-1-
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
HIỆN TƯNG HỌC
CỦA EDMUND HUSSERL
VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA NÓ Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
-2-
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
HIỆN TƯNG HỌC
CỦA EDMUND HUSSERL
VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA NÓ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số :
62.22.80.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS. NGUYỄN TRỌNG CHUẨN
2. PGS. TS. ĐINH NGỌC THẠCH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
-3-
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận án này là kết quả nghiên cứu của tôi, dưới
sự hướng dẫn khoa học của GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS. TS.
Đinh Ngọc Thạch; các tài liệu sử dụng trong luận án đều trung thực và có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Nguyễn Trọng Nghóa
-4-
Để hoàn thành luận án Hiện tượng học của Edmund Husserl và sự
hiện diện của nó ở Việt Nam, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của
nhiều nhà khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trònh Doãn
Chính, PGS. TS. Vũ Văn Gầu, PGS. TS. Trương Văn Chung, PGS. TS.
Lương Minh Cừ, TS. Phạm Đình Nghiệm, TS. Bùi Văn Mưa, TS. Nguyễn
Ngọc Khá đã cho nhiều ý kiến quý báu khi tôi thực hiện luận án.
Tôi đặc biệt cảm ơn GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS. TS. Đinh
Ngọc Thạch – những người thầy hướng dẫn luận án và dìu dắt tôi trên con
đường khoa học. Tôi cũng đặc biệt cảm ơn PGS. Bùi Đăng Duy – người
thầy đã cho đònh hướng ban đầu và hướng dẫn khoa học luận văn thạc só
của tôi, đồng thời, chia sẻ về học thuật trong quá trình tôi theo đuổi công
trình này.
-5-
-6-
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu ………………………………………………………………………………………………………………………………………
1
1. Lí do nghiên cứu đề tài………………………………………………………………………………………….
1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài…..………………………………………………..
4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án …….………………..
9
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án ……………………………………………………………. 11
5. Đóng góp mới của luận án ……………………………………….………………………………………
12
6. Kết cấu của luận án …………………………………………………………………………………………….
12
Chương 1 : Sự ra đời và phát triển của hiện tượng học
của Edmund Husserl .......................................................................
13
1.1. Những điều kiện lòch sử của sự ra đời hiện tượng học
của Edmund Husserl …………………….……………………………………………………………...…. 13
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội …………………………………………………………………………...
13
1.1.2. Điều kiện tư tưởng - lí luận…………………………………………………………………………. 18
1.1.3. Cuộc khủng hoảng khoa học cổ điển………………………………………………………. 24
1.2. Thân thế và sự nghiệp của Edmund Husserl…………………………………………….
26
1.3. Khái niệm hiện tượng học, quá trình hình thành và phát triển
hiện tượng học của Edmund Husserl …………….. …..………………………………………
30
1.3.1. Khái niệm hiện tượng học…………………………………………………………………………….. 30
1.3.2. Đặc trưng cơ bản của hiện tượng học của Edmund Husserl ……………
34
1.3.3. Quá trình hình thành và phát triển hiện tượng học
của Edmund Husserl..........................................................................
35
1.3.4. Từ phê bình chủ nghóa tâm lí, chủ nghóa tự nhiên, chủ nghóa
duy lòch sử đến hiện tượng học ………………………………………………….………………..
40
-7-
Chương 2 : Những nguyên lí cơ bản và phương pháp hiện tượng học
của Edmund Husserl …………………………………………………………………………………………
47
2.1. Những nguyên lí cơ bản của hiện tượng học của Edmund Husserl … 47
2.1.1. Tính ý hướng………………………………………………………………………………………………………
47
2.1.2. Liên hệ tương hỗ giữa sở tri và năng tri ……………………………………………….. 60
2.1.3. “Trở lại chính vật”……….………………………………………………………………………………... 68
2.2. Phương pháp hiện tượng học của Edmund Husserl …………………………….… 72
2.2.1. Sự cần thiết có phương pháp hiện tượng học theo quan niệm
của Edmund Husserl……………………………………..………………………………………………. 72
2.2.2. Nội dung phương pháp hiện tượng học của Edmund Husserl…………
74
2.3. Những phạm trù khác biểu hiện lập trường của hiện tượng học
của Edmund Husserl………………………………………………………………………………………….
