Thanh
28,98
6.477
223
9
Xã Bình An
126,40
3.561
28
10
Xã Bình Tân
72,21
6.913
96
11
Xã Sông Lũy
148,01
10.831
73
12
Xã Hòa Thắng
194,20
6.660
34
13
Xã Hồng Phong
89,79
1.155
13
14
Xã Phan Điền
112,55
1.049
9
15
Xã Phan Lâm
392,70
798
2
16
Xã Phan Sơn
178,50
2.531
14
17
Xã Phan Tiến
75,61
1.025
14
1.825,33
114.343
63
Toàn huyện
(Nguồn: Phòng thống kê )
Dân số đến tháng 11/2009 toàn huyện có 114.343 người (23.184 hộ), chiếm gần
11% dân số toàn tỉnh. Dân cư được phân bố sống ở vùng nông thôn 101.022 người,
chiếm 88,35%; sống ở vùng thành thị 13.321 người, chiếm 11,65%.
Dân số khu vực nông nghiệp : 101.079 người chiếm 88,40% và dân số khu vực
phi nông nghiệp 13.264 chiếm 11,60%. Mật độ dân cư bình quân 63 người/ km 2. Mật
độ dân số phân bổ chênh lệch quá lớn giữa các vùng và không đều: xã Phan Rí Thành
có mật độ dân số cao nhất 545 người/ km 2, xã Phan Lâm có mật độ dân số thấp nhất, 2
người/ km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2009 là 1,91%.
III.1.3.2.2. Dân tộc
Gồm các cộng đồng dân tộc sau:
+ Dân tộc Kinh: 75.466 người, chiếm 66% dân số toàn huyện.
+ Dân tộc Chăm: 17.608 người, chiếm 15,44% dân số toàn huyện.
+ Dân tộc Nùng Hoa: 14.019 người, chiếm 12,34% dân số toàn huyện.
+ Dân tộc K/ Ho, Rắc lây:3.876 người, chiếm 3,39% dân số toàn huyện.
+ Dân tộc khác: 3.374 người, chiếm 2,83% dân số toàn huyện.
III.1.3.2.3. Văn hóa thông tin và thể thao
Hoạt động văn hóa thông tin và thể thao được chú ý, đáp ứng một phần nhu cầu
thông tin và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân. Hệ thống phát thanh truyền
hình được đầu tư nâng cấp hàng năm. Đến cuối năm 2008 gần 90% diện tích tự nhiên
của huyện được phủ sóng truyền hình, 95% - 95% địa bàn dân cư được phủ sóng
truyền thanh.
III.1.3.2.4. Giáo dục - Sức khỏe
Trang 23
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
Sự nghiệp giáo dục từng bước được xã hội hóa, quy mô phát triển các ngành
học, bậc học không ngừng mở rộng. Qua số liệu điều tra ngày 01/4/1999 tỷ lệ người
biết đọc, biết viết chiếm 85,70% (từ 10 tuổi trở lên). Công tác phổ cập giáo dục và xóa
mù chữ đã được công nhận 17/17 xã, thị trấn. Nhưng qua điều tra cho thấy số người
mù chữ hiện còn 11.342 người (chiếm 14,29% trong độ tuổi) và nguy cơ tái mù chữ
cần phải được chú ý.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân luôn được tăng cường về chất lượng ở cả 2
tuyến điều trị và y tế dự phòng. Các chương trình y tế quốc gia, chương trình nước
sạch nông thôn, chương trình phòng chống các bệnh xã hội được triển khai tích cực.
Hàng năm tiêm chủng mở rộng đạt trên 95%. Đến năm 2008 toàn huyện có 0,3 bác
sỹ/1000 dân.
III.2. Nội dung
- Đánh giá điều kiệu tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến công tác cấp
GCNQSDĐ.
+ Điều tra phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên (vị trí, khí hậu, địa hình, tài nguyên đất, tài nguyên
nước…).
+ Điều tra thu thập thông tin, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội (thực trạng
phát triển các ngành kinh tế, thực trạng phát triển các lĩnh vực xã hội…).