89
2.3.1. Thế giới đời sống……….…………………………………………………………………………….......
89
2.3.2. Tính liên chủ thể - một “cộng đồng nhân vò”……….…………………………….
99
2.3.3. Xã hội học về văn hoá…………………………………………………………………………………
103
Chương 3 : Sự hiện diện của hiện tượng học của Edmund Husserl
ở Việt Nam………………………………………………………………………………………………………….… 107
3.1. Trần Đức Thảo - người Việt Nam đầu tiên đến với hiện tượng học
của Edmund Husserl…………………………………………………………………………………………. 107
3.1.1. Thân thế và sự nghiệp của Trần Đức Thảo………………………………………….. 107
3.1.2. Trần Đức Thảo với hiện tượng học của Edmund Husserl
và chủ nghóa duy vật biện chứng………………………………………………………………….. 109
3.2. Hiện tượng học của Edmund Husserl ở miền Nam Việt Nam trước
năm 1975 ………………………………………………………………………………………………………………
116
3.2.1. Trong lónh vực triết học……………………………………………………………………………….
116
3.2.2. Trong sự phê phán xã hội học cũ…………..…………….…………………………….…. 128
3.2.3. Trong sự phê phán sử học cũ…………………………………………………………………..
131
3.2.4. Trong sự phê phán tâm lí học …………………………………………………………………. 135
3.2.5. Trong lónh vực văn học, nghệ thuật ………………………………………………………. 140
3.3. Hiện tượng học của Edmund Husserl ở nước ta hiện nay …………………
156
-8-
3.3.1. Hiện tượng học của Edmund Husserl ở nước ta từ sau
1975 đến 1991………………………………………………………………………………………………………. 156
3.3.2. Hiện tượng học của Edmund Husserl ở nước ta từ 1992 đến nay… 158
Kết luận …………………………………………………………………………………………………………………………………
169
Danh mục công trình tác giả đã công bố ………………………………………………………………
174
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………………………………………………………
175
Phụ lục ……………………………………………………………………………………………………………………………………. 193
- Phụ lục 1: Chỉ dẫn các tên riêng (có trong luận án)………………………………. 194
- Phụ lục 2: Chỉ dẫn một số khái niệm, chủ đề (có trong luận án) ……. 203
- Phụ lục 3: Họa đồ về “Một số đại biểu hiện tượng học cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX”………………………………………………………………………………………..
211
- Phụ lục 4: Hoạ đồ về “Các giai đoạn hình thành và phát triển
của hiện tượng học của Edmund Husserl”…..………………………….…………………
212
-1-
MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu đề tài
Hiện tượng học là một trong những trào lưu quan trọng của triết học
phương Tây hiện đại. Nó có ảnh hưởng lớn đến triết học từ cuối thế kỉ XIX
đến suốt cả thế kỉ XX. Không bao lâu sau khi ra đời, hiện tượng học đã chiếm
vò trí nổi bật, lúc đầu là nước Đức, rồi sau lan ra nhiều nơi trên thế giới. Là
một phong trào triết học mạnh ở nhiều đại lục và tồn tại hơn một trăm năm,
nó vượt quá phạm vi triết học và ảnh hưởng đến nhiều ngành khoa học xã hội
và nhân văn khác như tâm lí học, xã hội học, sử học, v.v..
Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu về hiện tượng học
của Edmund Husserl.
Hiện tượng học của Edmund Husserl là dòng triết học lớn thuộc trào
lưu triết học phi duy lí. Ngay khi vừa xuất hiện, nó đã mở ra kỉ nguyên phê
phán chủ nghóa duy lí từ sau thế kỉ XIX, góp phần tạo nên diện mạo đặc sắc
của triết học phương Tây thế kỉ XX.
Hiện tượng học của Husserl đặt cơ sở lí luận về phương pháp, có ảnh
hưởng đến hầu hết các trào lưu triết học phi duy lí khác trong suốt thế kỉ XX
ở châu Âu, mở rộng ra cả văn học, nghệ thuật, khoa học và tôn giáo nhiều
nơi trên thế giới, nhất là từ khi nó kết hợp với chú giải học hay còn gọi là
thông diễn học (hermeneutics). Nó có vai trò quyết đònh đối với sự hình thành
chủ nghóa hiện sinh phương Tây thế kỉ XX, mà nếu thiếu nó thì chủ nghóa
hiện sinh không thể có cơ sở lí luận và cơ sở phương pháp luận. Không chỉ
thế, trong tư trào triết học thời kì hiện đại, hiện tượng học của Husserl còn đặt
một điểm quy chiếu cho nhiều khuynh hướng triết học phương Tây khi kiến
-2-
giải về thế giới, về lí luận nhận thức và vấn đề con người trong kỉ nguyên của
chủ nghóa công nghiệp và hậu công nghiệp.
Nghiên cứu hiện tượng học của Edmund Husserl là cần thiết, bởi vì,
trong điều kiện giao lưu và hội nhập giữa các nước trong cộng đồng quốc tế
hiện nay, không một quốc gia nào không tìm cách vượt ra khỏi tư duy truyền
thống để có một cái nhìn tích cực hơn, đúng đắn hơn đối với các học thuyết
và văn hoá của các nước, mà không ít trong số đó chòu ảnh hưởng lớn lao bởi
hiện tượng học của Edmund Husserl. Trước xu thế đó, Việt Nam đã chủ động
hội nhập, mà việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới là một biểu hiện, để
dân tộc ta “bước ra biển lớn”. Muốn có được bước đi vững vàng, đầy trí tuệ,
chúng ta không thể không hiểu được xã hội phương Tây hiện đại, ở đó hiện
tượng học của Husserl đã đặt dấu ấn vào các trường phái triết học lớn, góp
phần tạo nên bản sắc tư tưởng của nó.
Nghiên cứu hiện tượng học của Edmund Husserl còn nhằm nghiên cứu
quá trình thâm nhập của học thuyết triết học này vào miền Nam Việt Nam
trước năm 1975 và những biểu hiện của nó trong đời sống văn hoá - xã hội ở
Sài Gòn, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ đến những năm đầu của thập
kỉ 70, thế kỉ XX, để thấy rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc
đấu tranh toàn diện, diễn ra trên tất cả các mặt, trong đó cuộc đấu tranh trên
lónh vực ý thức hệ cũng là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, cam go không
kém cuộc đấu tranh trên lónh vực chính trò, quân sự.
Hiện nay, việc tiếp tục khắc phục hậu quả do nó đem đến trước đây
cũng trở nên hết sức khó khăn và trong khi những di hại của nó vẫn còn chưa
khắc phục được, thì cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá
nước ngoài, cùng sự có mặt của hiện tượng học trên bình diện mới cũng
-3-
không kém phần phức tạp.
Việc nghiên cứu hiện tượng học của Edmund Husserl còn nhằm góp
phần hiểu đúng các khái niệm, nguyên lí của học thuyết và tư tưởng của triết
gia khai sinh ra nó, qua đó, góp phần hiểu rõ hơn các trường phái và học
thuyết triết học phương Tây hiện đại khác, nhất là nhìn thấy những tinh lực
quý giá của nó, cũng như những mâu thuẫn nội tại và nghòch lí, khiến cho nó
không khỏi bộc lộ những hạn chế nhất đònh.
Những năm gần đây, do nhu cầu nghiên cứu toàn diện hơn triết học, xã
hội học, tâm lí học… mà một số nhà khoa học nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu, biên khảo, dòch thuật về triết học phương Tây hiện đại, do vậy,
cũng đã chú ý tới hiện tượng học của Edmund Husserl. Song, những nghiên
cứu về học thuyết triết học này vẫn chưa nhiều và chưa thật hệ thống.
Ngoại trừ một số tài liệu tham khảo dành cho chuyên ngành lòch sử
triết học, trong chương trình và giáo trình Triết học Mác-Lênin hiện đang áp
dụng trong các trường đại học, cao đẳng dù đã xây dựng phần về triết học
phương Tây hiện đại (trước đây mang tựa đề là triết học ngoài mácxít), nhưng
hiện tượng học của Edmund Husserl - cái làm nên cơ sở và phương pháp luận
triết học cho chủ nghóa hiện sinh và phương hướng của hàng loạt các trào lưu
triết học phương Tây hiện đại - đã không được đề cập đến. Từ thực tiễn giảng
dạy, chúng ta thấy rằng, phải vượt qua lối mòn truyền thống để trả lại vò trí
xứng đáng cho triết học phương Tây hiện đại trong dòng chảy của văn minh
nhân loại nói chung và trong quá trình sáng tạo triết học của thời đại nói
riêng.
Đối với công tác đào tạo cán bộ, Bộ Chính trò Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII, tại Nghò quyết số 01/NQ, ngày
-4-
28/3/1992, về công tác lí luận trong giai đoạn hiện nay, đã chỉ ra rằng: Nội
dung đào tạo đội ngũ cán bộ lí luận hầu như chỉ bó hẹp trong các môn khoa
học Mác-Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp
nhận những thành tựu khoa học thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lí luận
thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó, khả năng
phát triển bò hạn chế.
Thế nên, không có cách nào khác hơn là làm cho việc nghiên cứu trở
thành phổ biến và đi vào chiều sâu tư tưởng triết học hiện đại, trong đó có
hiện tượng học của Edmund Husserl.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
Từ nửa cuối thế kỉ XX, ở phương Tây, đã xuất hiện nhiều nghiên cứu
về hiện tượng học của Edmund Husserl, xin kể ra mấy công trình tiêu biểu:
Sein und Zeit [197] (Hữu thể và thời gian) của Martin Heidegger; L’être et le
néant
[176]
(Hữu
thể
và
hư
vô),
L’imaginaire
-
Psychologie
Phénoménologique de l’ imagination [175] (Cái tưởng tượng - Tâm lí học hiện
tượng học về sự tưởng tượng) của Jean-Paul Sartre; Phénoménologie de la
perception [173] (Hiện tượng học về tri giác) của Maurice Merleau-Ponty…
Đây là những tác phẩm thời danh của dòng triết học về bản chất của ý
thức và con người của triết học phương Tây, tiếp cận các tư tưởng của Husserl
theo cách nhìn riêng biệt của mỗi tác giả, và có nhiều bổ sung quan trọng cho
các nghiên cứu về Husserl. Các công trình kể trên được xem như là những tác
phẩm kinh điển của triết học phương Tây hiện đại.
Bên cạnh những tác giả nổi tiếng đó, nghiên cứu về hiện tượng học của
Husserl, trước và sau những năm 50 của thế kỉ trước, còn một số tác giả khác
nữa như: Quentin Lauer với Phénoménologie de Husserl [163] (Hiện tượng
-5-
học của Husserl); Hubert Hohl với Introduction à la phénoménologie de
Edmund Husserl [154] (Giới thiệu về hiện tượng học của Edmund Husserl);
Jean-Francois Lyotard với La phénoménologie [167] (Hiện tượng học);
Herbert Spiegelberg với Phenomenology in psychology and psychiatry [195]
(Hiện tượng học về tâm lí học và tâm thần học), v.v.. Ở các công trình này,
hiện tượng học của Husserl được giới thiệu khá cơ bản. Nhà triết học trẻ Việt
Nam Trần Đức Thảo, trong thời gian ở nước ngoài đã có những nghiên cứu
khá sớm về hiện tượng học của Husserl như: Marxisme et Phénoménologie
[178] (Chủ nghóa Mác và Hiện tượng học), De la phénoménologia à la
Dialectique Matérialiste de la conscience [181] (Từ hiện tượng học đến biện
chứng duy vật về ý thức), Phénoménologie et matérialisme dialectique [180]
(Hiện tượng học và chủ nghóa duy vật biện chứng), chưa kể luận văn thạc só
của ông nghiên cứu về hiện tượng học của Edmund Husserl đã bò thất lạc từ
rất lâu.