+ Điều tra thu thập thông tin về công tác quản lý Nhà nước về đất đai có liên
quan đến công tác cấp giấy như: công tác quản lý đất đai theo ranh giới hành chính, đo
đạc bản đồ địa chính, giao đất, cho thuê đất…
+ Điều tra xem xét cơ cấu, hiện trạng sử dụng đất ảnh hưởng tới công tác
cấp giấy.
- Thu thập, phân tích đánh giá các số liệu về công tác cấp GCNQSDĐ nông
nghiệp và đất ở nông thôn qua các thời kỳ thực hiện Thông tư 346/1998/TT-TCĐC,
Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC, Nghị định181/2004/NĐ-CP, trên địa bàn huyện.
+ Số giấy cấp.
+ Số hộ được cấp.
+ Diện tích được cấp.
- Phân tích khó khăn, vướng mắc và hướng khắc phục trong quá trình cấp
giấy.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường công tác cấp giấy, những kiến nghị nhằm
hoàn thiện công tác cấp GCNQSDĐ
III.3. Phương pháp
III.3.1. Phương pháp thống kê
Dùng để thống kê các số liệu về diện tích, số hộ sử dụng đất ,dân số, số hộ, diện
tích đăng ký - cấp GCNQSDĐ, các số liệu về điều kiện kinh tế - xã hội thông qua các
bản biểu nhằm đánh giá tình hình thực hiện.
Trang 24
SVTH:Phạm Thị Anh Phương
Ngành Quản lý đất đai
III.3.2. Phương pháp phân tích
Hệ thống các số liệu theo từng giai đoạn, theo từng đối tượng nghiên cứu nhằm
đánh giá tình hình, rút ra những tồn tại và hạn chế.
III.3.3. Phương pháp so sánh
So sánh số lượng cấp giấy qua các giai đoạn khác nhau hoặc so sánh các đơn vị
hành chính xã, thị trấn trong huyện trên cơ sở đó rút ra những nhận định chung.
III.3.4. Phương pháp điều tra
Điều tra thu thập các biểu mẫu, số liệu có liên quan về QLĐĐ đặc biệt là công
tác đăng ký cấp giấy. Ngoài ra, thu thập các văn bản như: công văn, nghị định, quyết
định, báo cáo, chỉ thị của Chính phủ, Tỉnh, Huyện và các ban ngành có liên quan.
III.3.5. Phương pháp đánh giá
Tổng hợp các kết quả phân tích rút ra những nhận xét, đánh giá, những thuận lợi
và khó khăn về tình đăng ký cấp giấy trong thời gian qua.
III.4. Quy trình thực hiện
III.4.1 Điều kiện cấp GCNQSDĐ lần đầu cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng
đất được quy định tại Điều 50 Luật đất đai 2003 và Điều 48 NĐ181/2004
1. Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất có một trong 6 loại giấy tờ về QSDĐ
và được UBND cấp xã xác nhận sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, phù hợp
với quy hoạch (QH), kế hoạch (KH) sử dụng đất chi tiết hoạch QH, KH sử dụng đất
đối với nơi chưa có QH, KH SDĐ chi tiết thì được cấp GCNQSDĐ
- Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấptrước ngày 15/10/1993;
- Giấy chứng nhận tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc
có tên trong sổ đăng ký ruộng đất lập từ năm 1982 đến 1995;
- Giấy tờ hợp pháp về quyền thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản
gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở
trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã xác nhận thời điểm sử dụng đất;
- Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của
pháp luật;
- Giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người sử dụng đất;
2.Có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng ghi tên người
khác thì được cấp GCNQSDĐ và không phải nộp tiền sử dụng đất nếu có điều kiện:
- Có giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;
- Được UBND cấp xã xác nhận không có tranh chấp trong quá trình đăng ký;
3.Người sử dụng đất tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn ở miền núi,
hải đảo thì phải được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận trong quá trình đăng ký thì
Trang 25