Trước thềm thế kỉ mới - XXI, không ít nhà khoa học khi nghiên cứu về
những luận thuyết nổi tiếng của thời đại cũng dành tâm sức tìm hiểu sâu về
Husserl, trong số đó, có một số tác phẩm được chuyển thể sang tiếng Việt và
lưu hành ở nước ta: Các triết thuyết lớn [32] (Les grandes philosophies) của
Dominique Folscheid; Truy tầm triết học [129] (The philosophical quest) của
Gail M. Tresday, Kasten J. Struhl, Richard E. Olsen; Hành trình cùng triết học
[41] (hay English – Vietnamese Dictionary of philosophy) của Ted
Honderich; Lòch sử triết học và các luận đề [96] (Philosophy – history and
problem) của Samuel Enoch Stumpf; Triết học phương Tây hiện đại - Giáo
trình hướng tới thế kỉ 21 [28] của Lưu Phóng Đồng; Edmund Husserl [39] của
Diêu Trò Hoa và nhiều quyển khác có giới thiệu khái quát về hiện tượng học.
-6-
Các công trình kể trên đã đem đến bạn đọc nước ta một lượng thông tin
đáng kể về các chủ đề cũng như các tác gia có tên tuổi của triết học hiện đại.
Nhiều nội dung của các học thuyết triết học, trong đó có hiện tượng học, được
phân tích và đánh giá, nhưng do ý tưởng sáng tác và quan điểm nghiên cứu
của các tác giả nói trên được thực hiện trên ý thức hệ và lập trường xa lạ với
chủ nghóa Marx-Lénine khiến cho việc nhận diện được thực chất tinh hoa và
giá trò của các học thuyết đó vốn đã khó lại càng khó hơn. Vì vậy, tự mình
nghiên cứu và phân tích trên cơ sở lập trường của nền văn hoá Việt Nam,
dưới ánh sáng của chủ nghóa duy vật biện chứng để tiếp cận được mặt tích
cực và nhìn ra mặt hạn chế của nó trở nên rất cần thiết.
Hiện tượng học của Edmund Husserl, trước năm 1975, được giới lí luận
miền Nam nước ta mổ xẻ và khai thác phục vụ cho hoạt động học thuật, hoặc
dùng làm công cụ tư tưởng truyền bá ý thức hệ tư sản phương Tây, mà đối
tượng tiếp nhận nó quy tụ chủ yếu tầng lớp trí thức, công chức. Việc biên
soạn, dòch thuật về vấn đề này thu hút không ít trí thức khoa bảng, nhà nghiên
cứu tham gia, kể cả trong và ngoài nước như: Introduction à la
phénoménologie de Edmund Husserl [154] của Hubert Hohl; Những vấn đề
triết học hiện đại [70] của Lê Tôn Nghiêm; Triết học hiện sinh - Khảo luận
[20], Hiện tượng học là gì [21] của Trần Thái Đỉnh; Triết học tổng quát [135]
của Nguyễn Văn Trung; Triết học Tây phương hiện đại [5] (Europašische
philosophie der gegenwart) của I.M. Bochenski; Triết học và khoa học [79]
của Đặng Phùng Quân, cùng với sự vào cuộc của nhiều học giả khác trên các
Tạp chí Tư Tưởng, Đại Học, Đối Diện, Quê Hương… Ngay trong chương trình
Quốc văn 11, 12 và nhất là chương trình đại học Văn khoa, Luật học… hiện
tượng học của Husserl cũng được đưa vào giảng dạy. Năm 1974, Trung tâm
-7-
học liệu – Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên của Sài Gòn đã cấp giấy
phép cho Lê Thành Trò hoàn thành Hiện tượng luận về hiện sinh [130 ].
Những hoạt động này dành cho Husserl một sự trân trọng, không ít tư
tưởng của Husserl được đặt ra và giải quyết tương đối căn cơ. Tuy nhiên,
Husserl cùng với tư tưởng của ông, trong các công trình này chưa thực sự nổi
trội so với những đại biểu khác của chủ nghóa hiện sinh. Đáng tiếc nhất là
phần lớn công trình sa vào việc tán dương, thổi phồng quan điểm duy tâm,
nhiều chỗ sa vào chủ nghóa chống cộng, gắn bối cảnh chính trò - xã hội miền
Nam với những liên hệ nhuộm đầy màu sắc phản động chống lại một cách có
ý thức lí luận cách mạng và thực tiễn đấu tranh của nhân dân ta, làm biến
dạng một học thuyết triết học vốn được đánh giá cao ở phương Tây.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, giới triết học mácxít có
nhiều công trình về chủ nghóa hiện sinh, theo đó, hiện tượng học của Edmund
Husserl được nghiên cứu, đó là: Phê phán văn học hiện sinh chủ nghóa [44]
của Đỗ Đức Hiểu; Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ [9] của Phạm Như
Cương (chủ biên); Triết học tư sản phương Tây hôm nay [50] - Vũ Khiêu (chủ
biên); Mấy trào lưu triết học phương Tây [54] của Phạm Minh Lăng, v.v..
Điều dễ nhận thấy là, trong những công trình này, hiện tượng học được trình
bày khá sơ lược, về cơ bản vẫn là cách tiếp cận gọi là “phê phán triết học tư
sản”.
Tình hình có phần nào khác đi từ sau khi cuốn Triết học phương Tây
hiện đại [27] của Lưu Phóng Đồng, Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển
[136] được dòch và phát hành. Với tác phẩm Các con đường của triết học
phương Tây hiện đại [65] của J. K. Melvil, được Nhà xuất bản Giáo dục ấn
hành, hiện tượng học của Husserl cùng nhiều học thuyết triết học khác của
-8-
phương Tây có được những nhận đònh cởi mở và toàn diện hơn.
Gần đây, những nghiên cứu của Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng
về triết học phương Tây hiện đại nói chung, chủ nghóa hiện sinh nói riêng
[10], [11], [12], [13], [14], đã đem đến một cách nhìn mới hơn về hiện tượng
học của Hussel trong làn sóng cuồn cuộn của các học thuyết triết học phương
Tây thế kỉ trước. So với nhiều tác giả trước đây, người ta thấy, vấn đề được
nhìn nhận một cách khách quan và biện chứng hơn.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở
nước ta, mọi lónh vực nói chung, lónh vực văn hoá, giáo dục, khoa học và công
nghệ nói riêng được quan tâm đầu tư, tạo chuyển biến trong nghiên cứu và
triển khai thực hiện. Theo đó, lónh vực triết học cũng được quan tâm nhiều
hơn, tạo nên bầu không khí học thuật sôi nổi hơn. Diện mạo nền triết học
nước nhà trở nên phong phú hơn khi có sự góp mặt của nhiều nhà khoa học
đăng đàn với những nghiên cứu về triết học phương Tây hiện đại. Hiện tượng
học của Husserl nằm trong số nghiên cứu đó. Độc giả và nhất là giới nghiên
cứu được tiếp cận tác phẩm mới của Diêu Trò Hoa, tác phẩm “tân biên” của
Lưu Phóng Đồng… Trong khuôn khổ hoạt động trao đổi văn hoá Pháp, hàng
loạt tài liệu triết học của Nhà xuất bản Ellipses đến với nước ta và có mặt
trên lónh vực học thuật. Đáng trân trọng nhất là sự kiện Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội tổ chức phát hành bản dòch của Đinh Chân, cuốn
Phénoménologie et matérialisme dialectique của Trần Đức Thảo ra tiếng Việt,
với nhan đề là Hiện tượng học và chủ nghóa duy vật biện chứng [108], xuất
bản Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo [46] của Phạm Thành Hưng, Trần Ngọc
Hà (chủ biên), cùng với sự kiện cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lưu giữ bản
thảo cho nhà triết học Trần Đức Thảo… đã thổi lên luồng gió mới cho việc tìm
-9-
hiểu hiện tượng học của Edmund Husserl. Hoạt động đó cùng với một số
nghiên cứu của các tác giả trong nước kể trên đã đem đến một cách nhìn mới
hơn về học thuyết triết học này.
Hiện tượng học của Husserl tuy đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu và đạt được những thành tựu đáng quý, nhưng, so với yêu cầu của
khoa triết sử thì vấn đề này vẫn còn một khoảng cách khá xa. Do vậy, vấn đề
đặt ra là cần tiếp cận theo mức độ khái quát, phân tích hiện tượng học của
Husserl trong tiến trình chung của triết học phương Tây hiện đại, đồng thời,
cần phân tích sâu vấn đề này theo cấp độ tư tưởng của mỗi nguyên lí, phương
pháp cụ thể trên cơ sở bám sát lôgic hình thành và phát triển của chúng.
Tóm lại, cho đến nay, ở nước ta, hầu như chưa có một công trình nào
về hiện tượng học của Edmund Husserl tương đối có hệ thống và hoàn chỉnh
để đáp ứng những yêu cầu cấp thiết nói trên. Lựa chọn đề tài “Hiện tượng
học của Edmund Husserl và sự hiện diện của nó ở Việt Nam”, chúng tôi mong
muốn đem đến một chuyên luận vừa khái quát lại vừa cụ thể để góp phần
thực hiện yêu cầu đó và phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Từ cách tiếp cận khách quan và biện chứng, luận án làm rõ nội dung cơ
bản các chủ đề hiện tượng học của Edmund Husserl cùng với vai trò, vò trí
của học thuyết triết học này trong khuynh hướng phi duy lí cũng như bước
ngoặt mà nó tạo ra trong triết học phương Tây hiện đại; phân tích các đặc
trưng chung của toàn bộ học thuyết cũng như của mỗi nguyên lí, phương pháp
hiện tượng học cùng những giá trò tiềm ẩn trong sự phát triển của nó; làm rõ
sự hiện diện của hiện tượng học ở Việt Nam.
- 10 -
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích bối cảnh lòch sử và lí luận ảnh hưởng đến quá trình hình
thành và phát triển hiện tượng học của Edmund Husserl, nêu rõ tính độc lập
tương đối và lôgic nội tại trong tiến trình phát triển của hiện tượng học nhằm
thực hiện sự chuyển hướng từ phương thức tư duy triết học cận đại sang
phương thức tư duy triết học hiện đại;
- Phân tích và đánh giá hệ thống các nguyên lí chủ yếu và phương
pháp hiện tượng học của Edmund Husserl;
- Luận giải những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự hiện diện của
hiện tượng học của Edmund Husserl ở Việt Nam, nhất là ở miền Nam, trước
năm 1975, bước đầu đánh giá về sự hiện diện đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Hiện tượng học của Husserl là một học thuyết gồm phần triết học về
bản thể học và phương pháp hiện tượng học phản ánh một thời kì chuyển
biến lòch sử, khoa học và triết học với phạm vi thể hiện rất rộng, vì vậy, trong
khuôn khổ của luận án, nhiệm vụ nghiên cứu được giới hạn trong việc phân
tích bối cảnh ảnh hưởng đến hiện tượng học của Husserl trong giai đoạn cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Việc phân tích các nguyên lí và phương pháp hiện tượng học của
Husserl được thực hiện ở các vấn đề tính ý hướng, liên hệ giữa sở tri và năng
tri, trở về với chính vật; sự ngưng hãm (épochè), giản lược, thế giới đời sống,
tính liên chủ thể; khi luận giải sự có mặt của nó ở nước ta, chủ yếu giới hạn
trong phạm vi học thuật. Do vậy, luận án không đi sâu vào các phong trào
hiện tượng học khác như là những biến thể của nó, cũng như các học thuyết
khác, mặc dù chúng có quan hệ gần gũi với nó như chủ nghóa hiện sinh,
- 11 -
chú giải học, bản thể học…
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận chung
Hiện tượng học của Edmund Husserl với tư cách là một triết thuyết
thuộc hình thái ý thức xã hội phải được nghiên cứu theo phương pháp triết
học lòch sử. Hai nguyên tắc phương pháp luận được quán triệt là quan điểm
khách quan và quan điểm biện chứng. Quan điểm khách quan đòi hỏi các
khái niệm, phạm trù triết học được trình bày tương đối chuẩn xác, trung thực,
đúng như nó vốn có. Quan điểm biện chứng yêu cầu khi nắm bắt tài liệu,
thông tin phải thực hiện phân tích phê phán một cách biện chứng, thấy được
những mâu thuẫn của chính những luận đề mà tác gia chưa giải quyết, đồng
thời thấy được tính không đồng nhất về giá trò của hiện tượng học, nó tuỳ
thuộc vào những điều kiện lòch sử khác nhau (phương Tây, miền Nam Việt
Nam; thế giới và nước ta hiện nay).
4.2. Các phương pháp cụ thể
Việc tiếp cận học thuyết được thực hiện trên cơ sở phương pháp lôgic
và lòch sử kết hợp với phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống hoá,
để thấy được hiện tượng học có tính độc lập tương đối trong sự phát triển, có
lôgic nội tại và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lòch sử nhất
đònh, có sự kế thừa, ảnh hưởng qua lại với các khoa học khác.
Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương pháp
nghiên cứu lí thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên quan và
nghiên cứu tư liệu; phương pháp so sánh để thấy được nét tương đồng và dò
biệt khi phân tích diện mạo, đặc điểm và sự biến đổi của hiện tượng học;
phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia để tập hợp và đánh giá công trình
- 12 -
trước khi báo cáo khoa học.
5. Đóng góp mới của luận án
Lần đầu tiên ở nước ta, luận án hệ thống hoá và có luận giải mới về sự
ra đời và phát triển, đặc trưng và vai trò của hiện tượng học của Edmund
Husserl; về những tư tưởng, quan niệm mà Husserl kế thừa của quá khứ và
của thời đại thể hiện đồng kết dưới các phạm trù, nguyên lí tương đối chính
xác; quan niệm về sự tương liên giữa chủ thể và khách thể, ý thức và đối
tượng là một hình thức biểu hiện tư tưởng triết học chủ toàn của hiện tượng
học.
Luận án luận chứng tương đối đầy đủ về sự hiện diện của hiện tượng
học của Edmund Husserl ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam trước năm
1975, trước hết trên lónh vực học thuật. Trên cơ sở đó, làm sâu sắc hơn ý
nghóa của cuộc đấu tranh khắc phục tàn dư văn hoá phương Tây xâm nhập
vào nước ta trước đây và quá trình xây dựng nền văn hoá mới, khi thực hiện
việc hội nhập với các nước trong cộng đồng thế giới hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục công trình công bố của tác giả,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm có 3 chương, 9 tiết.
- 13 -
Chương 1
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HIỆN TƯNG HỌC
CỦA EDMUND HUSSERL
1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI HIỆN
TƯNG HỌC CỦA EDMUND HUSSERL
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Chủ nghóa tư bản xuất hiện trước tiên ở châu Âu, nhưng mãi đến nửa
đầu thế kỉ XIX, nó mới trở thành hệ thống áp đảo ở nhiều nước của châu lục
này. Sau đó là những bước tiến dài trên con đường khẳng đònh vò trí ưu thế
của nó. Một kỉ nguyên mới bắt đầu: kỉ nguyên của chủ nghóa duy lí, chủ
nghóa công nghiệp. Nhờ phát kiến nhiều nguồn năng lực mới và nhiều phát
minh khoa học, kó thuật, lí thuyết thực nghiệm được chứng thực đem đến sự hi
vọng hết mình của đông đảo người châu Âu vào những tiến bộ không ngừng.
Auguste Comte (1799-1857) đã làm một tổng hợp tương lai nhân loại và phân
kì lòch sử: thời kì thần học, thời kì siêu hình học, thời kì khoa học hay thực
nghiệm - còn gọi là tư tưởng duy lí về những sự kiện thực nghiệm và nghiên
cứu các đònh luật; đồng thời biểu lộ niềm tin lạc quan vào những tiến bộ của
khoa học và cống hiến của kó thuật. Lòng hâm mộ đó được hỗ trợ thêm bởi sự
phát triển kì diệu của công nghệ và các trào lưu triết học mới như thuyết duy
ích, thuyết duy vật tâm lí, thuyết duy dụng… Vào đầu thế kỉ XX, kỉ nguyên đó
ngày càng trở nên hưng thònh, đánh dấu thời kì chủ nghóa tư bản phương Tây
vượt qua thời kì cổ điển để bước sang thời kì hiện đại. Cuộc cách mạng công
- 14 -
nghiệp, và sau này là cách mạng khoa học và công nghệ, đã đẩy xã hội
phương Tây lên giai đoạn phát triển mới. Chủ nghóa tư bản chuyển biến mạnh
mẽ, khoa học tự nhiên phát triển nhanh chóng, sự tin phục của con người đối
với khoa học đã thay thế tín ngưỡng Kitô giáo, niềm tin về khả năng khoa học
và lí trí đem lại hạnh phúc cho con người chiếm lónh đời sống tinh thần của xã
hội. Khoa học và kó thuật không ngừng cải tiến, hứa hẹn và được đánh giá
như một sức mạnh vạn năng tạo nên cuộc sống vật chất và văn hoá có thể
thoả mãn mọi nhu cầu của con người và xã hội.
Thế kỉ XIX được xem là thế kỉ của những bùng nổ. Vào thế kỉ ấy,
người ta chứng kiến bao sự phát minh, phát kiến, đến nỗi người ta có viễn
tưởng thế giới giờ đây không còn kì lạ, biển cả không còn mênh mông, nhiều
lẽ huyền bí về sự vận hành của đất trời và vũ trụ đều được dần khám phá; bộ
máy nhà nước, thiết chế xã hội, cơ cấu kinh tế, tổ chức chính trò cũng phải
thay đổi cho tương hợp với thời đại. Những thập kỉ cuối thế kỉ này, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ hai đánh dấu bằng điện khí hoá lại nổ ra trong các
nước tư bản chủ nghóa. Không chỉ có thế, tài chính, ngân hàng cũng gia tăng
theo tốc độ khai thác nguồn lợi từ sản xuất và thò trường. Những phát minh
khoa học và kó thuật đã trở thành một nguồn lực của kinh tế - xã hội. “Thời
đại hoàng kim” của kinh tế tư bản chủ nghóa xuất hiện. Đứng trên đôi chân
đó, nhân loại như muốn vươn mình lên cái toàn thiện, toàn mó. Chủ nghóa
công nghiệp với chủ nghóa duy lí của nó đẩy sự phát triển lên đến đỉnh điểm.
Song, tại đây, sau khi lòch sử bước vào ngưỡng cửa của thế kỉ mới, từ trong sự
phát triển ấy đã nổ ra cuộc khủng hoảng: con người bò phi nhân cách, bò tha
hoá; tình trạng bất an xã hội ngày càng gia tăng.
Có thể nói, người đầu tiên đứng ra cảnh cáo lối thoả mãn cực đoan ấy
- 15 -
bằng cách đặt ra vấn đề giá trò của khoa học và kó thuật từ thế kỉ trước là Jean
Jacques Rousseau. Vào thời điểm đó, không ít người đã không thể hiểu nổi
những chỉ trích của ông, họ còn cho rằng ông phỉ báng khoa học và kó thuật.
Thực ra trường phái triết học hiện đại đầu tiên quan tâm đến vấn đề kó
thuật là học thuyết của Karl Marx. Vào thời Marx, kó thuật mới bắt đầu phát
triển và còn nằm trong tay của những nhà tư bản, nhưng không vì thế mà dự
kiến của Marx về kó thuật mất đi tính lạc quan. Theo Marx, tiến bộ kó thuật,
không chỉ là nguyên nhân mà còn là điều kiện của tiến bộ xã hội, là phương
tiện tốt nhất để giải phóng con người. Nhưng chính Marx, khi nghiên cứu sâu
chủ nghóa tư bản, đã sớm chỉ ra hậu quả này rằng:
… những máy móc có một sức mạnh kì diệu trong việc giảm bớt lao
động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả
hơn, thì đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người.
Những nguồn của cải mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do
một sức mạnh thần kì nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự
nghèo khổ. Những thắng lợi của kó thuật dường như đã được mua
bằng cái giá của sự suy đồi về tinh thần [64, tr. 10].
Tính duy lí của khoa học, chính trò, nhân sinh làm con người “bò hạ thấp
xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn thuần” [64, tr. 10], xã hội rơi vào
khủng hoảng. Rồi Chiến tranh thế giới xảy đến và kết thúc. Người ta phát
hiện khoa học không phải là vạn năng, sự phồn vinh vật chất đơn thuần chỉ có
thể tạo ra hạnh phúc giả tạo, biến con người thành nô lệ của máy móc. Đem
năng lượng nguyên tử ứng dụng vào việc chế tạo bom nguyên tử, rồi bao
nhiêu là vũ khí, phương tiện giết người hàng loạt khác, chứng tỏ hậu quả tai
hại của những kó thuật hiện đại nào đó. Khoa học và kó thuật ở một mặt nào
- 16 -
đó lại gắn với chiến tranh và tàn phá, chết chóc. Viễn tượng này đã được
Léonard de Vinci nhận ra từ nhiều thế kỉ trước đó, khi mà chủ nghóa tư bản
vừa được khai sinh, chính tay ông đã xé nát bức hoạ tàu lặn do mình vẽ ra, vì
cảm thấy nơi con người chứa bao nhẫn tâm và hiểm độc khiến cho việc ứng
dụng phát minh này vào mục đích đạo đức và nhân bản sẽ trở nên rất khó.
Nền văn minh phương Tây vào giai đoạn cuối cùng đã không ý thức
đến con người, tương quan xã hội đạt tới mức trừu tượng cao độ: người với
người trở thành tương quan giữa các bánh xe, mỗi người trở thành vô danh,
trừu tượng; tính chất chuyên môn hoá làm cho con người không còn là tế bào,
mà trở thành một chi tiết của cỗ máy, nói như tác giả của Kích thước nhân
bản hiện đại, Jean Laloup và Jean Nelis, người ta không cần con người có
một đời sống tế bào mà cần nó có sức chòu đựng của một bánh xe. Con người
thảng thốt trước “thời đại máy móc”, cơ hồ thấy mình biến thành con số vô
danh, những thẻ bài vô hồn. Nhân tính không còn nữa thay vào đó là cơ tính,
con người không tồn tại như một cá nhân, một nhân vò nữa. Chính Friedrich
Nietzsche, trước khi thế kỉ mới đến đã nhìn thấy, trong xã hội công nghiệp
hiện đại, cá nhân sẽ mất đi cá tính của mình, “cái tôi” mất phương hướng.
Ông cho rằng trong xã hội đó, con người trở thành cỗ máy đơn điệu, u buồn,
cái cá nhân của con người bò tiêu diệt, con người giống như “bãi cát” trầm
lặng [4, tr. 139]. Albert Einstein trong tiểu luận Thế giới như tôi thấy, đã phát
biểu những biểu hiện suy tàn thời kì ấy bắt nguồn từ “sự phát triển về kinh tế
và kó thuật đã khiến cho cuộc đấu tranh sinh tồn của con người ngày càng
thêm gay gắt, vì thế, sự phát triển tự do của cá nhân bò tổn hại nặng nề” [30,
tr. 26]. Kó thuật tuy đã đem lại sự thoả mãn đời sống vật chất và tinh thần của
đông đảo người, nhưng vì đạt đến mức chuyên môn cực đoan, nên chỉ hướng
- 17 -
con người vào một nhòp của quy trình, con người trở thành bộ phận vận hành
của cỗ máy. Nhân vò của con người bò đánh chìm trước sự chế ngự của máy
móc, tư duy con người vơi dần trước sự thỏa mãn dễ dàng nhu cầu vật chất.
Nhiều học giả không khỏi rùng mình trước những diễn tiến của văn minh kó
thuật và công nghệ.
Phải thừa nhận rằng, tương lai của nhân loại phụ thuộc không nhỏ vào
khoa học và kó thuật, vì nó cũng là một vũ khí phụng sự con người, nhưng
càng ngày sự lạc quan về nó càng giảm dần, ngược lại, sự nghi ngại về nguy
cơ tận diệt nhân loại của nó lại gia tăng. Cơ cấu xã hội bò lung lay đến tận
gốc rễ. Châu Âu lún sâu vào cuộc khủng hoảng tín ngưỡng và khủng hoảng
giá trò chưa từng có. Người châu Âu đau buồn, bàng hoàng, bế tắc trước sự đổ
nát của giá trò truyền thống.
Một loạt phong trào triết học, xã hội học nảy sinh chống lại chủ nghóa
công nghiệp, chủ nghóa duy lí, đề xướng nhiều chủ thuyết hòng tìm ra một
căn bản mới thoát khỏi sự khủng hoảng. Kierkegaad với những nỗ lực để xây
dựng lại Ki tô giáo, Nietzsche hoài vọng đặt con người trước vô minh, Husserl
với hiện tượng học nhằm “cứu vãn lí trí của con người”. Xuất phát từ niềm tin
sâu xa rằng, phương Tây đang rơi vào “khủng hoảng” như là “sự sụp đổ bề
ngoài của chủ nghóa duy lí” đánh mất phương hướng và mục đích thực sự của
nó. Tâm trạng đó của ông phản ánh một cách sâu sắc trong nhiều tác phẩm
được ông công bố, nhất là ở tác phẩm lớn cuối cùng, Triết học và cuộc khủng
hoảng của con người châu Âu.
Được đánh giá như một khám phá quan trọng về phương pháp luận của
triết học phương Tây, hiện tượng học của Edmund Husserl có ảnh hưởng đến
hầu hết các trào lưu triết học phi duy lí của thế kỉ XX. Trong một giới hạn